1979: Một cuộc chiến đẫm máu, bị cố chôn vùi từ hai phía
Ghi nhớ cuộc xâm lược của Trung Cộng vào Việt Nam
Trong cuốn tiểu thuyết “Những người đồng đội đoàn tụ” (战友重逢) xuất bản năm 2001 của người đoạt giải Nobel Mo Yan (Mạc Ngôn), một binh sĩ Trung Quốc – Qian Yinghao – đã thú nhận tham vọng trở thành anh hùng thời chiến hơn là người lính thời bình. Kết quả là ông rất phấn khởi khi được đưa ra tiền tuyến – trong sự tuyên truyền của Bắc Kinh về cái gọi là “cuộc phản công tự vệ” chống lại bọn xâm lược Việt Nam. Một cuộc chiến mà cả hai bên đều sử dụng vũ khí Trung Quốc. Người lính Qian Yinghao đã mơ mộng về cuộc chiến: Sống sót trở về sẽ mang theo vinh quang; còn nếu bị giết, cha mẹ nghèo khó của anh ta sẽ có thêm tiền cấp dưỡng.Tuy nhiên, chả có vinh quang nào, anh lính Trung Quốc ấy đã chết mà không hề nhìn thấy kẻ thù nào ở phía Nam. Anh và nhiều hồn ma khác chợt nhận ra rằng trong cuộc chiến này, hầu hết binh lính đều chết trong im lặng và chỉ một số ít được tôn vinh là anh hùng. “Hầu hết những người như bạn và tôi đều chết trong vô danh. Có người lính chết cóng, có người chết đói, có người chết đuối dưới sông, có người bị chó cắn, có người chết vì bệnh tật…”
Đáp lại, người đồng đội của anh nói: “Tôi buồn cho anh, không phải vì anh chết mà vì anh chết một cách oan uổng. Ông có tài quân sự, thể lực tốt, đầu óc minh mẫn và có đức tính anh hùng, nhưng đã chết một cách lặng lẽ.”
Cuốn tiểu thuyết cũng mô tả những tiếng kêu nhức nhối từ hồn ma của những người lính Trung Quốc thiệt mạng trong cuộc chiến năm 1979, vào lúc nghe tin hai kẻ thù Trung – Việt đột nhiên bình thường hóa quan hệ. Mối quan hệ ngoại giao này khiến những người được lệnh bảo vệ đất nước của họ trở nên vô hình. Tâm hồn họ không thể bình yên ngay cả khi chết.
Đằng sau cuốn sách của Mạc Ngôn là một sự thật: Ở Trung Quốc, các cựu chiến binh và gia đình của những người lính tử trận không có chỗ để thương tiếc những người đã ngã xuống trong cuộc chiến tranh Trung-Việt, vốn được cố ý che đậy. Mạc Ngôn đành phải dùng đến tiểu thuyết văn học để phá vỡ sự im lặng, vì công luận không được phép tranh luận công khai về cuộc chiến tranh hủy diệt này.
Trên trang web của Bộ Ngoại giao Trung Quốc, bài tổng quan về quan hệ Trung Quốc-Việt Nam chỉ đề cập đến việc quan hệ này xuống dốc trong khoảng thời gian từ những năm 1980 đến những năm 1990, chứ không nêu rõ nguyên nhân đằng sau sự gián đoạn. không có thông tin rõ đề cập đến cuộc chiến này.
Trong khi Trung Quốc đề cập đến các cuộc chiến tranh biên giới khác nhau của mình trong các bối cảnh khác – bao gồm cả cuộc chiến tranh Trung-Ấn năm 1962, được biết đến trong tiếng Trung là “cuộc phản công biên giới tự vệ chống lại Ấn Độ” (中印边境自卫反击) và cuộc chiến tranh Trung-Nga năm 1969, được gọi theo cách khác như “cuộc phản công tự vệ tại đảo Bảo Chấn” (珍宝岛自卫反击战), nó hầu như không đề cập đến cái gọi là “cuộc phản công tự vệ chống lại Việt Nam” (对越自卫反击战), tên của Trung Quốc dành cho cuộc chiến Trung-Việt.
Cuộc chiến bất ngờ, ngắn ngủi và đẫm máu giữa những đồng chí
Năm 1950, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa – khi đó mới được một tuổi – là nước đầu tiên công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) lãnh đạo. Việt Nam cũng là một trong những nước đầu tiên công nhận nước CHND Trung Hoa do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Mối quan hệ giữa các đảng vẫn là trọng tâm trong mối quan hệ.
Trung Quốc là nhà cung cấp viện trợ lớn nhất cho miền Bắc Việt Nam trong cuộc chiến chống lại quân đội Pháp và Mỹ. Tuy nhiên, sự hỗ trợ thời chiến này không bao giờ là vô điều kiện. Kể từ năm 1965, viện trợ của Trung Quốc phụ thuộc vào sự thỏa hiệp về chính trị và ý thức hệ của Hà Nội: Việt Nam sẽ phải công nhận vai trò lãnh đạo của Trung Quốc ở Đông Dương và sự tham gia vào công việc đối ngoại của Việt Nam, bao gồm cả việc tiếp nhận viện trợ tinh vi của Liên Xô. Trong khi Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) cung cấp vũ khí cho Việt Nam thì Liên Xô lại đề nghị hỗ trợ trên diện rộng.
Tuy nhiên, dưới sự lãnh đạo của Tổng Bí thư thân Liên Xô Lê Duẩn, Việt Nam dần dần xa rời Trung Quốc. Các cuộc giao tranh ở biên giới với Trung Quốc bắt đầu từ năm 1973 trở đi. Số vụ đụng độ biên giới Trung-Việt tăng gấp 4 lần từ 100 vụ năm 1974, lên 400 vụ năm 1975, và tăng lên 900 vụ năm 1976.
Vào giữa năm 1976, Hà Nội đưa ra chính sách đồng hóa Trung Quốc ở Việt Nam và bắt đầu quốc hữu hóa các “doanh nghiệp” thuộc sở hữu của cái mà họ cho là “giai cấp tư sản tư bản” ở miền Nam Việt Nam, những người được cho là đang đe dọa quá trình chuyển đổi xã hội chủ nghĩa của Việt Nam. Chính sách này chủ yếu nhắm vào người Hoa (dân tộc Hoa) – một nhóm thiểu số đặc quyền ở Việt Nam.
Ngoài ra, vào những năm 1970, Hà Nội cũng can thiệp vào chương trình giảng dạy tại các trường học của người Hoa ở miền Bắc Việt Nam, cấm nội dung được coi là biểu hiện của “chủ nghĩa dân tộc duy tâm phản động”. Chế độ Hà Nội cáo buộc Bắc Kinh lợi dụng vấn đề người Hoa, phần lớn tập trung ở vùng biên giới, để phá hoại xã hội Việt Nam. Cuộc di cư lớn của người Hoa trở lại Trung Quốc năm 1978 là lý do chính thức khiến Bắc Kinh chấm dứt viện trợ cho Việt Nam.
Với việc Việt Nam lựa chọn xích lại gần hơn với Liên Xô, Trung Quốc trở nên ít có khả năng can thiệp và tác động đến các quyết định của Hà Nội. Như nhà lãnh đạo Trung Quốc lúc bấy giờ, Đặng Tiểu Bình, đã giải thích về cuộc xâm lược năm 1979: “Việt Nam là một đứa trẻ không nghe lời và cần phải bị đánh đòn”.
Cuộc chiến khiến Việt Nam mất cảnh giác, vì Đặng đã đồng ý với Lê Duẩn vào năm 1977 để bắt đầu đàm phán về các vấn đề biên giới. Ba vòng đàm phán mà Việt Nam khởi xướng năm 1979 với phía Trung Quốc đã không thành công. Trong khi đó, bất đồng về vấn đề Campuchia cũng gây ra căng thẳng. Việt Nam ủng hộ chính phủ nước này đã thành lập ở Phnom Penh sau cuộc xâm lược vào tháng 12 năm 1978, trong khi Trung Quốc ủng hộ liên minh du kích ba bên, trong đó có Khmer Đỏ.
Đặng đã phát động một cuộc chiến tranh lớn chống lại Việt Nam vài ngày sau chuyến đi đến Hoa Kỳ, Nhật Bản và một số nước Đông Nam Á.
Theo cuốn sách “Cuộc chiến lâu dài của Đặng Tiểu Bình: Xung đột quân sự giữa Trung Quốc và Việt Nam, 1979-1991” của Xiaoming Zhang, cuộc chiến gồm ba giai đoạn: Giai đoạn thứ nhất (từ ngày 17 đến 25/2/1979) quân Trung Quốc chiếm thành công thị xã Cao Bằng, Lào Cai và một số thị xã biên giới Lạng Sơn. Giai đoạn thứ hai (từ ngày 26 tháng 2 đến ngày 5 tháng 3) là chiến dịch đánh Lạng Sơn và các vùng lân cận ở phía đông, Sa Pa và Phong Thổ ở phía tây bắc. Giai đoạn cuối cùng (đến ngày 16/3) nhằm đánh bại lực lượng còn lại của Việt Nam đồng thời tiêu diệt các cơ sở quân sự ở khu vực biên giới.
Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA), tuy có kinh nghiệm chiến đấu khá lớn nhưng thiếu kinh nghiệm chiến đấu so với quân đội Việt Nam đang trải qua thực chiến, đã rút lui nhanh chóng. Trong khi cuộc xung đột vũ trang lớn kéo dài chưa đầy một tháng, giao tranh vẫn tiếp tục diễn ra trong suốt những năm 1980.
Tuyên truyền trong nước của Trung Quốc về chiến tranh
Theo quan điểm của Bắc Kinh, hành vi sai trái của Việt Nam đối với Trung Quốc sau năm 1975, thể hiện qua tranh chấp biên giới và chính sách chống Hoa, đã phản bội nguyên tắc cơ bản của quan hệ anh em Trung-Việt. Theo cuốn sách năm 2011 “Chiến tranh trừng phạt: Quân giải phóng kích hoạt các hoạt động phòng vệ chống Việt Nam” của Wang Lili, ý định trừng phạt đã được Đặng bày tỏ trong chuyến thăm Nhật Bản năm 1978: “Trung Quốc cần phải trừng phạt mạnh mẽ Việt Nam ” bởi vì “Trung Quốc không thể chịu đựng được nữa.”
Với chiến tranh, Trung Quốc tìm cách củng cố quan điểm lấy Trung Quốc làm trung tâm của thế giới, vốn coi các quốc gia nhỏ ở ngoại vi Trung Quốc, bao gồm cả Việt Nam, là thấp kém và nằm trong quỹ đạo chính đáng chịu ảnh hưởng của Trung Quốc. Sự bất cân xứng về quy mô và sức mạnh đã định hình mối quan hệ giữa hai nước trong nhiều thế kỷ. Trong quá khứ, các nhà nuớc phong kiến Việt Nam tự xưng là hoàng đế trong nước, nhưng ra vẻ tôn kính với các hoàng đế phương Bắc – mặc dù đã đánh dập thẳng vào mặt họ về mặt quân sự. Sự “vô ơn” của Việt Nam đối với viện trợ trị giá khoảng 20 tỷ USD của Trung Quốc, sự “xấc xược” và thậm chí không phục tùng của Việt Nam đã báo hiệu sự từ chối tiếp tục tuân thủ mệnh lệnh do Trung Quốc áp đặt.
Kết quả là Đặng, kiến trúc sư trưởng của cuộc chiến chớp nhoáng, muốn dạy cho “người em đồng chí” một bài học. Tuy nhiên ngược lại, Đặng và Trung Quốc cũng đã học được nhiều bài học đắt giá, mặc dù chiến tranh không gây ra những hậu quả quốc tế đáng kể cho Trung Quốc. Đây chắc chắn không phải là một điều được ca ngợi trong lịch sử của PLA, lực lượng đã huy động hơn 1/4 quân đội dã chiến của mình hoặc tổng cộng hơn 320.000 quân nhưng hầu như không có tác dụng gì.
Sự giận dữ của Đặng đến mức ông quyết tâm củng cố quân đội. Trong vài năm tiếp theo, hàng trăm ngàn lính nghĩa vụ dưới mức bình thường đã bị đưa về nước.
Để tăng thêm nỗi đau cho người đồng chí, Đặng đẩy mạnh nỗ lực tiến gần đến Hoa Kỳ. Liên minh ngầm của Đặng với Mỹ được nhiều người coi là một thắng lợi trong quan hệ công chúng. Nhưng Hoa Kỳ không chọn chơi riêng với Đặng mà vào giai đoạn đó, đồng thời kêu gọi Việt Nam rút khỏi Campuchia và Trung Quốc rút khỏi Việt Nam, đi ngược lại mong đợi của Đặng. Thêm vào đó, Hoa Kỳ thậm chí còn chấp thuận bán vũ khí cho Đài Loan, mặc dù đã bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc.
Xuyên suốt lịch sử, Trung Quốc luôn tự miêu tả mình là bất khả chiến bại trong chiến trận nhưng cũng dễ bị tổn thương trước các cuộc tấn công từ bên ngoài. Việc mô tả Trung Quốc là nước phát động chiến tranh sẽ đi ngược lại tuyên truyền của họ về sự lãnh đạo tập trung vào hòa bình của các nhà lãnh đạo của họ. Là một nhà lãnh đạo thực dụng, Đặng giờ khẩu hiệu ủng hộ hòa bình và phát triển, không giống như Mao, người ủng hộ chiến tranh và cách mạng.
Các nhà lãnh đạo Trung Quốc luôn miêu tả Trung Quốc là nước nhân từ ủng hộ không xung đột, không đối đầu, tôn trọng lẫn nhau, hợp tác cùng có lợi, hòa hợp và công lý. Nhưng rõ là cho phép minh bạch về cuộc chiến sẽ là một sự mất mặt lớn đối với Trung Quốc, sẽ cho thấy Bắc Kinh không chỉ là kẻ thua cuộc lớn, mà còn là kẻ nói dối lớn. Đó là một cuộc tấn công quân sự được tính toán kỹ lưỡng và được dàn dựng chi tiết, với Đặng là tổng tư lệnh, thay vì chỉ là một cuộc chiến tranh phản ứng để tự vệ, như Trung Quốc đã tuyên truyền mô tả.
ĐCSTQ luôn mô tả mình là người chiến thắng trong một cuộc chiến chớp nhoáng. Thực tế u ám, bao gồm cả thương vong lớn, đã được che giấu để vẽ nên bức tranh chiến thắng hoan hỉ. Ngoài ra, Trung Quốc còn rao giảng cho người dân của mình rằng cuộc phản công tự vệ không chỉ nhằm bảo vệ chủ quyền đất nước mà còn hoàn thành sứ mệnh quốc tế của mình: bảo vệ những người bạn Campuchia trong cuộc chiến chống Việt Nam, chống lại quyền bá chủ toàn cầu của Liên Xô và Tham vọng bá chủ khu vực của Việt Nam Tuy nhiên, cuộc chiến tranh giáo điều đó đã thất bại trong việc buộc Việt Nam rút quân khỏi Campuchia. Ngoài Hiệp ước thân thiện với Liên Xô, Đảng Cộng sản Việt Nam đảy mạnh tuyên truyền về mối quan hệ đặc biệt giữa ba nước Đông Dương.
Ngoài ra, Trung Quốc cũng không vô tội trong cuộc di cư của người Hoa ra khỏi Việt Nam. Chính phủ Trung Quốc đã đồng ý chấp nhận người Hoa trở lại với điều kiện Việt Nam thừa nhận những người tị nạn là công dân Trung Quốc bị chính quyền Việt Nam tẩy chay và đàn áp. Chính Trung Quốc đã đóng cửa biên giới với người dân tộc vào năm 1978 và yêu cầu Việt Nam nhận họ về làm công dân Việt Nam.
Vào thời điểm công bố, bốn học giả Trung Quốc có trụ sở tại Trung Quốc đã không trả lời yêu cầu bình luận. Một giáo sư lịch sử tại một trường đại học có trụ sở tại Bắc Kinh, người từ chối nêu tên, cho biết “Việc phát biểu chính thức là quá nhạy cảm”.
Một học giả Trung Quốc hiện đang sống ở châu Âu giải thích: “Mô tả cuộc chiến sẽ vẽ nên một hình ảnh tiêu cực về Đặng Tiểu Bình với tư cách là một nhà lãnh đạo vĩ đại. Ông ta được coi là một biểu tượng.”.
Sự im lặng đồng ý
Năm 2019, Li Jiazhong, cựu đại sứ Trung Quốc tại Việt Nam (1995-2005), người cũng từng phục vụ tại Đại sứ quán Trung Quốc tại Hà Nội vào những năm 1970, đã xuất bản cuốn sách “Quan hệ Trung-Việt: 40 năm kinh nghiệm cá nhân”. Lý dành cả một chương để bình thường hóa quan hệ Trung-Việt, nhưng ông đã né tránh những chi tiết sâu sắc về cuộc chiến năm 1979.
Theo lời kể của Li, chính phía Việt Nam đã thực hiện hành động đầu tiên hướng tới bình thường hóa quan hệ, mà không thông qua các kênh ngoại giao chính thức, do Bộ trưởng Bộ Ngoại giao nói tiếng Pháp và yêu thích Pháp ngữ Nguyễn Cơ Thạch dẫn đầu.
Cuộc chiến bất ngờ, ngắn ngủi và đẫm máu giữa những đồng chí
Năm 1950, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa – khi đó mới được một tuổi – là nước đầu tiên công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) lãnh đạo. Việt Nam cũng là một trong những nước đầu tiên công nhận nước CHND Trung Hoa do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Mối quan hệ giữa các đảng vẫn là trọng tâm trong mối quan hệ.
Trung Quốc là nhà cung cấp viện trợ lớn nhất cho miền Bắc Việt Nam trong cuộc chiến chống lại quân đội Pháp và Mỹ. Tuy nhiên, sự hỗ trợ thời chiến này không bao giờ là vô điều kiện. Kể từ năm 1965, viện trợ của Trung Quốc phụ thuộc vào sự thỏa hiệp về chính trị và ý thức hệ của Hà Nội: Việt Nam sẽ phải công nhận vai trò lãnh đạo của Trung Quốc ở Đông Dương và sự tham gia vào công việc đối ngoại của Việt Nam, bao gồm cả việc tiếp nhận viện trợ tinh vi của Liên Xô. Trong khi Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) cung cấp vũ khí cho Việt Nam thì Liên Xô lại đề nghị hỗ trợ trên diện rộng.
Tuy nhiên, dưới sự lãnh đạo của Tổng Bí thư thân Liên Xô Lê Duẩn, Việt Nam dần dần xa rời Trung Quốc. Các cuộc giao tranh ở biên giới với Trung Quốc bắt đầu từ năm 1973 trở đi. Số vụ đụng độ biên giới Trung-Việt tăng gấp 4 lần từ 100 vụ năm 1974, lên 400 vụ năm 1975, và tăng lên 900 vụ năm 1976.
Vào giữa năm 1976, Hà Nội đưa ra chính sách đồng hóa Trung Quốc ở Việt Nam và bắt đầu quốc hữu hóa các “doanh nghiệp” thuộc sở hữu của cái mà họ cho là “giai cấp tư sản tư bản” ở miền Nam Việt Nam, những người được cho là đang đe dọa quá trình chuyển đổi xã hội chủ nghĩa của Việt Nam. Chính sách này chủ yếu nhắm vào người Hoa (dân tộc Hoa) – một nhóm thiểu số đặc quyền ở Việt Nam.
Ngoài ra, vào những năm 1970, Hà Nội cũng can thiệp vào chương trình giảng dạy tại các trường học của người Hoa ở miền Bắc Việt Nam, cấm nội dung được coi là biểu hiện của “chủ nghĩa dân tộc duy tâm phản động”. Chế độ Hà Nội cáo buộc Bắc Kinh lợi dụng vấn đề người Hoa, phần lớn tập trung ở vùng biên giới, để phá hoại xã hội Việt Nam. Cuộc di cư lớn của người Hoa trở lại Trung Quốc năm 1978 là lý do chính thức khiến Bắc Kinh chấm dứt viện trợ cho Việt Nam.
Với việc Việt Nam lựa chọn xích lại gần hơn với Liên Xô, Trung Quốc trở nên ít có khả năng can thiệp và tác động đến các quyết định của Hà Nội. Như nhà lãnh đạo Trung Quốc lúc bấy giờ, Đặng Tiểu Bình, đã giải thích về cuộc xâm lược năm 1979: “Việt Nam là một đứa trẻ không nghe lời và cần phải bị đánh đòn”.
Cuộc chiến khiến Việt Nam mất cảnh giác, vì Đặng đã đồng ý với Lê Duẩn vào năm 1977 để bắt đầu đàm phán về các vấn đề biên giới. Ba vòng đàm phán mà Việt Nam khởi xướng năm 1979 với phía Trung Quốc đã không thành công. Trong khi đó, bất đồng về vấn đề Campuchia cũng gây ra căng thẳng. Việt Nam ủng hộ chính phủ nước này đã thành lập ở Phnom Penh sau cuộc xâm lược vào tháng 12 năm 1978, trong khi Trung Quốc ủng hộ liên minh du kích ba bên, trong đó có Khmer Đỏ.
Đặng đã phát động một cuộc chiến tranh lớn chống lại Việt Nam vài ngày sau chuyến đi đến Hoa Kỳ, Nhật Bản và một số nước Đông Nam Á.
Theo cuốn sách “Cuộc chiến lâu dài của Đặng Tiểu Bình: Xung đột quân sự giữa Trung Quốc và Việt Nam, 1979-1991” của Xiaoming Zhang, cuộc chiến gồm ba giai đoạn: Giai đoạn thứ nhất (từ ngày 17 đến 25/2/1979) quân Trung Quốc chiếm thành công thị xã Cao Bằng, Lào Cai và một số thị xã biên giới Lạng Sơn. Giai đoạn thứ hai (từ ngày 26 tháng 2 đến ngày 5 tháng 3) là chiến dịch đánh Lạng Sơn và các vùng lân cận ở phía đông, Sa Pa và Phong Thổ ở phía tây bắc. Giai đoạn cuối cùng (đến ngày 16/3) nhằm đánh bại lực lượng còn lại của Việt Nam đồng thời tiêu diệt các cơ sở quân sự ở khu vực biên giới.
Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA), tuy có kinh nghiệm chiến đấu khá lớn nhưng thiếu kinh nghiệm chiến đấu so với quân đội Việt Nam đang trải qua thực chiến, đã rút lui nhanh chóng. Trong khi cuộc xung đột vũ trang lớn kéo dài chưa đầy một tháng, giao tranh vẫn tiếp tục diễn ra trong suốt những năm 1980.
Tuyên truyền trong nước của Trung Quốc về chiến tranh
Theo quan điểm của Bắc Kinh, hành vi sai trái của Việt Nam đối với Trung Quốc sau năm 1975, thể hiện qua tranh chấp biên giới và chính sách chống Hoa, đã phản bội nguyên tắc cơ bản của quan hệ anh em Trung-Việt. Theo cuốn sách năm 2011 “Chiến tranh trừng phạt: Quân giải phóng kích hoạt các hoạt động phòng vệ chống Việt Nam” của Wang Lili, ý định trừng phạt đã được Đặng bày tỏ trong chuyến thăm Nhật Bản năm 1978: “Trung Quốc cần phải trừng phạt mạnh mẽ Việt Nam ” bởi vì “Trung Quốc không thể chịu đựng được nữa.”
Với chiến tranh, Trung Quốc tìm cách củng cố quan điểm lấy Trung Quốc làm trung tâm của thế giới, vốn coi các quốc gia nhỏ ở ngoại vi Trung Quốc, bao gồm cả Việt Nam, là thấp kém và nằm trong quỹ đạo chính đáng chịu ảnh hưởng của Trung Quốc. Sự bất cân xứng về quy mô và sức mạnh đã định hình mối quan hệ giữa hai nước trong nhiều thế kỷ. Trong quá khứ, các nhà nuớc phong kiến Việt Nam tự xưng là hoàng đế trong nước, nhưng ra vẻ tôn kính với các hoàng đế phương Bắc – mặc dù đã đánh dập thẳng vào mặt họ về mặt quân sự. Sự “vô ơn” của Việt Nam đối với viện trợ trị giá khoảng 20 tỷ USD của Trung Quốc, sự “xấc xược” và thậm chí không phục tùng của Việt Nam đã báo hiệu sự từ chối tiếp tục tuân thủ mệnh lệnh do Trung Quốc áp đặt.
Kết quả là Đặng, kiến trúc sư trưởng của cuộc chiến chớp nhoáng, muốn dạy cho “người em đồng chí” một bài học. Tuy nhiên ngược lại, Đặng và Trung Quốc cũng đã học được nhiều bài học đắt giá, mặc dù chiến tranh không gây ra những hậu quả quốc tế đáng kể cho Trung Quốc. Đây chắc chắn không phải là một điều được ca ngợi trong lịch sử của PLA, lực lượng đã huy động hơn 1/4 quân đội dã chiến của mình hoặc tổng cộng hơn 320.000 quân nhưng hầu như không có tác dụng gì.
Sự giận dữ của Đặng đến mức ông quyết tâm củng cố quân đội. Trong vài năm tiếp theo, hàng trăm ngàn lính nghĩa vụ dưới mức bình thường đã bị đưa về nước.
Để tăng thêm nỗi đau cho người đồng chí, Đặng đẩy mạnh nỗ lực tiến gần đến Hoa Kỳ. Liên minh ngầm của Đặng với Mỹ được nhiều người coi là một thắng lợi trong quan hệ công chúng. Nhưng Hoa Kỳ không chọn chơi riêng với Đặng mà vào giai đoạn đó, đồng thời kêu gọi Việt Nam rút khỏi Campuchia và Trung Quốc rút khỏi Việt Nam, đi ngược lại mong đợi của Đặng. Thêm vào đó, Hoa Kỳ thậm chí còn chấp thuận bán vũ khí cho Đài Loan, mặc dù đã bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc.
Xuyên suốt lịch sử, Trung Quốc luôn tự miêu tả mình là bất khả chiến bại trong chiến trận nhưng cũng dễ bị tổn thương trước các cuộc tấn công từ bên ngoài. Việc mô tả Trung Quốc là nước phát động chiến tranh sẽ đi ngược lại tuyên truyền của họ về sự lãnh đạo tập trung vào hòa bình của các nhà lãnh đạo của họ. Là một nhà lãnh đạo thực dụng, Đặng giờ khẩu hiệu ủng hộ hòa bình và phát triển, không giống như Mao, người ủng hộ chiến tranh và cách mạng.
Các nhà lãnh đạo Trung Quốc luôn miêu tả Trung Quốc là nước nhân từ ủng hộ không xung đột, không đối đầu, tôn trọng lẫn nhau, hợp tác cùng có lợi, hòa hợp và công lý. Nhưng rõ là cho phép minh bạch về cuộc chiến sẽ là một sự mất mặt lớn đối với Trung Quốc, sẽ cho thấy Bắc Kinh không chỉ là kẻ thua cuộc lớn, mà còn là kẻ nói dối lớn. Đó là một cuộc tấn công quân sự được tính toán kỹ lưỡng và được dàn dựng chi tiết, với Đặng là tổng tư lệnh, thay vì chỉ là một cuộc chiến tranh phản ứng để tự vệ, như Trung Quốc đã tuyên truyền mô tả.
ĐCSTQ luôn mô tả mình là người chiến thắng trong một cuộc chiến chớp nhoáng. Thực tế u ám, bao gồm cả thương vong lớn, đã được che giấu để vẽ nên bức tranh chiến thắng hoan hỉ. Ngoài ra, Trung Quốc còn rao giảng cho người dân của mình rằng cuộc phản công tự vệ không chỉ nhằm bảo vệ chủ quyền đất nước mà còn hoàn thành sứ mệnh quốc tế của mình: bảo vệ những người bạn Campuchia trong cuộc chiến chống Việt Nam, chống lại quyền bá chủ toàn cầu của Liên Xô và Tham vọng bá chủ khu vực của Việt Nam Tuy nhiên, cuộc chiến tranh giáo điều đó đã thất bại trong việc buộc Việt Nam rút quân khỏi Campuchia. Ngoài Hiệp ước thân thiện với Liên Xô, Đảng Cộng sản Việt Nam đảy mạnh tuyên truyền về mối quan hệ đặc biệt giữa ba nước Đông Dương.
Ngoài ra, Trung Quốc cũng không vô tội trong cuộc di cư của người Hoa ra khỏi Việt Nam. Chính phủ Trung Quốc đã đồng ý chấp nhận người Hoa trở lại với điều kiện Việt Nam thừa nhận những người tị nạn là công dân Trung Quốc bị chính quyền Việt Nam tẩy chay và đàn áp. Chính Trung Quốc đã đóng cửa biên giới với người dân tộc vào năm 1978 và yêu cầu Việt Nam nhận họ về làm công dân Việt Nam.
Vào thời điểm công bố, bốn học giả Trung Quốc có trụ sở tại Trung Quốc đã không trả lời yêu cầu bình luận. Một giáo sư lịch sử tại một trường đại học có trụ sở tại Bắc Kinh, người từ chối nêu tên, cho biết “Việc phát biểu chính thức là quá nhạy cảm”.
Một học giả Trung Quốc hiện đang sống ở châu Âu giải thích: “Mô tả cuộc chiến sẽ vẽ nên một hình ảnh tiêu cực về Đặng Tiểu Bình với tư cách là một nhà lãnh đạo vĩ đại. Ông ta được coi là một biểu tượng.”.
Sự im lặng đồng ý
Năm 2019, Li Jiazhong, cựu đại sứ Trung Quốc tại Việt Nam (1995-2005), người cũng từng phục vụ tại Đại sứ quán Trung Quốc tại Hà Nội vào những năm 1970, đã xuất bản cuốn sách “Quan hệ Trung-Việt: 40 năm kinh nghiệm cá nhân”. Lý dành cả một chương để bình thường hóa quan hệ Trung-Việt, nhưng ông đã né tránh những chi tiết sâu sắc về cuộc chiến năm 1979.
Theo lời kể của Li, chính phía Việt Nam đã thực hiện hành động đầu tiên hướng tới bình thường hóa quan hệ, mà không thông qua các kênh ngoại giao chính thức, do Bộ trưởng Bộ Ngoại giao nói tiếng Pháp và yêu thích Pháp ngữ Nguyễn Cơ Thạch dẫn đầu.
Ngoại trưởng Trung Quốc hai lần từ chối gặp Thạch.
Sau khi hội đàm cấp Bộ trưởng Ngoại giao đi vào ngõ cụt, Tổng Bí thư ĐCSVN Nguyễn Văn Linh, người kế nhiệm sau khi Lê Duẩn qua đời năm 1986, đã đề xuất một cuộc gặp không chính thức thông qua các phái viên tới Đại sứ quán Trung Quốc nhằm “trao đổi trực tiếp và sâu sắc” với các nhà lãnh đạo cấp cao của Trung Quốc. Tuy nhiên, phía Trung Quốc truyền tải thông điệp “Trung Quốc chưa sẵn sàng gặp Việt Nam”, và rằng việc đối thoại sẽ phụ thuộc vào sự “sáng suốt” của Linh.
Ngoài ra, theo cuốn hồi ký “La Marseillaise du Général Giáp” xuất bản năm 2013 của Claude Blanchemaison, đại sứ Pháp tại Việt Nam từ 1989 đến 1993, vào mùa thu năm 1989, có tin đồn rằng các nhà lãnh đạo Việt Nam đã bí mật sang Trung Quốc để khẳng định sự gần gũi về mặt tư tưởng. và sự tương đồng về chính trị.
Sự sụp đổ của Liên Xô và khối xã hội chủ nghĩa châu Âu năm 1991 càng làm tăng thêm cảm giác bất an của Việt Nam. Chiến lược bài Trung của chính phủ không thể duy trì được. Sau khi Lê Duẩn qua đời năm 1986, Tổng Bí thư ĐCSVN Nguyễn Văn Linh đã chủ động tìm cách bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc.
Theo Li, vì lúc đó Trung Quốc đang chuẩn bị cho Thế vận hội châu Á nên cuộc họp được tổ chức tại Thành Đô để bảo vệ bí mật. Người ta biết rất ít về những gì chính xác đã được thống nhất trong cuộc họp. Tuy nhiên, điều được biết rõ là đề xuất của Việt Nam về một liên minh quân sự đã bị từ chối.
Cuộc gặp được mô tả là hòa nhã, hai bên nhất trí “chấm dứt quá khứ và mở ra tương lai”, mở đường cho việc bình thường hóa quan hệ ngoại giao giữa hai nước vào năm 1991. Nguyễn Văn Linh được dẫn lời nói: “Chúng tôi quyết tâm sửa chữa những chính sách sai lầm trước đây, không bao giờ phản bội nữa. Chúng ta sẽ khôi phục chính sách đối với Trung Quốc của Chủ tịch Hồ Chí Minh và khôi phục tình hữu nghị truyền thống giữa hai đảng, hai nước”.
Cuộc gặp gỡ kết thúc bằng chính bài thơ của Linh: “Mối quan hệ anh em của chúng ta đã được truyền qua nhiều thế hệ. Sự oán giận biến mất ngay lập tức. Gặp lại nhau mỉm cười, tình bạn nghìn năm được nối lại”.
Ngược lại, phiên bản sự kiện từ phía Việt Nam lại cho rằng Trung Quốc đã khởi xướng quá trình bình thường hóa, khi Việt Nam thể hiện một số khía cạnh nghiêng về phương Tây trong bối cảnh Trung Quốc bị cô lập sau sự kiện Quảng trường Thiên An Môn.
Nhưng trong khi Hà Nội tìm cách cải thiện quan hệ vì lý do kinh tế và các lý do khác, Bắc Kinh khẳng định rằng quan hệ không thể bình thường hóa cho đến khi có một giải pháp hòa bình ở Campuchia, bao gồm cả việc rút toàn bộ quân đội Việt Nam. Việt Nam cần im lặng để giành được sự ủng hộ về vật chất và tinh thần của Trung Quốc.
Vì vậy, chính phủ Việt Nam chưa bao giờ ăn mừng việc đánh lui thành công PLA một cách phô trương, không giống như các lễ kỷ niệm chiến thắng quân sự hàng năm trước Hoa Kỳ và Pháp. ĐCSVN biết rằng họ không thể xa lánh Trung Quốc. Sự miễn cưỡng của Hà Nội trong việc hình thành một liên minh quân sự chính thức với Liên Xô xa xôi để chống lại Trung Quốc chủ yếu là do tầm quan trọng của viện trợ và tiềm năng kinh tế còn lại của Trung Quốc đối với quá trình tái thiết kinh tế sau chiến tranh của Việt Nam – so với sự không chắc chắn trong cam kết của Liên Xô viện trợ Việt Nam.
Trong cuốn hồi ký được lưu hành rộng rãi của mình, nguyên Thứ trưởng Trần Quang Cơ viết: “Trung Quốc dù có bành trướng đến đâu thì vẫn là nước xã hội chủ nghĩa”. Ông nói thêm rằng việc bỏ lỡ cơ hội bình thường hóa quan hệ với Hoa Kỳ và việc miễn cưỡng gia nhập ASEAN vào thời điểm đó khiến Việt Nam cô đơn trước một Trung Quốc đầy tham vọng.
Điều nghịch lý là tính hợp pháp của chính phủ Việt Nam bắt nguồn từ chiến thắng được tuyên bố trước quân xâm lược nước ngoài. Việc ngăn cản người dân Việt kỷ niệm chiến tranh đã và đang làm tổn hại đến sức mạnh của chính quốc gia này. Việc Việt Nam chính thức kỷ niệm Chiến tranh Trung-Việt luôn mang tính phản ứng trước thời sự dư luận và hạn chế.
Mối quan hệ tiếp tục được cải thiện từ những năm 1990 đến thế kỷ 21. Năm 2008, Việt Nam và Trung Quốc chính thức nâng cấp quan hệ lên tầm đối tác hợp tác chiến lược toàn diện, lần đầu tiên có ở Việt Nam. Quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với Trung Quốc chứng tỏ Việt Nam đặt ưu tiên cao cho mối quan hệ với Trung Quốc. Việt Nam chỉ áp dụng cách tiếp cận cứng rắn hơn với Trung Quốc sau hành động gây hấn của Bắc Kinh tại các khu vực tranh chấp ở Biển Đông vào năm 2014.
Chiến tranh hoàn toàn không được nhắc đến trong sách giáo khoa tiếng Trung, thậm chí còn được đề cập rất ít ở cuối sách giáo khoa lớp 12 ở Việt Nam. Gần nửa thế kỷ sau, cả hai bên đều đàn áp các lễ tưởng niệm chính thức về cuộc chiến khiến hàng chục nghìn binh sĩ hai nước thiệt mạng.
Pulitzer Nguyễn Việt Thanh viết trong cuốn sách “Không có gì chết: Việt Nam và ký ức chiến tranh”: “Tất cả các cuộc chiến đều diễn ra hai lần, lần đầu tiên trên chiến trường, lần thứ hai trong ký ức”. Sự im lặng chính thức về Chiến tranh Trung-Việt bắt nguồn từ nỗ lực của cả hai chính phủ nhằm kiểm soát ký ức tập thể, trước cuộc đấu tranh không ngừng của người dân nhằm chỉ ra những bất công.
Tuy nhiên, công chúng của cả hai bên vẫn không quên cuộc chiến và tiếp tục đấu tranh để ghi nhận những đau khổ và hy sinh của người dân thường. Mo Yan xác nhận rằng tác phẩm của ông không phải là một bài điếu văn về chủ nghĩa anh hùng. Những người lính chẳng là gì ngoài những con người bình thường bị kéo vào chiến tranh và chết một cách bi thảm. Cuốn tiểu thuyết của Mo Yan tưởng tượng rằng những cuộc đối thoại trong thế giới siêu nhiên có thể xoa dịu nỗi đau của họ – một điều hư cấu cần thiết khi các cuộc thảo luận trong thế giới thực bị dập tắt.
—————
Tài liệu gốc của nhà nghiên cứu chính trị Đông Á, Christelle Nguyễn, cây viết quen thuộc của Nikkei Asia, Asia Times, SCMP… (How the Sino-Vietnamese War Was Purposefully Forgotten, In both China and Vietnam, the governments have deliberately tried to bury memories of their 1979 war))
Sau khi hội đàm cấp Bộ trưởng Ngoại giao đi vào ngõ cụt, Tổng Bí thư ĐCSVN Nguyễn Văn Linh, người kế nhiệm sau khi Lê Duẩn qua đời năm 1986, đã đề xuất một cuộc gặp không chính thức thông qua các phái viên tới Đại sứ quán Trung Quốc nhằm “trao đổi trực tiếp và sâu sắc” với các nhà lãnh đạo cấp cao của Trung Quốc. Tuy nhiên, phía Trung Quốc truyền tải thông điệp “Trung Quốc chưa sẵn sàng gặp Việt Nam”, và rằng việc đối thoại sẽ phụ thuộc vào sự “sáng suốt” của Linh.
Ngoài ra, theo cuốn hồi ký “La Marseillaise du Général Giáp” xuất bản năm 2013 của Claude Blanchemaison, đại sứ Pháp tại Việt Nam từ 1989 đến 1993, vào mùa thu năm 1989, có tin đồn rằng các nhà lãnh đạo Việt Nam đã bí mật sang Trung Quốc để khẳng định sự gần gũi về mặt tư tưởng. và sự tương đồng về chính trị.
Sự sụp đổ của Liên Xô và khối xã hội chủ nghĩa châu Âu năm 1991 càng làm tăng thêm cảm giác bất an của Việt Nam. Chiến lược bài Trung của chính phủ không thể duy trì được. Sau khi Lê Duẩn qua đời năm 1986, Tổng Bí thư ĐCSVN Nguyễn Văn Linh đã chủ động tìm cách bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc.
Theo Li, vì lúc đó Trung Quốc đang chuẩn bị cho Thế vận hội châu Á nên cuộc họp được tổ chức tại Thành Đô để bảo vệ bí mật. Người ta biết rất ít về những gì chính xác đã được thống nhất trong cuộc họp. Tuy nhiên, điều được biết rõ là đề xuất của Việt Nam về một liên minh quân sự đã bị từ chối.
Cuộc gặp được mô tả là hòa nhã, hai bên nhất trí “chấm dứt quá khứ và mở ra tương lai”, mở đường cho việc bình thường hóa quan hệ ngoại giao giữa hai nước vào năm 1991. Nguyễn Văn Linh được dẫn lời nói: “Chúng tôi quyết tâm sửa chữa những chính sách sai lầm trước đây, không bao giờ phản bội nữa. Chúng ta sẽ khôi phục chính sách đối với Trung Quốc của Chủ tịch Hồ Chí Minh và khôi phục tình hữu nghị truyền thống giữa hai đảng, hai nước”.
Cuộc gặp gỡ kết thúc bằng chính bài thơ của Linh: “Mối quan hệ anh em của chúng ta đã được truyền qua nhiều thế hệ. Sự oán giận biến mất ngay lập tức. Gặp lại nhau mỉm cười, tình bạn nghìn năm được nối lại”.
Ngược lại, phiên bản sự kiện từ phía Việt Nam lại cho rằng Trung Quốc đã khởi xướng quá trình bình thường hóa, khi Việt Nam thể hiện một số khía cạnh nghiêng về phương Tây trong bối cảnh Trung Quốc bị cô lập sau sự kiện Quảng trường Thiên An Môn.
Nhưng trong khi Hà Nội tìm cách cải thiện quan hệ vì lý do kinh tế và các lý do khác, Bắc Kinh khẳng định rằng quan hệ không thể bình thường hóa cho đến khi có một giải pháp hòa bình ở Campuchia, bao gồm cả việc rút toàn bộ quân đội Việt Nam. Việt Nam cần im lặng để giành được sự ủng hộ về vật chất và tinh thần của Trung Quốc.
Vì vậy, chính phủ Việt Nam chưa bao giờ ăn mừng việc đánh lui thành công PLA một cách phô trương, không giống như các lễ kỷ niệm chiến thắng quân sự hàng năm trước Hoa Kỳ và Pháp. ĐCSVN biết rằng họ không thể xa lánh Trung Quốc. Sự miễn cưỡng của Hà Nội trong việc hình thành một liên minh quân sự chính thức với Liên Xô xa xôi để chống lại Trung Quốc chủ yếu là do tầm quan trọng của viện trợ và tiềm năng kinh tế còn lại của Trung Quốc đối với quá trình tái thiết kinh tế sau chiến tranh của Việt Nam – so với sự không chắc chắn trong cam kết của Liên Xô viện trợ Việt Nam.
Trong cuốn hồi ký được lưu hành rộng rãi của mình, nguyên Thứ trưởng Trần Quang Cơ viết: “Trung Quốc dù có bành trướng đến đâu thì vẫn là nước xã hội chủ nghĩa”. Ông nói thêm rằng việc bỏ lỡ cơ hội bình thường hóa quan hệ với Hoa Kỳ và việc miễn cưỡng gia nhập ASEAN vào thời điểm đó khiến Việt Nam cô đơn trước một Trung Quốc đầy tham vọng.
Điều nghịch lý là tính hợp pháp của chính phủ Việt Nam bắt nguồn từ chiến thắng được tuyên bố trước quân xâm lược nước ngoài. Việc ngăn cản người dân Việt kỷ niệm chiến tranh đã và đang làm tổn hại đến sức mạnh của chính quốc gia này. Việc Việt Nam chính thức kỷ niệm Chiến tranh Trung-Việt luôn mang tính phản ứng trước thời sự dư luận và hạn chế.
Mối quan hệ tiếp tục được cải thiện từ những năm 1990 đến thế kỷ 21. Năm 2008, Việt Nam và Trung Quốc chính thức nâng cấp quan hệ lên tầm đối tác hợp tác chiến lược toàn diện, lần đầu tiên có ở Việt Nam. Quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với Trung Quốc chứng tỏ Việt Nam đặt ưu tiên cao cho mối quan hệ với Trung Quốc. Việt Nam chỉ áp dụng cách tiếp cận cứng rắn hơn với Trung Quốc sau hành động gây hấn của Bắc Kinh tại các khu vực tranh chấp ở Biển Đông vào năm 2014.
Chiến tranh hoàn toàn không được nhắc đến trong sách giáo khoa tiếng Trung, thậm chí còn được đề cập rất ít ở cuối sách giáo khoa lớp 12 ở Việt Nam. Gần nửa thế kỷ sau, cả hai bên đều đàn áp các lễ tưởng niệm chính thức về cuộc chiến khiến hàng chục nghìn binh sĩ hai nước thiệt mạng.
Pulitzer Nguyễn Việt Thanh viết trong cuốn sách “Không có gì chết: Việt Nam và ký ức chiến tranh”: “Tất cả các cuộc chiến đều diễn ra hai lần, lần đầu tiên trên chiến trường, lần thứ hai trong ký ức”. Sự im lặng chính thức về Chiến tranh Trung-Việt bắt nguồn từ nỗ lực của cả hai chính phủ nhằm kiểm soát ký ức tập thể, trước cuộc đấu tranh không ngừng của người dân nhằm chỉ ra những bất công.
Tuy nhiên, công chúng của cả hai bên vẫn không quên cuộc chiến và tiếp tục đấu tranh để ghi nhận những đau khổ và hy sinh của người dân thường. Mo Yan xác nhận rằng tác phẩm của ông không phải là một bài điếu văn về chủ nghĩa anh hùng. Những người lính chẳng là gì ngoài những con người bình thường bị kéo vào chiến tranh và chết một cách bi thảm. Cuốn tiểu thuyết của Mo Yan tưởng tượng rằng những cuộc đối thoại trong thế giới siêu nhiên có thể xoa dịu nỗi đau của họ – một điều hư cấu cần thiết khi các cuộc thảo luận trong thế giới thực bị dập tắt.
—————
Tài liệu gốc của nhà nghiên cứu chính trị Đông Á, Christelle Nguyễn, cây viết quen thuộc của Nikkei Asia, Asia Times, SCMP… (How the Sino-Vietnamese War Was Purposefully Forgotten, In both China and Vietnam, the governments have deliberately tried to bury memories of their 1979 war))
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét