Thứ Sáu, 4 tháng 11, 2011

Bàn luận về mô hình Trung Hoa: Đối thoại giữa Fukuyama và Zhang Weiwei (I)


Bàn luận về mô hình Trung Hoa:
Đối thoại giữa Fukuyama và Zhang Weiwei (I)

Thu 2011
Francis Fukuyama là thành viên cao cấp tại Trung tâm mang tên Olivier Nomellini, thuộc Viện nghiên cứu các vấn đề quốc tế Freeman Spogli, Đại học Stanford, đồng thời là tác giả các cuốn sách nổi tiếng “Sự cáo chung của Lịch sử”; “Con người cuối cùng và cội nguồn của các trật tự chính trị”. Zhang Weiwei là giáo sư tại Đại học  Ngoại giao và quan hệ quốc tế Geneva, thành viên cao cấp tại Viện Chungqiu và giáo sư mời của Đại học Phục Đán, Trung Quốc. Ông cũng là tác giả của cuốn sách “Làn sóng Trung Hoa: sự trỗi dậy của một nhà nước văn hiến”.
Francis Fukuyama: Trong lịch sử thế giới, sự phát triển của nhà nước Trung Hoa có một tầm quan trọng đặc biệt. Ở Phương Tây, người ta quen mô tả sự phát triển của các thể chế theo những chuẩn mực dựa trên thực tiễn Châu Âu, trong khi đó lại quên một sự thật: Trung Hoa là nơi  đầu tiên mà nhà nước đã được hình  thành, tức là khoảng 1700 – 1800 năm sớm hơn Châu Âu.
Cho tới nay có 3 loại hình thể chế chính trị trên thế giới. Loại thứ nhất là nhà nước – một tổ chức được xây dựng theo cấu trúc thứ bậc có chức năng tập trung, thâu tóm và sử dụng quyền lực nhằm thực thi luật lệ trong một số lĩnh vực cụ thể. Xưa nay, nói đến nhà nước tức là nói đến năng lực buộc người dân phải thực thi luật lệ. Thế còn nhà nước hiện đại thì sao? Ở đây tôi dùng định nghĩa  của Max Webber cho rằng nhà nước hiện đại thì không dựa trên quan hệ bạn bè và gia đình. Việc  tuyển dụng vào làm việc không được căn cứ  vào mối quan hệ riêng với người nắm quyền lực. Thay vào đó, họ cần phải được đối xử khách quan với tư cách là những công dân có những khoảng cách nhất định đối với người cầm quyền. Điều này là đi ngược lại với các nhà nước thời xưa được điều hành bởi các mối quan hệ gia đình hay dòng tộc của kẻ cầm quyền.
Loại hình nhà nước thứ hai là thể chế pháp trị. Đó không phải chỉ đơn thuần là có luật pháp bởi lẽ mọi quốc gia đều có các bộ luật của mình, tuy nhiên ở đây luật phải phản ánh được sự đồng thuận về mặt đạo đức trong cộng đồng và phải  là mục tiêu cao hơn ý chí của bất kỳ cá nhân hay tập thể nào đang điều hành nhà nước. Nói cách khác, nếu như hoàng đế, tổng thống, vua hay thủ tướng mà soạn ra luật theo ý riêng của mình thì đó không phải là nhà nước pháp quyền. Thể chế pháp quyền đòi hỏi chính quyền ở cấp cao nhất cũng phải tuân thủ luật pháp.
Thể chế chính trị cuối được đặc trưng bởi nghĩa vụ  giải trình và chịu trách nhiệm chính trị, nơi mà chính phủ phải luôn có trách nhiệm trước nhân dân. Điều này hoàn toàn đối lập với tình trạng điều hành đất nước nhưng chỉ nhằm phục vụ các mục đích riêng của giới cầm quyền. Có rất nhiều quốc gia trên thế giới nơi mà những kẻ cầm quyền coi đất nước như phương tiện để làm giàu cho bản thân và gia tộc. Hiển nhiên đó không phải là những quốc gia có sự giải trình minh bạch. Ở Hoa kỳ và các nước Phương Tây chúng tôi liên kết tính giải trình và chịu trách nhiệm với các giá trị dân chủ. Tính giải trình và chịu trách nhiệm  chính trị luôn có ý nghĩa rộng hơn bầu cử dân chủ.

Hình thức giải trình và chịu trách nhiệm sơ khai đã hình thành ở Anh vào thế kỷ 17 khi mà Quốc vương phải giải trình trước quốc hội đại diện cho vẻn vẹn có 1% dân số Anh. Theo cách hiểu ngày nay thì không thể coi đó một hình thức dân chủ. Thế nhưng tôi tin rằng ở Trung Quốc mọi người đều biết phải có một sự giải trình và chịu trách nhiệm mang tính đạo đức, có nghĩa là chính quyền hoàn toàn không  phải giải trình và chịu trách nhiệm thông qua bầu cử nhưng phải  thấy  được trách nhiệm trước công chúng trên nền tảng của sự giáo dục và tu thân , rèn luyện theo tinh thần của các bậc hoàng đế và vua chúa. Điều này, theo tôi nghĩ mới chính là ý nghĩa bao trùm của sự giải trình và chịu trách nhiệm chính trị  ở Trung Quốc – đó là giải trình có nội dung và sắc thái đạo đức.
Nhà nước thì luôn có xu hướng tập trung quyền lực , còn thể chế pháp quyền và giải trình và chịu trách nhiệm chính trị thì lại đặt ra những hạn chế theo phương thức , đó là,  cho dù chính quyền có mạnh đến đâu chăng nữa thì nó vẫn phải được kiềm tỏa bởi pháp luật  và chịu trách nhiệm giải trình trước nhân dân.
Tôi đã phát biểu rằng nhà nước đầu tiên trên thế giới được thành lập ở Trung Quốc với một động cơ cũng tương tự như ở Châu Âu – đó là trước áp lực của cạnh tranh quân sự. Cả một giai đoạn dài  Xuân – Thu và Chiến quốc trong lịch sử cổ đại Trung Hoa đã có rất nhiều thế lực và thực thể chính trị Trung Hoa đấu nhau quyết liệt  suốt hơn 700 năm. Và chính áp lực cạnh tranh về quân sự đã buộc phải hình thành nên các thể chế chính trị hiện nay. Cần phải đánh  thuế và tuyển dụng nhân viên thu thuế cũng như cần khen thưởng công trạng. Nếu chỉ tuyển dụng trong số người thân và họ hàng thì chưa chắc đã có được những tướng lĩnh quân đội tài giỏi nhất và như vậy, khó có thể thắng trận.
Ngay từ thời nhà Tần -  triều đại đầu tiên đã thống nhất Trung Hoa, thì Trung Quốc đã phát triển một nhà nước có nhiều nét tương đồng với nhà nước hiện đại tới mức đáng ngạc nhiên
Các kỳ thi tuyển người làm quan được định kỳ tổ chức khi cần thiết bên cạnh một hệ thống quan liêu được sắp xếp  hợp lý theo tuyến  và quân đội tuy được bố trí trên một lãnh thổ rộng lớn nhưng được tổ chức chặt chẽ bởi những quy định chung. Sự ra đời của  nhà nước hiện đại nhưng lại diễn ra cách đây tới 2300 năm, tức là trước Công nguyên 231 năm rõ ràng là một thành tựu lịch sử vĩ đại.
Điều mà Trung Quốc đã không phát triển được đó chính là  thể chế chính trị pháp quyền và thể chế giải trình và chịu trách nhiệm  chính trị công khai. Nguyên nhân vì sao Trung Quốc không có thể chế pháp quyền lại nằm ở một đặc điểm lịch sử quan trọng: ở Trung Quốc không có một tôn giáo nào mang tính áp đảo. Cá nhân tôi vẫn cho rằng  ở đa số các quốc gia , thể chế pháp quyền được hình thành bên ngoài tôn giáo bởi lẽ tôn giáo thường đóng vai trò như ngọn nguồn của những quy định đạo đức và được trông nom bởi một trật tự thứ bậc có tính pháp lý riêng biệt – đó là  tòa án tôn giáo với các thẩm phán, hội đồng xét xử và linh mục. Điều này là có thực ở Do thái Israel cổ đại, Phương Tây Thiên Chúa giáo, Ấn độ Hồi giáo và Hindu. Trong các xã hội đó mặc nhiên đã hình thành những  ràng buộc pháp lý mang dấu ấn tôn giáo đối với các đại diện chính quyền .Tuy nhiên Trung Quốc đã không có được sự hỗ trợ tôn giáo độc lập như vậy và nó cũng vắng mặt  trong truyền thống Trung Hoa. Bởi lẽ đó  sự giải trình và chịu trách nhiệm  một cách dân chủ dân chủ  đã không xảy ra nơi đây, dù chỉ là hình thức.
Phương Tây lại phát triển theo cách hoàn toàn khác. Dưới thời phong kiến ở Châu Âu đã bắt đầu có hình thái pháp quyền. Nhà thờ Thiên chúa giáo đã phát minh ra Bộ Luật vào thế kỷ 11, tức là trước cả khi ra đời nhà nước Châu Âu kiểu cận đại. Các vị vua, chúa ở Âu châu cũng giống như vua chúa ở Trung Hoa đã khởi đầu một quá trình hình thành nên những nhà nước tập trung, quan liêu hùng mạnh vào thế kỷ 16 và 17. Tuy nhiên họ đã làm những điều đi ngược với nền tảng được tạo nên bởi các ràng buộc pháp luật (mang dấu ấn tôn giáo – ND) từng hạn chế khả năng tập trung quyền lực của họ.
Cội nguồn của dân chủ Phương Tây là sản phẩm của những ngẫu nhiên lịch sử. Tất cả các quốc gia Âu châu phong kiến thời trung cổ đều có hình thức định chế có tên gọi là nghị viện, quốc hội hay tòa án tối cao. Đó là những cơ quan mà Vua chúa phải cần đến khi họ muốn tăng thuế. Ở Anh quốc, nghị viện trên thực tế đã tỏ ra hữu hiệu , mạnh mẽ và đã tuyên chiến với Vua. Vua James II đã bị lật đổ năm 1688 và sau đó nghị viện đã chọn ra một vua khác để thay thế. Bởi vậy, ý tưởng về một sự giải trình và chịu trách nhiệm trước một nghị viện được bầu ra thực chất đã có từ thời cuộc cách  mạng vẻ vang năm 1688. Xét theo nhiều góc độ, sự ra đời của dân chủ ở Âu châu là kết quả của những diễn biến tại  Anh. Ở một mức độ nhất định, điều này rất đáng được ghi nhận bởi lẽ thể chế pháp quyền và sự giải trình đã đặt nền móng vững chắc cho chế độ bảo vệ tác quyền ở Anh , sự phát triển kinh tế mạnh mẽ và sự trỗi đậy của chủ nghĩa tư bản và cách mạng công nghiệp.
Ở Phương Tây ngày nay chúng ta có thể nhận thức được một số cơ sở của thể chế quản trị  xã hội. Hiển nhiên có rất nhiều sự khác biệt giữa Phương Tây và Trung Quốc. Trung Quốc ngày nay là do ĐCS lãnh đạo dựa trên học thuyết Marxism mà không phải là tư tưởng Khổng giáo. Nhưng ở nhiều khía cạnh khác , cơ cấu quản trị xã hội ở Trung Quốc ngày nay lại rất giống với những gì đã từng tồn tại dưới triều đại Tần Thủy Hoàng. Đó là một chính phủ quan liêu tập trung có chất lượng cao được xây dựng trên sự tuyển chọn khách quan và các luật lệ mang tính hình thức. Bối cảnh lịch sử là như vậy.
Bây giờ cho phép tôi được trình bày về mô hình Trung Quốc. Vậy mô hình này đã được hình thành như thế nào? điểm mạnh và yếu của nó ra sao? và hệ thống Trung Hoa thuộc vào loại hệ thống kiểu gì?
Đặc điểm đầu tiên đó là một chính phủ tập trung, quan liêu và toàn trị. Di sản đó được truyền lại từ thời xa xưa trong lịch sử Trung Hoa khi mà chính quyền đã đạt được mức độ thể chế hóa cao trong nội bộ cũng như đối với bộ máy quan liêu rất phức tạp có chức năng cai quản cả một xã hội rộng lớn. Ngày nay trong chính phủ Trung Quốc tính giải trình và chịu trách nhiệm chủ yếu được thực hiện  theo chiều từ  cấp dưới lên cấp trên trong hệ thống do ĐCS lãnh đạo, thay vì Hoàng đế hay vua như trước kia. Đó là cách thể hiện tính giải trình và chịu trách nhiệm của hệ thống này.
Nếu anh là một quan chức và chính phủ muốn trừng phạt anh thì họ có thể bắt anh phải giải trình và chịu trách nhiệm. Tuy nhiên lại không có sự giải trình theo chiều từ trên xuống dưới để cho thấy cấp trên sẽ chịu trách nhiệm ra sao đối với những người  bị lãnh đạo ở cấp dưới. Tình trạng này đối lập với tính giải trình và chịu trách nhiệm thực hiện theo quy trình thông qua bầu cử dân chủ. Đó là tính giải trình và chịu trách nhiệm dân chủ hiện nay.
Tính giải trình và chịu trách nhiệm của Trung Quốc mang nội dung đạo đức nhiều hơn là thủ tục. Tính chịu trách nhiệm về đạo đức có nghĩa là người lãnh đạo phải biết cảm nhận về trách nhiệm đạo đức của mình trước người dân . Nếu các bạn quan sát trên thế giới các chế độ toàn trị hiện đại khá thành công thì sẽ thấy chúng đều tập trung ở Đông Á, chẳng hạn như Hàn quốc, Đài loan dưới thời Quốc dân đảng, Singapore dưới thời Lý quang Diệu, Nhật bản trong giai đoạn đầu của sự phát triển tư bản , khi chưa có dân chủ, và tất nhiên cả nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa nữa.
Nói cách khác, kiểu giải trình và chịu trách nhiệm này hoặc ít hoặc nhiều là một nội hàm của văn hóa Trung Hoa, bởi lẽ theo Khổng giáo thì chịu trách nhiệm về đạo đức là một truyền thống. Cũng có nhiều chính quyền toàn trị nơi mà kẻ cầm quyền cho rằng làm chính trị có nghĩa là lấy của cải từ người khác về cho gia đình mình hoặc bạn bè. Thế nhưng Trung Quốc không có truyền thống đó.
Yếu tố thứ hai trong mô hình Trung Hoa đó là kinh tế. Ở đây tôi không cho rằng Trung Quốc khác các quốc gia tăng trưởng nhanh ở Đông Á nhiều . Cũng như họ, mô hình Trung Quốc dựa trên định hướng xuất khẩu và vai trò tích cực của các chính sách của nhà nước nhằm hỗ trợ quá trình công nghiệp hóa.Tuy vậy, cũng có một số khác biệt trong chính sách của Hàn quốc và Nhật bản. Đối với trường hợp Trung Quốc thì chính sách công nghiệp không đặt ra các mục tiêu một cách rõ ràng lắm, ví dụ như chỉ tiêu cho các ngành bán dẫn, thép hay đóng tàu. Nói chung, chính phủ Trung Quốc chú trọng nhiều hơn tới các phương tiện hạ tầng cơ sở , tài chính, đồng thời áp dụng một chế độ tỷ giá giúp cho xuất khẩu của Trung Quốc cạnh tranh,  hơn là lựa chọn những người chiến thắng trong thi đua kinh tế. Tuy nhiên, Trung Quốc không nghiêng về xu hướng dựa hoàn toàn vào kinh tế thị trường trong quá trình phát triển của mình. (tức là vẫn dựa chủ yếu vào khu vực doanh nghiệp nhà nước – ND )
Yếu tố tiếp theo trong mô hình Trung Quốc đó là một hệ thống an sinh xã hội khá khiêm tốn nếu như so sánh với các nước phát triển, cụ thể là Tây Âu và Scandinavia (là các nước theo  xu hướng Xã hội Dân chủ kiểu Bắc Âu có một số điểm gần với  CNXH – ND). Trung Quốc cố gắng đạt mức đảm bảo việc làm cao với khởi điểm ban đầu khá thấp. Vẫn còn nhiều việc phải làm để giúp những người nghèo và giảm bớt sự cách biệt về của cải cho dù về danh nghĩa Trung Quốc vẫn là một xã hội Marxist. Một trong những kết quả phát triển của Trung Quốc đó là hệ số Gini  mà các nhà kinh tế dùng để đo độ bất bình đẳng đang có xu hướng tăng nhanh trong mấy thế hệ gần đây. Rõ ràng là chính phủ Trung Quốc thừa nhận đó là một vấn đề. Sự chênh lệch về mức sống giữa thành thị , chẳng hạn như Thượng hải và các vùng nội địa quả là rất lớn. Các nước Bắc Âu , ví dụ như Đan mạch, Nauy là những quốc gia có chế độ an sinh phát triển đã hỗ trợ các gia đình có thu nhập thấp trong khi đó Trung Quốc làm được rất ít trong lĩnh vực này.
Bây giờ hãy thử so sánh hai thể chế vừa nêu để thấy những ưu  và nhược điểm  của chúng. Một bên là mô hình Trung Quốc, còn bên kia là mô hình dân chủ tự do được hiện thân bởi các quốc gia dân chủ như Anh, Mỹ, Pháp,Italy và một số các nước đang phát triển , ví dụ như Ấn độ.
Mô hình Trung Quốc có những ưu điểm cơ bản , một trong số đó là quá trình ra quyết định . Đứng về góc độ này thì sự khác biệt giữa Trung Quốc và Ấn độ là quá rõ ràng. Trung Quốc rất mạnh trong lĩnh vực xây dựng  cơ sở hạ tầng : sân bay lớn, đường sắt cao tốc,cầu và đê đập nhờ vào cơ cấu chính quyền tập trung nên có thể thực hiện nhanh hơn các dự án đó. Ấn độ là một đất nước vùng nhiệt đới sẵn mưa nhưng hạ tầng cơ sở của thủy điện lại kém xa Trung Quốc. Tại sao vậy ? Câu trả lời là : bởi vì Ấn độ là đất nước có chính phủ dân chủ  đặt nền móng trên pháp luật.
Khi mà Trung Quốc xây đập Tam hiệp thì đã rất nhiều ý kiến phê phán và chống đối, tuy nhiên chính phủ vẫn cứ làm theo ý định riêng của mình. Trái lại, mấy năm trước, công ty Tata auto dự tính xây một nhà máy sản xuất ôtô ở Tây Bangalore và đã gây nên những cuộc biểu tình phản đối, bãi công và thậm chí các công đoàn và tổ chức nông dân còn đâm đơn kiện. Cuối cùng thì ý tưởng đó đã phải hủy bỏ trước sự phản kháng chính trị mạnh mẽ.
Quả thực trong một số quyết định kinh tế, hệ thống độc đoán kiểu Trung Quốc đã tỏ rõ ưu điểm của mình. Trong trường hợp của Mỹ, chúng tôi có một chính phủ hoạt động theo luật pháp và chịu trách nhiệm giải trình trước các cử tri . Tuy không đến nỗi tồi tệ như Ấn độ trong quá trình ra quyết định nhưng chúng tôi cũng có những vấn đề trong hệ thống chính trị của mình, ví dụ như thâm hụt ngân sách dài hạn.  Bất cứ chuyên gia nào cũng đều biết rằng tình trạng thâm hụt ngân sách làm cho nền kinh tế thiếu bền vững và sẽ còn tồi tệ hơn dưới tác động của cuộc khủng hoảng tài chính hiện nay. Thế nhưng hệ thống chính trị hiện nay của chúng tôi đang bị tê liệt trong việc ra quyết định bởi vì còn vướng vào chuyện đối đầu giữa hai đảng Cộng hòa và Dân chủ.
Các nhóm lợi ích của chúng tôi rất mạnh và có khả năng phong tỏa một số quyết định. Ngay cả khi các quyết định đó là hợp lý xét về dài hạn nhưng cuối cùng lại không được chấp thuận,  đơn giản chỉ vì gặp phải sự chống đối của một số nhóm lợi ích khác. Đó là một vấn đề đau đầu mà nước Mỹ đang gặp phải. Nếu chúng ta có khả năng thay đổi tình trạng bế tắc này trong một vài năm tới thì mới có thể khẳng định rằng hệ thống dân chủ của Mỹ sẽ thành công trong tương lai dài hạn.
Trung Quốc có rất nhiều ưu điểm khác không bắt nguồn từ lịch sử và văn hóa. So với thế hệ trước, người Trung Quốc hiện nay tương đối ít bị hệ tư tưởng chi phối và chính phủ cũng đã thử nghiệm nhiều đổi mới. Những đổi mới này nếu hiệu quả sẽ được đưa vào áp dụng, còn nếu không , sẽ bị loại bỏ. Trong khi đó chính phủ Mỹ lại cứng nhắc trong việc ra các quyết định kinh tế. Mặc dù Hoa kỳ được coi là rất thực dụng và có ý chí thử nghiệm những cái mới, nhưng tôi lại không chia sẻ cách nhìn nhận đó.
Vậy là hệ thống Trung Quốc có nhiều ưu điểm. Tuy nhiên giờ đây  cần đặt ra câu hỏi  về sự bền vững của nó. Sau cuộc khủng hoảng tài chính, Trung Quốc đã hành động có hiệu quả còn Hoa kỳ thì còn đang trầy trật vật lộn với thâm hụt ngân sách. Thế nhưng hệ thống nào sẽ bền vững trong hai đến ba thập niên sắp tới ? Sự ưu tiên của tôi vẫn sẽ dành cho hệ thống Hoa kỳ hơn là hệ thống Trung Quốc.
Có một số vấn đề thu hút sự quan tâm của chúng ta đến hệ thống chính trị Trung Quốc. Đầu tiên, đó là sự thiếu tính giải trình và chịu trách nhiệm của cấp trên đối với cấp dưới. Nếu các bạn nhìn vào lịch sử các triều đại Trung Hoa thì điều thường thấy đó là hệ thống tập trung quan liêu đó luôn thiếu thông tin và kiến thức về xã hội bên ngoài dẫn đến kết cục là một sự quản trị kém hiệu quả. Đặc tính quan liêu luôn mang lại tình trạng tham nhũng và điều hành yếu kém. Trong chừng mực nào đấy,vấn đề này vẫn còn ở Trung Quốc hiện nay.
Tất nhiên là có nhiều cơ hội để thu thập thông tin, chẳng hạn như chúng ta  vẫn dùng Internet và nhiều hình thức công nghệ truyền thông hiện đại để làm việc này. Tuy nhiên vấn đề lại chính ở chỗ liệu chính quyền có khả năng đáp ứng  nguyện vọng  và tình cảm của quần chúng cũng như  tôn trọng ý kiến của họ về cách quản trị xã hội hay không. Do vậy, tính giải trình và chịu trách nhiệm đối với quần chúng cần phải được thể chế hóa thông qua bầu cử để làm sao các nhà lãnh đạo luôn có cảm giác biết sợ. Nếu họ không làm việc đúng đắn thì họ sẽ không được bầu nữa.
Vấn đề thứ hai tuy không còn tồn tại trong hệ thống Trung Hoa nhưng vẫn thu hút sự quan tâm, đó là câu truyện muôn thưở về “ ngụy vương” ( hay ông vua tồi tệ, kém cỏi – ND ) trong lịch sử Trung Quốc.  Không có gì phải nghi ngờ khi bộ máy chính quyền có các quan chức được đào tạo tử tế, đủ năng lực hoặc những chuyên gia kỹ thuật đáp ứng nhu cầu xã hội thì sẽ hiệu quả hơn một chính quyền dân chủ trong ngắn hạn. Có  được một vị “ vua anh minh”  chưa thể đảm bảo rằng sẽ không còn “ ngụy vương” xuất hiện sau này. Chưa có hệ thống giải trình và chịu trách nhiệm để thay thế “ngụy vương” một khi con người này  xuất hiện , và làm sao có thể tìm được một vị “vua anh minh”? Và có cách nào để đảm bảo rằng vị vua anh minh sẽ giúp tái hiện những vị  vua anh minh nối tiếp  hết thế hệ này sang thế hệ khác ? Không có lời giải sẵn cho những câu hỏi này.
Còn một vấn đề khác nữa trong mô hình kinh tế. Mô hình hướng vào xuất khẩu là phù hợp với Trung Quốc khi nền kinh tế quốc gia còn nhỏ nhưng nó sẽ phải thay đổi để trở nên một hệ thống phù hợp và hiệu quả để đuổi kịp các nước đã công nghiệp hóa. Hiện nay Trung Quốc đã là nền kinh tế đứng thứ hai thế giới thì mô hình hướng vào xuất khẩu đơn giản là không thể tiếp tục được nữa.
Chúng ta nhận thức rõ rằng mô hình kinh tế dựa trên nợ tiêu dùng ở Mỹ và Châu Âu cũng không bền vững và điều này đã được cuộc khủng hoảng tài chính hiện nay chứng minh là đúng. Và còn nhiều vấn đề khác đang ngổn ngang, ví dụ như hệ thống Trung Quốc bị lệ thuộc nặng nề vào “sự kiềm chế tài chính” – hay nói cách khác là mức tiết kiệm chi tiêu cao sẽ dẫn đến suy giảm hiệu quả của thị trường. Bởi vậy tôi cho rằng cần phải xem xét lại mô hình kinh tế này trong dài hạn.
Điểm cuối cùng mà tôi muốn nhấn mạnh ở đây, đó là vấn đề đạo đức. Tôi cho rằng chính phủ cần phải làm nhiều hơn là đưa ra những chính sách kinh tế đúng đắn. Ngay cả khi chính phủ có thể đảm bảo một sự tăng trưởng kinh tế trong dài hạn thì đó hoàn toàn chưa thể coi là mục tiêu tối thượng. Chính phủ còn có những yêu cầu về mặt đạo đức cần đáp ứng . Ngay cả khi một hệ thống có khả năng đáp ứng đời sống vật chất dư giả cho các công dân nhưng nếu họ không thể tham gia vào quá trình phân phối của cải xã hội hoặc không được tôn trọng nhân phẩm đầy đủ thì sẽ có nhiều vấn đề phát sinh. Mùa xuân năm nay tại các nước vùng Trung đông , chúng ta đã chứng kiến một chuỗi các cuộc nổi dậy chống lại các chính phủ độc tài. Suy rộng ra, điều này cho thấy rằng quần chúng đòi hỏi được tôn trọng phẩm giá . Cuối cùng thì tôi vẫn không nghĩ rằng sự thành công chỉ phụ thuộc vào một mô hình này hay mô hình khác, và có lẽ tôi là người đầu tiên thú nhận rằng ngay cả hệ thống dân chủ của Mỹ thực sự cũng có nhiều vấn đề cần giải quyết.

Phạm Gia Minh dịch từ  New Perspective Quaterly Vol 28. Fall 2011 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét