MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỀ CHÍNH SÁCH CUNG CẦU VÀ GIÁ XĂNG DẦU Ở VN
Lê Việt Đức - Mấy hôm nay, giá xăng dầu tăng vọt đang trở thành một trong những chủ đề tranh luận nóng tại nghị trường Quốc hội. Rõ ràng giá xăng dầu tăng liên tục, phá vỡ hết kỷ lục này tới kỷ lục khác, có thể gây nguy hiểm cho tăng trưởng kinh tế, ổn định mặt bằng giá chung và là nguồn gốc của nhiều mâu thuẫn kinh tế xã hội. Do đó, dựa trên kinh nghiệm của các nước, chúng tôi khuyến nghị Nhà nước, cụ thể là Chính phủ, nên thực hiện các biện pháp nhằm hạn chế áp lực của tăng giá xăng dầu thế giới lên giá cả trong nước, đặc biệt bằng các biện pháp giảm tiêu thụ xăng dầu. Việc giảm tiêu thụ xăng dầu không những mang lại nhiều lợi ích kinh tế, ổn định xã hội, mà còn góp phần bảo vệ môi trường và hạn chế việc trái đất đang ngày càng nóng lên nhanh.
A. CÁC RỦI RO LIÊN QUAN ĐẾN SỰ TĂNG BỀN BỀN VỮNG CỦA GIÁ XĂNG DẦU
Theo các nghiên cứu của Tổ chức Năng lương quốc tế (IEA - International Energy Agency) và của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), nguồn cung xăng dầu có xu hướng không thể đáp ứng được nhu cầu. Nhu cầu xăng dầu tăng trưởng dài hạn khoảng 1,6-1,8% / năm, trong khi nguồn cung tăng lên không tương xứng. Các nước sản xuất dầu ngoài khối OPEC sẽ không thể tăng năng lực sản xuất của mình theo tỷ lệ tăng trưởng nhu cầu. Đối với các nước OPEC, ngay cả khi về mặt lý thuyết, họ có thể đóng vai trò là nhà sản xuất bổ sung để đảm bảo cung đáp ứng cầu, nhưng họ không thực sự quan tâm đến việc này, vì đây là một tổ chức công khai sử dụng xăng dầu làm công cụ lũng đoạn, thao túng thị trường thế giới. Đặc biệt, do phát động chiến dịch quân sự đặc biệt ở Ukraine, nhà sản xuất và xuất khẩu xăng dầu hàng đầu thế giới là Nga có nguy cơ bị loại trừ dài hạn khỏi một số thị trường xăng dầu lớn.
Do đó, mất cân bằng cung cầu có khả năng gây áp lực lên giá xăng dầu, khiến tăng trưởng kinh tế toàn cầu và kinh tế Việt Nam có nguy cơ bị đe dọa. Không những thế, mất cân đối cung cầu xăng dầu bền vững có thể làm gia tăng căng thẳng địa chính trị. Các quốc gia Trung Đông chắc chắn sẽ có ảnh hưởng lớn đến sản lượng dầu trong trung hạn. Thực tế đây rõ ràng là một khu vực liên tục bất ổn. Cuộc tấn công của Nga vào Ukraine đã chính thức tạo ra một khu vực bất ổn mới ở châu Âu. Sự phụ thuộc ngày càng tăng của các nước tiêu thụ vào các khu vực địa lý này sẽ dẫn đến những lo ngại mới về an ninh nguồn cung xăng dầu. Ngoài ra, sự gia tăng nhu cầu của các nước tiêu thụ lớn như khối EU, Trung Quốc và Ấn Độ, kết hợp với sự thiếu hụt dầu tương đối có thể gây ra căng thẳng ngay giữa các nước nhập khẩu dầu; điển hình là mâu thuẫn trong nội bộ khối EU hiện nay.
Đối mặt với những thách thức này, các tổ chức tài chính thế giới đều khuyến nghị nên để cơ chế thị trường hoạt động vì cuối cùng, giá cả sẽ đóng vai trò là người điều tiết nhu cầu. Tuy nhiên, với sự không hoàn hảo của thị trường, thực tế kinh tế, sinh thái hoặc địa chính trị xấu sẽ có nguy cơ xấu đi đáng kể trước khi các cơ chế điều tiết của thị trường đi vào hoạt động. Sự gia tăng giá dầu hiện tại, không giống như những cú sốc dầu trước, có tác động tương đối hạn chế đến tăng trưởng kinh tế, nhưng không phải là không đáng kể. Đặc biệt, nếu nguy cơ suy thoái kinh tế ngày càng lộ rõ thì liệu chính phủ có nên để giá xăng dầu cho thị trường quyết định không?
B. MINH BẠCH THÔNG TIN VÀ CAN THIỆP VÀO THỊ TRƯỜNG
Lý thuyết và thực tiễn thế giới cho thấy cơ chế thị trường vẫn là công cụ hữu hiệu nhất để định giá, đặc biệt là giá xăng dầu. Tuy nhiên, sự biến động cao của thị trường chắc chắn bất lợi vì nó làm cho xu hướng giá cả không thể đoán trước và do đó làm chậm lại các khoản đầu tư nhằm tăng năng lực sản xuất và kiểm soát cầu. Giá xăng dầu vốn dĩ rất dễ biến động vì chúng phụ thuộc nhiều vào quá nhiều các biến động chính trị, khí hậu và kinh tế. Tuy nhiên, một số hành động nhất định có thể và nên được xem xét để hạn chế sự biến động này.
1. Cải thiện và nắm chắc thông tin thị trường thế giới và trong nước
Nguồn thông tin chính về thị trường dầu mỏ là số liệu thống kê do IEA công bố, bao gồm số liệu của hơn 130 quốc gia. Một bảng câu hỏi hàng năm được gửi đến tất cả các quốc gia trong khi các nước OECD phải hoàn thành bảng câu hỏi hàng tháng. Thông tin liên quan đến nhu cầu, cung cấp, thương mại, cổ phiếu, giá cả và tinh chế, theo khu vực địa lý và theo sản phẩm.
Tuy nhiên, những dữ liệu này vẫn chưa hoàn hảo. Thứ nhất, số liệu thống kê hàng năm chỉ có sẵn sau 16 đến 20 tháng đối với năm tham chiếu. Đối với những mặt hàng theo yêu cầu, chúng chủ yếu được cung cấp bởi các nước OECD cũng là các nước nhập khẩu. Tuy nhiên, một số quốc gia mới nổi như Trung Quốc và Ấn Độ đã trở thành những người chơi lớn trên thị trường dầu mỏ, trong khi số liệu thống kê của họ có vẻ không đáng tin cậy lắm.
Về dữ liệu sản xuất, 3/4 sản lượng đến từ các quốc gia không thuộc OECD và do đó không bắt buộc phải cung cấp cho IEA những thông tin được yêu cầu.
Đối với thông tin về dự trữ, chúng nên được xem xét một cách thận trọng vì định nghĩa về dự trữ không phải là chủ đề của sự đồng thuận từ phía các nước sản xuất.
Những bất cập về mặt thống kê góp phần làm gia tăng biến động giá dầu. Ngoài ra, chúng có thể làm sai lệch các dự báo của IEA. Ví dụ gần đây nhất liên quan đến việc tổ chức này đánh giá thấp nhu cầu thế giới sau đại dịch Covid, khiến OPEC phải giảm hạn ngạch sản xuất, do đó làm gia tăng căng thẳng trên thị trường xăng dầu thế giới.
Do đó, điều cần thiết là phải cải thiện độ tin cậy của số liệu thống kê và tăng tốc độ xuất bản của chúng. Các chính phủ phải liên tục cập nhật những thông tin này để định hướng chính xác các chính sách quản lý, điều tiết giá xăng dầu trong nước.
2. Xây dựng và quản lý tốt hơn các kho dự trữ chiến lược
Để đối phó với việc nguồn cung dầu có thể bị gián đoạn, nhiều nước nhập khẩu và sử dụng xăng dầu với khối lượng lớn đã quyết định tạo ra các kho dự trữ chiến lược. Ví dụ các quốc gia thành viên Cộng đồng Kinh tế Châu Âu phải duy trì mức dự trữ dầu thô và / hoặc các sản phẩm dầu mỏ tối thiểu tương ứng với 90 ngày tiêu dùng trong nước. IEA cũng khuyến nghị các nước nên duy trì lượng dự trữ tối thiểu tương đương với 90 ngày nhập khẩu ròng cho năm dương lịch trước đó. Ở Mỹ, Đạo luật Bảo tồn và Chính sách Năng lượng ngày 22 tháng 12 năm 1975 đã cho phép tạo ra các nguồn dự trữ chiến lược ở Hoa Kỳ. Chúng được lưu trữ tại bốn địa điểm và được quản lý trực tiếp bởi Bộ Năng lượng Liên bang. Chúng hiện lên tới 730 triệu thùng và việc sử dụng chúng thuộc trách nhiệm độc quyền của Tổng thống Hoa Kỳ.
Việc sử dụng dự trữ chiến lược được dành cho các tình huống khủng hoảng nhằm tránh sự gián đoạn nguồn cung. Mỹ thường chỉ mở kho dự trữ chiến lược này khi chiến tranh xảy ra ở các nước xuất khẩu dầu mỏ, như các cuộc chiến ở Iraq trước đây hay ở Ukraine hiện nay. IEA cũng có thể can thiệp vào thị trường xăng dầu thế giới bằng cách đề nghị hàng chục nước thành viên của tổ chức này cùng lúc mở các kho dự trữ chiến lược của họ. Các biện pháp này cho phép tạm thời ổn định giá xăng dầu khi có tình huống bất thường xảy ra. Tuy nhiên, sẽ không thích hợp nếu sử dụng chúng để bình ổn giá cả cho một khoảng thời gian dài.
C. TÁC ĐỘNG VÀO NGUỒN CUNG
Trước hết, ảnh hưởng của các chính phủ đối với nguồn cung có vẻ khá hạn chế vì nguồn cung phụ thuộc vào các công ty xăng dầu quốc tế và các nước sản xuất. Tuy nhiên, các yếu tố chính trị và địa chính trị cũng có có thể ảnh hưởng đối với nguồn cung. Là một quốc gia vừa xuất khẩu và vừa nhập khẩu xăng dầu với khối lượng không nhỏ, Việt Nam cần tham gia và phối hợp chặt chẽ với cộng đồng quốc tế để vừa nắm bắt thông tin cung cầu, vừa khuyến khích giảm bớt các trở ngại chính trị đối với việc đầu tư vào năng lực sản xuất bổ sung và thúc đẩy đối thoại giữa nước sản xuất và nước tiêu thụ.
1. Giảm các rào cản chính trị đối với đầu tư
Rõ ràng lợi ích của các nước tiêu thụ và các nước sản xuất xăng dầu đối kháng nhau. Trong khi các nước tiêu thụ muốn mua xăng dầu với giá rẻ thì các nước sản xuất muốn bán sản phẩm của mình với giá cao. Do đó hai nhóm nước này cần đối thoại với nhau.
Tuy nhiên những biến động về giá trong ba năm qua dường như đã thay đổi suy nghĩ của nhiều nhà lãnh đạo quốc gia. Các nước tiêu thụ nhận thức được rằng sự thiếu hụt về năng lực sản xuất xăng dầu có liên quan trực tiếp đến việc duy trì mức giá thấp trong thời gian dài, điều này đã cản trở đáng kể đầu tư. Hơn nữa, áp lực về giá đã khiến các nhà lãnh đạo của các quốc gia tiêu thụ nhận thức được giá thấp làm cho nhu cầu tăng nhanh, gây bất ổn cả về kinh tế và môi trường sinh thái.
Đối với các nước sản xuất, doanh thu từ dầu mỏ đóng một vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế và duy trì ổn định xã hội của họ. Vì vậy, họ cũng không muốn giết “con ngỗng đẻ trứng vàng” bằng cách thao túng đẩy giá dầu lên quá cao, dẫn đến giảm nhu cầu, kích động suy thoái kinh tế toàn cầu và cuối cùng làm giảm giá xăng dầu.
Do đó, việc thúc đẩy đối thoại giữa các nước sản xuất và tiêu thụ xăng dầu trong Diễn đàn Năng lượng Quốc tế dường như đã trở nên quan trọng hơn bao giờ hết để giá dầu vừa có thể cho phép các khoản đầu tư cần thiết để phát triển năng lực sản xuất xăng dầu, vừa ổn định nhu cầu mà không làm gián đoạn tăng trưởng kinh tế toàn cầu.
Tuy nhiên những căng thẳng hiện nay giữa Mỹ và các nước phương Tây với Nga và Iran cho thấy đối thoại càng ngày càng khó khăn. Sự can thiệp của Mỹ và các nước phương Tây vào các nước sản xuất và xuất khẩu dầu mỏ không chỉ khiến các nước này rơi vào tình trạng hỗn loạn (với những hậu quả rất có hại đối với năng lực sản xuất dầu của những nước này), mà còn làm tăng những ác cảm đối với Mỹ và các nước phương Tây.
2. Đảm bảo an ninh nguồn cung cấp
Do hai phần ba năng lực sản xuất xăng dầu tập trung ở những khu vực không ổn định (Nga và Trung Đông), nên bất kỳ sự kiện biến động nào trong những khu vực này đều có thể gây ra mối đe dọa lâu dài đối với an ninh năng lượng thế giới. Cho đến nay, Mỹ vẫn một mình đảm nhận việc đảm bảo an ninh cho các nguồn cung cấp ở Trung Đông thông qua việc khống chế Ả Rập Xê-út và sự hiện diện đông đảo của các tàu chiến Mỹ xung quanh eo biển chiến lược Hormuz. Đồng thời Trung Quốc cũng đang phát triển hải quân rầm rộ để có thể đảm bảo an ninh cho các nguồn cung cấp xăng dầu của mình, điều này cuối cùng có thể tạo ra những căng thẳng với Mỹ trong phạm vi dầu mỏ Trung Đông và ngay cả ở Nga.
Để đảm bảo an ninh nguồn cung cấp xăng dầu, các quốc gia nhập khẩu nhất thiết phải đối thoại sâu với các nước xuất khẩu. Có thể có hai con đường.
Một là, giống như những gì đã và đang được thực hiện đối với khí đốt, phải tìm cách ký kết các hợp đồng dài hạn đảm bảo nguồn cung tối thiểu với mức giá đã thỏa thuận trước.
Hai là, phát triển quan hệ đối tác chiến lược với Nga và các nước Trung Đông, dùng hợp tác kỹ thuật và khoa học, trao đổi kỹ sư chuyển giao công nghệ, xuất khẩu lao động, hàng hóa và tài nguyên… để đổi lấy xăng dầu theo giá ổn định.
Tuy nhiên, con đường phát triển quan hệ đối tác chiến lược với Nga đã trở nên khó khăn hơn do chính sách bao vây, phong tỏa toàn diện của Mỹ và các nước phương Tây chống Nga. Việt Nam không tham gia chính sách cấm vận này, nên có thể tăng cường hợp tác với Nga như Trung Quốc và Ấn Độ đang làm.
D. TÁC ĐỘNG VÀO NHU CẦU XĂNG DẦU
Việt Nam hiện có hai nhà máy lọc dầu là Dung Quất và Nghi Sơn, cung ứng mỗi năm 10-13 triệu m3, tấn xăng, dầu thành phẩm các loại. Hai nhà máy này hiện cung ứng khoảng 70% nhu cầu tiêu dùng nhu cầu xăng, dầu trong nước, trong đó tỷ trọng cung ứng của Nghi Sơn khoảng 35%, có thời điểm lên tới 40%.
Về cung, năm 2021, Việt Nam khai thác gần 11 triệu tấn dầu thô, trong đó 9,1 triệu tấn từ các mỏ trong nước, và gần 1,9 triệu tấn khai thác từ các mỏ nước ngoài mà PVN hợp tác, đầu tư. 6 năm qua, sản lượng khai thác trong nước liên tục giảm, nếu tính bình quân, mỗi năm sản lượng giảm một triệu tấn.
Năm 2021, Việt Nam xuất khẩu 3,1 triệu tấn dầu thô và nhập gần 10 triệu tấn dầu thô. Dầu thô nhập về chủ yếu cũng sử dụng cho hai nhà máy lọc dầu là Nghi Sơn và Dung Quất, trong đó nhà máy Nghi Sơn sử dụng 100% dầu thô nhập khẩu.
Như vậy, nguồn cung dầu thô ở Việt Nam khoảng 18 triệu tấn gồm 8 triệu tấn tự khai thác và 10 triệu tấn nhập khẩu. Do là nước nhập khẩu xăng dầu với khối lượng chiếm hơn một nửa nhu cầu, Việt Nam dễ bị ảnh hưởng bởi giá dầu thế giới liên tục tăng cao. Vì vậy, điều quan trọng là phải giảm sự phụ thuộc của nền kinh tế của chúng ta vào dầu mỏ.
Một hành động như vậy có hai lợi thế.
Một mặt, nó sẽ làm giảm hóa đơn năng lượng của chúng ta. Theo Tiến sỹ Nguyễn Bích Lâm, nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê, trong hoạt động sản xuất hàng hoá và dịch vụ, tuỳ theo quy trình sản xuất của mỗi ngành, có thể thấy hầu hết các ngành dù nhiều hay ít đều sử dụng xăng dầu. Chi phí xăng dầu chiếm khoảng 3,52% trong tổng chi phí sản xuất của toàn nền kinh tế. Điều này cho thấy xăng dầu chiếm tỷ trọng khá cao và tác động mạnh vào giá thành sản phẩm sản xuất.
Đặc biệt, giá xăng dầu tăng có tác động rất mạnh tới các ngành sử dụng nhiều xăng dầu như: đánh bắt thủy sản, vận tải hàng hoá và hành khách đường bộ, đường thuỷ và đường hàng không.
Bên cạnh tác động trực tiếp làm tăng giá thành sản phẩm, giá xăng dầu tăng còn làm tăng giá hàng hóa trong khâu lưu thông, tạo áp lực lên lạm phát, giảm sức cạnh tranh của hàng hoá sản xuất trong nước, tác động xấu đến tăng trưởng kinh tế.
Đối với nền kinh tế Việt Nam, khi giá xăng dầu tăng 10% làm GDP giảm khoảng 0,5 % - mức giảm khá lớn, phản ánh tác động rất mạnh của biến động giá xăng dầu tới tăng trưởng kinh tế.
Giá xăng dầu tăng không chỉ tác động làm tăng giá thành sản phẩm hàng hoá và dịch vụ, mà còn trực tiếp làm tăng chỉ số giá tiêu dùng (CPI), ảnh hưởng đến thu nhập và chi tiêu của người dân. Giá xăng dầu tăng 10% làm cho chỉ số CPI tăng 0,36 điểm phần trăm.
Bên cạnh đó, chi tiêu cho xăng dầu chiếm 1,5% trong tổng tiêu dùng cuối cùng của hộ gia đình. Khi giá xăng dầu tăng cao, hộ gia đình sẽ cơ cấu lại và cắt giảm một phần chi tiêu, điều này làm giảm tổng cầu của nền kinh tế.
Do đó, với diễn biến của giá xăng dầu hiện nay, những nỗ lực giảm nhu cầu của chúng ta nhất thiết sẽ dẫn đến việc giảm hóa đơn năng lượng của chúng ta.
Mặt khác, việc hạn chế tiêu thụ dầu trong những năm tới sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện các cam kết của chúng ta trong cuộc chiến chống lại hiệu ứng nhà kính. Đặc biệt, các hành động nhằm giảm nhu cầu về dầu mỏ phải được lồng ghép vào chiến lược tổng thể của Việt Nam để thực hiện các cam kết về chống hiệu ứng nhà kính và biến đổi khí hậu. Hai trục phải được ưu tiên: tiết kiệm năng lượng và tối ưu hóa sử dụng năng lượng bằng cách đa dạng hóa chúng, đòi hỏi các cơ quan công quyền sử dụng các công cụ đa dạng như quy định pháp luật, thuế hoặc thậm chí chi tiêu công... về tiết kiệm năng lượng và tối ưu hóa sử dụng năng lượng.
1. Tiết kiệm năng lượng
Tiết kiệm năng lượng phải được thực hiện trong tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế.
Trong công nghiệp, nỗ lực kiểm soát năng lượng có thể thực hiện dưới hình thức cải tiến các thiết bị công nghiệp được đưa vào thị trường (động cơ, máy móc, điều khiển điện tử); cải tiến liên tục các quy trình nhằm tiết kiệm năng lượng, bao gồm cả trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ; sự phát triển của các quá trình điện để thay thế các quá trình nhiệt; phát triển tái chế (thép, kim loại, giấy, nhựa, vật liệu) để giảm tiêu thụ nhiệt năng trong giai đoạn đầu của quá trình chuyển hóa nguyên liệu thô, nhất là giảm nhiên liệu hóa thạch.
Trong mỗi tòa nhà, phải có những nỗ lực lớn về cách nhiệt và cải tiến các thiết bị nhiệt.
Thực tế, các thiết bị gia dụng như thiết bị văn phòng do các nhà sản xuất cung cấp hiếm khi được tối ưu hóa theo quan điểm năng lượng. Do đó, tiềm năng cải tiến đáng kể tồn tại trong thiết kế của các thiết bị này và điều kiện sử dụng của chúng.
Giao thông vận tải là một vấn đề lớn. Nếu chúng ta tính đến cam kết của Việt Nam về giảm 4 loại khí thải gây hiệu ứng nhà kính, thì giao thông vận tải đã phát thải nhiều hơn 1,3 lần so với những gì có thể có đối với đất nước vào năm 2050. Tuy nhiên, lượng phát thải hiện đang tiếp tục tăng ở mức gần 2% mỗi năm.
Do đó, tiết kiệm năng lượng trong lĩnh vực này là rất cần thiết. Chúng có thể được hình dung chủ yếu thông qua việc giảm đáng kể mức tiêu thụ đơn vị của động cơ, điều này ngụ ý tiến bộ kỹ thuật trong động cơ, tối ưu hóa hiệu suất bằng điều khiển điện tử nhưng cũng giảm quy mô để đưa xe gần hơn với mục đích sử dụng thực tế: trọng lượng, công suất và tốc độ do đó sẽ phải giảm. Thách thức được đưa ra bởi nhiệm vụ liên bộ về hiệu ứng nhà kính là giảm mức tiêu thụ xuống dưới 3-4 lít xăng / 100 km.
2. Tối ưu hóa sử dụng năng lượng bằng cách đa dạng hóa chúng
Việc giảm phát thải CO2 sẽ không đồng nhất giữa các lĩnh vực hoạt động. Có những cách sử dụng mà năng lượng không phải cacbon có thể dễ dàng được thay thế cho nhiên liệu hóa thạch, ví dụ như phần lớn các mục đích sử dụng nhiệt. Mặt khác, đối với một số mục đích sử dụng nhất định, không có lựa chọn thay thế thực sự nào. Đối với những mục đích sử dụng này, việc tiêu thụ nhiên liệu hóa thạch sẽ phải được tập trung để tránh làm tê liệt các lĩnh vực hoạt động. Chúng có hai loại:
- Vận chuyển, cho dù là đường hàng không, đường biển, hoặc hàng hóa bằng xe tải trên đường dài và trung bình, hầu như không có xăng dầu;
- Sử dụng nhiệt khi năng lượng tái tạo hoặc điện không thể đáp ứng được nhu cầu, cũng như sản lượng điện đạt đỉnh khi năng lượng hạt nhân quá đắt và việc sản xuất bằng năng lượng tái tạo là không chắc chắn.
Ngược lại, trong tất cả các lĩnh vực khác, cần phải tối ưu hóa năng lượng được sử dụng để hạn chế sử dụng nhiên liệu hóa thạch, nghĩa là phát triển cụ thể năng lượng tái tạo và nghiên cứu sớm sử dụng năng lượng hạt nhân.
Hai lĩnh vực có duyên với sự phát triển của năng lượng tái tạo: xây dựng và sản xuất điện; phát triển năng lượng tái tạo từ nhiệt mặt trời, năng lượng địa nhiệt, thu hồi chất thải... Ngoài ra, cần phải đạt được những tiến bộ to lớn về năng lượng gió và quang điện.
Tuy nhiên, việc phát triển sản xuất điện từ các nguồn tái tạo sẽ không đáp ứng được nhu cầu điện ngày càng tăng của Việt Nam nên việc sản xuất điện mà không thải ra carbon dioxide sẽ đòi hỏi phải đưa vào sử dụng nguồn năng lượng hạt nhân.
Đối mặt với nhận định này, điều cần thiết là phải hướng tới việc công chúng chấp nhận sử dụng điện hạt nhân bằng cách đảm bảo các cơ sở điện hạt nhân trong tương lai sẽ được vận hành với mức độ an toàn cao và chất thải phóng xạ và nhiên liệu đã qua sử dụng được quản lý một cách an toàn và có trách nhiệm với môi trường.
Liên quan đến giao thông, có hai giải pháp để giảm sử dụng dầu: nhiên liệu sinh học và phát triển động cơ không thải CO2.
Việc sản xuất nhiên liệu sinh học, giống như bất kỳ quá trình thu hồi sinh khối nào, được coi là không thải ra carbon dioxide ròng vì lượng khí thải ra trong quá trình đốt được bù đắp bằng sự hấp thụ trong quá trình sinh trưởng của cây trồng.
Đối với xe điện, chi phí mua xe cao hơn phương tiện truyền thống, nhưng được bù đắp bằng mức tiêu thụ năng lượng thấp hơn (ít hơn khoảng 20-40% so với phương tiện "chạy xăng" truyền thống). Ngoài ra, người ta có thể tưởng tượng rằng tỷ lệ điện năng được sử dụng có thể sớm tăng mạnh trong tương lai.
3. Các công cụ sẵn có để Nhà nước thúc đẩy giảm phát thải khí nhà kính
Như đã chỉ ra trước đây, giảm phát thải khí nhà kính liên quan đến việc tiết kiệm năng lượng và sử dụng các nguồn năng lượng phi carbon. Với sức ì của hành vi và sự ổn định lớn của cơ cấu kinh tế cũng như mức tiêu thụ năng lượng của chúng ta, chỉ có hành động kiên quyết của các cơ quan công quyền mới có thể đẩy nhanh việc thực hiện chính sách năng lượng bền vững. Nhà nước có một số công cụ để sử dụng.
Đầu tiên, có thể sử dụng quy định để khuyến khích cải thiện hiệu quả năng lượng. Ví dụ, trong xây dựng, nó có thể áp đặt các tiêu chuẩn cách nhiệt khắt khe hơn cho các tòa nhà mới. Trong lĩnh vực giao thông vận tải, có thể đặt ra các quy định chặt chẽ hơn về mức tiêu thụ nhiên liệu hoặc tăng dần tỷ lệ bắt buộc của nhiên liệu sinh học trong nhiên liệu sử dụng cho các phương tiện cơ giới.
Nhà nước cũng có công cụ tài khóa để tác động đến sự lựa chọn của các chủ thể kinh tế. Do đó, có thể tăng thuế đối với các phương tiện tiêu thụ nhiêu nhiên liệu. Thông qua các khoản tín dụng và thuế, Nhà nước có thể khuyến khích sự phát triển của nhiên liệu sinh học hoặc sự phát triển của năng lượng mặt trời quang điện. Công cụ này dường như đặc biệt thích hợp để đẩy nhanh việc đổi mới thiết bị năng lượng trong những ngôi nhà đã được xây dựng.
Cuối cùng, điều cần thiết là Nhà nước phải hoàn toàn chấp nhận các lựa chọn của mình về chính sách năng lượng thông qua việc sử dụng có chọn lọc chi tiêu công.
Trong lĩnh vực giao thông, việc hạn chế sử dụng ô tô cá nhân không chỉ cần phát triển giao thông công cộng mà còn phải kiểm soát tính di chuyển thông qua các chính sách quy hoạch vùng và quy hoạch đô thị. Hơn nữa, sự bùng nổ của vận tải hàng không chỉ có thể được ngăn chặn bằng một đề xuất thay thế trên khoảng cách từ 500 đến 1.200 km mà chỉ đường sắt cao tốc mới có thể cung cấp. Cuối cùng, để hạn chế việc vận chuyển hàng hóa bằng đường bộ, việc phát triển vận tải kết hợp đường sắt và đường thủy đối với hàng hóa là hết sức cần thiết.
Hơn nữa, Nhà nước phải khuyến khích nghiên cứu trong lĩnh vực năng lượng. Thật vậy, tiến bộ kỹ thuật có thể có ảnh hưởng đáng kể trong việc nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng và phát triển năng lượng không có carbon. Các công nghệ được khái quát vào năm 2050 tương ứng với các sản phẩm kỹ thuật được bán muộn nhất vào những năm 2030 với giá cả cạnh tranh và do đó sẽ phải ra khỏi phòng thí nghiệm thường xuyên nhất trong thập kỷ tới. Các chương trình nghiên cứu do Nhà nước tài trợ phải ưu tiên các phương tiện của tương lai, năng lượng tái tạo, năng lượng hạt nhân và hấp thụ carbon.
CÁC KIẾN NGHỊ
I - Hành động trên thị trường: cải thiện tính minh bạch và tính thanh khoản
· Cải thiện thông tin thị trường về nhu cầu, sản xuất và dự trữ thương mại. Chuẩn hóa khái niệm về trữ lượng đã được chứng minh để thiết lập thống kê của các nước sản xuất
· Phát triển tính minh bạch của thị trường giao dịch tự do thông qua việc xuất bản của Ngân hàng Thanh toán Quốc tế về số liệu thống kê về khối lượng giao dịch, loại sản phẩm, thời hạn đáo hạn của hợp đồng và loại công cụ tài chính được sử dụng.
· Sử dụng dự trữ chiến lược để "xoa dịu" thị trường khi giá tăng đột ngột có liên quan đến một tình huống ngoại lệ làm giảm đáng kể nhưng tạm thời nguồn cung dầu hoặc các sản phẩm tinh chế.
II - Hành động đối với việc cung cấp dầu: đảm bảo nguồn cung cấp
· Khuyến khích đối thoại giữa các nước sản xuất và tiêu thụ trong Diễn đàn Năng lượng Quốc tế.
· Phát triển hành động ngoại giao mạnh mẽ và phối hợp với các nước không ổn định có hoạt động sản xuất là “chiến lược”. Ký kết quan hệ đối tác chiến lược với Nga và các nước Trung Đông, nội dung có thể có hai hình thức:
- hợp đồng cung cấp dài hạn dựa trên mô hình của những gì đã tồn tại đối với khí;
- các hợp đồng kết hợp việc cung cấp dầu và hợp tác kỹ thuật và tài chính (trao đổi kỹ sư, chuyển giao công nghệ, cung cấp hàng hóa, lao động với các nước xuất khẩu xăng dầu.
III - Hành động theo nhu cầu dầu: giảm tiêu thụ dầu
Tiết kiệm năng lượng trong tất cả các lĩnh vực hoạt động trở thành ưu tiên quốc gia lâu dài (công nghiệp, xây dựng và cấp ba, giao thông) bằng cách sử dụng công cụ thuế (đánh thuế cao hơn đối với các phương tiện gây ô nhiễm nhất, tín dụng và thuế ưu đãi để đẩy nhanh việc đổi mới thiết bị năng lượng trong gia đình đã xây dựng) và các quy định (tăng cường các tiêu chuẩn cách nhiệt hoặc về tiêu thụ nhiên liệu sinh học).
· Cải thiện việc sử dụng năng lượng bằng cách đa dạng hóa nó bằng cách thúc đẩy sự phát triển của năng lượng tái tạo trong xây dựng và sản xuất điện và xây dựng các nhà máy điện hạt nhân.
· Tối ưu hóa sự di chuyển thông qua các chính sách quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch đô thị có tính đến các hạn chế về quản lý năng lượng.
· Tài trợ cho cơ sở hạ tầng cần thiết cho sự phát triển của giao thông công cộng, vận tải kết hợp đường sắt và đường thủy cũng như xây dựng các tuyến đường sắt cao tốc nhằm ngăn chặn sự bùng nổ của vận tải hàng không và đường bộ.
· Khởi động các chương trình nghiên cứu lớn, đặc biệt là về các phương tiện của tương lai, giao thông “thông minh”, năng lượng tái tạo, năng lượng hạt nhân và quản lý chất thải của nó, cũng như về hấp thụ carbon.
· Nâng cao nhận thức cộng đồng một cách bền vững về các vấn đề năng lượng nhằm thay đổi hành vi của cá nhân và tập thể.
A. CÁC RỦI RO LIÊN QUAN ĐẾN SỰ TĂNG BỀN BỀN VỮNG CỦA GIÁ XĂNG DẦU
Theo các nghiên cứu của Tổ chức Năng lương quốc tế (IEA - International Energy Agency) và của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), nguồn cung xăng dầu có xu hướng không thể đáp ứng được nhu cầu. Nhu cầu xăng dầu tăng trưởng dài hạn khoảng 1,6-1,8% / năm, trong khi nguồn cung tăng lên không tương xứng. Các nước sản xuất dầu ngoài khối OPEC sẽ không thể tăng năng lực sản xuất của mình theo tỷ lệ tăng trưởng nhu cầu. Đối với các nước OPEC, ngay cả khi về mặt lý thuyết, họ có thể đóng vai trò là nhà sản xuất bổ sung để đảm bảo cung đáp ứng cầu, nhưng họ không thực sự quan tâm đến việc này, vì đây là một tổ chức công khai sử dụng xăng dầu làm công cụ lũng đoạn, thao túng thị trường thế giới. Đặc biệt, do phát động chiến dịch quân sự đặc biệt ở Ukraine, nhà sản xuất và xuất khẩu xăng dầu hàng đầu thế giới là Nga có nguy cơ bị loại trừ dài hạn khỏi một số thị trường xăng dầu lớn.
Do đó, mất cân bằng cung cầu có khả năng gây áp lực lên giá xăng dầu, khiến tăng trưởng kinh tế toàn cầu và kinh tế Việt Nam có nguy cơ bị đe dọa. Không những thế, mất cân đối cung cầu xăng dầu bền vững có thể làm gia tăng căng thẳng địa chính trị. Các quốc gia Trung Đông chắc chắn sẽ có ảnh hưởng lớn đến sản lượng dầu trong trung hạn. Thực tế đây rõ ràng là một khu vực liên tục bất ổn. Cuộc tấn công của Nga vào Ukraine đã chính thức tạo ra một khu vực bất ổn mới ở châu Âu. Sự phụ thuộc ngày càng tăng của các nước tiêu thụ vào các khu vực địa lý này sẽ dẫn đến những lo ngại mới về an ninh nguồn cung xăng dầu. Ngoài ra, sự gia tăng nhu cầu của các nước tiêu thụ lớn như khối EU, Trung Quốc và Ấn Độ, kết hợp với sự thiếu hụt dầu tương đối có thể gây ra căng thẳng ngay giữa các nước nhập khẩu dầu; điển hình là mâu thuẫn trong nội bộ khối EU hiện nay.
Đối mặt với những thách thức này, các tổ chức tài chính thế giới đều khuyến nghị nên để cơ chế thị trường hoạt động vì cuối cùng, giá cả sẽ đóng vai trò là người điều tiết nhu cầu. Tuy nhiên, với sự không hoàn hảo của thị trường, thực tế kinh tế, sinh thái hoặc địa chính trị xấu sẽ có nguy cơ xấu đi đáng kể trước khi các cơ chế điều tiết của thị trường đi vào hoạt động. Sự gia tăng giá dầu hiện tại, không giống như những cú sốc dầu trước, có tác động tương đối hạn chế đến tăng trưởng kinh tế, nhưng không phải là không đáng kể. Đặc biệt, nếu nguy cơ suy thoái kinh tế ngày càng lộ rõ thì liệu chính phủ có nên để giá xăng dầu cho thị trường quyết định không?
B. MINH BẠCH THÔNG TIN VÀ CAN THIỆP VÀO THỊ TRƯỜNG
Lý thuyết và thực tiễn thế giới cho thấy cơ chế thị trường vẫn là công cụ hữu hiệu nhất để định giá, đặc biệt là giá xăng dầu. Tuy nhiên, sự biến động cao của thị trường chắc chắn bất lợi vì nó làm cho xu hướng giá cả không thể đoán trước và do đó làm chậm lại các khoản đầu tư nhằm tăng năng lực sản xuất và kiểm soát cầu. Giá xăng dầu vốn dĩ rất dễ biến động vì chúng phụ thuộc nhiều vào quá nhiều các biến động chính trị, khí hậu và kinh tế. Tuy nhiên, một số hành động nhất định có thể và nên được xem xét để hạn chế sự biến động này.
1. Cải thiện và nắm chắc thông tin thị trường thế giới và trong nước
Nguồn thông tin chính về thị trường dầu mỏ là số liệu thống kê do IEA công bố, bao gồm số liệu của hơn 130 quốc gia. Một bảng câu hỏi hàng năm được gửi đến tất cả các quốc gia trong khi các nước OECD phải hoàn thành bảng câu hỏi hàng tháng. Thông tin liên quan đến nhu cầu, cung cấp, thương mại, cổ phiếu, giá cả và tinh chế, theo khu vực địa lý và theo sản phẩm.
Tuy nhiên, những dữ liệu này vẫn chưa hoàn hảo. Thứ nhất, số liệu thống kê hàng năm chỉ có sẵn sau 16 đến 20 tháng đối với năm tham chiếu. Đối với những mặt hàng theo yêu cầu, chúng chủ yếu được cung cấp bởi các nước OECD cũng là các nước nhập khẩu. Tuy nhiên, một số quốc gia mới nổi như Trung Quốc và Ấn Độ đã trở thành những người chơi lớn trên thị trường dầu mỏ, trong khi số liệu thống kê của họ có vẻ không đáng tin cậy lắm.
Về dữ liệu sản xuất, 3/4 sản lượng đến từ các quốc gia không thuộc OECD và do đó không bắt buộc phải cung cấp cho IEA những thông tin được yêu cầu.
Đối với thông tin về dự trữ, chúng nên được xem xét một cách thận trọng vì định nghĩa về dự trữ không phải là chủ đề của sự đồng thuận từ phía các nước sản xuất.
Những bất cập về mặt thống kê góp phần làm gia tăng biến động giá dầu. Ngoài ra, chúng có thể làm sai lệch các dự báo của IEA. Ví dụ gần đây nhất liên quan đến việc tổ chức này đánh giá thấp nhu cầu thế giới sau đại dịch Covid, khiến OPEC phải giảm hạn ngạch sản xuất, do đó làm gia tăng căng thẳng trên thị trường xăng dầu thế giới.
Do đó, điều cần thiết là phải cải thiện độ tin cậy của số liệu thống kê và tăng tốc độ xuất bản của chúng. Các chính phủ phải liên tục cập nhật những thông tin này để định hướng chính xác các chính sách quản lý, điều tiết giá xăng dầu trong nước.
2. Xây dựng và quản lý tốt hơn các kho dự trữ chiến lược
Để đối phó với việc nguồn cung dầu có thể bị gián đoạn, nhiều nước nhập khẩu và sử dụng xăng dầu với khối lượng lớn đã quyết định tạo ra các kho dự trữ chiến lược. Ví dụ các quốc gia thành viên Cộng đồng Kinh tế Châu Âu phải duy trì mức dự trữ dầu thô và / hoặc các sản phẩm dầu mỏ tối thiểu tương ứng với 90 ngày tiêu dùng trong nước. IEA cũng khuyến nghị các nước nên duy trì lượng dự trữ tối thiểu tương đương với 90 ngày nhập khẩu ròng cho năm dương lịch trước đó. Ở Mỹ, Đạo luật Bảo tồn và Chính sách Năng lượng ngày 22 tháng 12 năm 1975 đã cho phép tạo ra các nguồn dự trữ chiến lược ở Hoa Kỳ. Chúng được lưu trữ tại bốn địa điểm và được quản lý trực tiếp bởi Bộ Năng lượng Liên bang. Chúng hiện lên tới 730 triệu thùng và việc sử dụng chúng thuộc trách nhiệm độc quyền của Tổng thống Hoa Kỳ.
Việc sử dụng dự trữ chiến lược được dành cho các tình huống khủng hoảng nhằm tránh sự gián đoạn nguồn cung. Mỹ thường chỉ mở kho dự trữ chiến lược này khi chiến tranh xảy ra ở các nước xuất khẩu dầu mỏ, như các cuộc chiến ở Iraq trước đây hay ở Ukraine hiện nay. IEA cũng có thể can thiệp vào thị trường xăng dầu thế giới bằng cách đề nghị hàng chục nước thành viên của tổ chức này cùng lúc mở các kho dự trữ chiến lược của họ. Các biện pháp này cho phép tạm thời ổn định giá xăng dầu khi có tình huống bất thường xảy ra. Tuy nhiên, sẽ không thích hợp nếu sử dụng chúng để bình ổn giá cả cho một khoảng thời gian dài.
C. TÁC ĐỘNG VÀO NGUỒN CUNG
Trước hết, ảnh hưởng của các chính phủ đối với nguồn cung có vẻ khá hạn chế vì nguồn cung phụ thuộc vào các công ty xăng dầu quốc tế và các nước sản xuất. Tuy nhiên, các yếu tố chính trị và địa chính trị cũng có có thể ảnh hưởng đối với nguồn cung. Là một quốc gia vừa xuất khẩu và vừa nhập khẩu xăng dầu với khối lượng không nhỏ, Việt Nam cần tham gia và phối hợp chặt chẽ với cộng đồng quốc tế để vừa nắm bắt thông tin cung cầu, vừa khuyến khích giảm bớt các trở ngại chính trị đối với việc đầu tư vào năng lực sản xuất bổ sung và thúc đẩy đối thoại giữa nước sản xuất và nước tiêu thụ.
1. Giảm các rào cản chính trị đối với đầu tư
Rõ ràng lợi ích của các nước tiêu thụ và các nước sản xuất xăng dầu đối kháng nhau. Trong khi các nước tiêu thụ muốn mua xăng dầu với giá rẻ thì các nước sản xuất muốn bán sản phẩm của mình với giá cao. Do đó hai nhóm nước này cần đối thoại với nhau.
Tuy nhiên những biến động về giá trong ba năm qua dường như đã thay đổi suy nghĩ của nhiều nhà lãnh đạo quốc gia. Các nước tiêu thụ nhận thức được rằng sự thiếu hụt về năng lực sản xuất xăng dầu có liên quan trực tiếp đến việc duy trì mức giá thấp trong thời gian dài, điều này đã cản trở đáng kể đầu tư. Hơn nữa, áp lực về giá đã khiến các nhà lãnh đạo của các quốc gia tiêu thụ nhận thức được giá thấp làm cho nhu cầu tăng nhanh, gây bất ổn cả về kinh tế và môi trường sinh thái.
Đối với các nước sản xuất, doanh thu từ dầu mỏ đóng một vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế và duy trì ổn định xã hội của họ. Vì vậy, họ cũng không muốn giết “con ngỗng đẻ trứng vàng” bằng cách thao túng đẩy giá dầu lên quá cao, dẫn đến giảm nhu cầu, kích động suy thoái kinh tế toàn cầu và cuối cùng làm giảm giá xăng dầu.
Do đó, việc thúc đẩy đối thoại giữa các nước sản xuất và tiêu thụ xăng dầu trong Diễn đàn Năng lượng Quốc tế dường như đã trở nên quan trọng hơn bao giờ hết để giá dầu vừa có thể cho phép các khoản đầu tư cần thiết để phát triển năng lực sản xuất xăng dầu, vừa ổn định nhu cầu mà không làm gián đoạn tăng trưởng kinh tế toàn cầu.
Tuy nhiên những căng thẳng hiện nay giữa Mỹ và các nước phương Tây với Nga và Iran cho thấy đối thoại càng ngày càng khó khăn. Sự can thiệp của Mỹ và các nước phương Tây vào các nước sản xuất và xuất khẩu dầu mỏ không chỉ khiến các nước này rơi vào tình trạng hỗn loạn (với những hậu quả rất có hại đối với năng lực sản xuất dầu của những nước này), mà còn làm tăng những ác cảm đối với Mỹ và các nước phương Tây.
2. Đảm bảo an ninh nguồn cung cấp
Do hai phần ba năng lực sản xuất xăng dầu tập trung ở những khu vực không ổn định (Nga và Trung Đông), nên bất kỳ sự kiện biến động nào trong những khu vực này đều có thể gây ra mối đe dọa lâu dài đối với an ninh năng lượng thế giới. Cho đến nay, Mỹ vẫn một mình đảm nhận việc đảm bảo an ninh cho các nguồn cung cấp ở Trung Đông thông qua việc khống chế Ả Rập Xê-út và sự hiện diện đông đảo của các tàu chiến Mỹ xung quanh eo biển chiến lược Hormuz. Đồng thời Trung Quốc cũng đang phát triển hải quân rầm rộ để có thể đảm bảo an ninh cho các nguồn cung cấp xăng dầu của mình, điều này cuối cùng có thể tạo ra những căng thẳng với Mỹ trong phạm vi dầu mỏ Trung Đông và ngay cả ở Nga.
Để đảm bảo an ninh nguồn cung cấp xăng dầu, các quốc gia nhập khẩu nhất thiết phải đối thoại sâu với các nước xuất khẩu. Có thể có hai con đường.
Một là, giống như những gì đã và đang được thực hiện đối với khí đốt, phải tìm cách ký kết các hợp đồng dài hạn đảm bảo nguồn cung tối thiểu với mức giá đã thỏa thuận trước.
Hai là, phát triển quan hệ đối tác chiến lược với Nga và các nước Trung Đông, dùng hợp tác kỹ thuật và khoa học, trao đổi kỹ sư chuyển giao công nghệ, xuất khẩu lao động, hàng hóa và tài nguyên… để đổi lấy xăng dầu theo giá ổn định.
Tuy nhiên, con đường phát triển quan hệ đối tác chiến lược với Nga đã trở nên khó khăn hơn do chính sách bao vây, phong tỏa toàn diện của Mỹ và các nước phương Tây chống Nga. Việt Nam không tham gia chính sách cấm vận này, nên có thể tăng cường hợp tác với Nga như Trung Quốc và Ấn Độ đang làm.
D. TÁC ĐỘNG VÀO NHU CẦU XĂNG DẦU
Việt Nam hiện có hai nhà máy lọc dầu là Dung Quất và Nghi Sơn, cung ứng mỗi năm 10-13 triệu m3, tấn xăng, dầu thành phẩm các loại. Hai nhà máy này hiện cung ứng khoảng 70% nhu cầu tiêu dùng nhu cầu xăng, dầu trong nước, trong đó tỷ trọng cung ứng của Nghi Sơn khoảng 35%, có thời điểm lên tới 40%.
Về cung, năm 2021, Việt Nam khai thác gần 11 triệu tấn dầu thô, trong đó 9,1 triệu tấn từ các mỏ trong nước, và gần 1,9 triệu tấn khai thác từ các mỏ nước ngoài mà PVN hợp tác, đầu tư. 6 năm qua, sản lượng khai thác trong nước liên tục giảm, nếu tính bình quân, mỗi năm sản lượng giảm một triệu tấn.
Năm 2021, Việt Nam xuất khẩu 3,1 triệu tấn dầu thô và nhập gần 10 triệu tấn dầu thô. Dầu thô nhập về chủ yếu cũng sử dụng cho hai nhà máy lọc dầu là Nghi Sơn và Dung Quất, trong đó nhà máy Nghi Sơn sử dụng 100% dầu thô nhập khẩu.
Như vậy, nguồn cung dầu thô ở Việt Nam khoảng 18 triệu tấn gồm 8 triệu tấn tự khai thác và 10 triệu tấn nhập khẩu. Do là nước nhập khẩu xăng dầu với khối lượng chiếm hơn một nửa nhu cầu, Việt Nam dễ bị ảnh hưởng bởi giá dầu thế giới liên tục tăng cao. Vì vậy, điều quan trọng là phải giảm sự phụ thuộc của nền kinh tế của chúng ta vào dầu mỏ.
Một hành động như vậy có hai lợi thế.
Một mặt, nó sẽ làm giảm hóa đơn năng lượng của chúng ta. Theo Tiến sỹ Nguyễn Bích Lâm, nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê, trong hoạt động sản xuất hàng hoá và dịch vụ, tuỳ theo quy trình sản xuất của mỗi ngành, có thể thấy hầu hết các ngành dù nhiều hay ít đều sử dụng xăng dầu. Chi phí xăng dầu chiếm khoảng 3,52% trong tổng chi phí sản xuất của toàn nền kinh tế. Điều này cho thấy xăng dầu chiếm tỷ trọng khá cao và tác động mạnh vào giá thành sản phẩm sản xuất.
Đặc biệt, giá xăng dầu tăng có tác động rất mạnh tới các ngành sử dụng nhiều xăng dầu như: đánh bắt thủy sản, vận tải hàng hoá và hành khách đường bộ, đường thuỷ và đường hàng không.
Bên cạnh tác động trực tiếp làm tăng giá thành sản phẩm, giá xăng dầu tăng còn làm tăng giá hàng hóa trong khâu lưu thông, tạo áp lực lên lạm phát, giảm sức cạnh tranh của hàng hoá sản xuất trong nước, tác động xấu đến tăng trưởng kinh tế.
Đối với nền kinh tế Việt Nam, khi giá xăng dầu tăng 10% làm GDP giảm khoảng 0,5 % - mức giảm khá lớn, phản ánh tác động rất mạnh của biến động giá xăng dầu tới tăng trưởng kinh tế.
Giá xăng dầu tăng không chỉ tác động làm tăng giá thành sản phẩm hàng hoá và dịch vụ, mà còn trực tiếp làm tăng chỉ số giá tiêu dùng (CPI), ảnh hưởng đến thu nhập và chi tiêu của người dân. Giá xăng dầu tăng 10% làm cho chỉ số CPI tăng 0,36 điểm phần trăm.
Bên cạnh đó, chi tiêu cho xăng dầu chiếm 1,5% trong tổng tiêu dùng cuối cùng của hộ gia đình. Khi giá xăng dầu tăng cao, hộ gia đình sẽ cơ cấu lại và cắt giảm một phần chi tiêu, điều này làm giảm tổng cầu của nền kinh tế.
Do đó, với diễn biến của giá xăng dầu hiện nay, những nỗ lực giảm nhu cầu của chúng ta nhất thiết sẽ dẫn đến việc giảm hóa đơn năng lượng của chúng ta.
Mặt khác, việc hạn chế tiêu thụ dầu trong những năm tới sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện các cam kết của chúng ta trong cuộc chiến chống lại hiệu ứng nhà kính. Đặc biệt, các hành động nhằm giảm nhu cầu về dầu mỏ phải được lồng ghép vào chiến lược tổng thể của Việt Nam để thực hiện các cam kết về chống hiệu ứng nhà kính và biến đổi khí hậu. Hai trục phải được ưu tiên: tiết kiệm năng lượng và tối ưu hóa sử dụng năng lượng bằng cách đa dạng hóa chúng, đòi hỏi các cơ quan công quyền sử dụng các công cụ đa dạng như quy định pháp luật, thuế hoặc thậm chí chi tiêu công... về tiết kiệm năng lượng và tối ưu hóa sử dụng năng lượng.
1. Tiết kiệm năng lượng
Tiết kiệm năng lượng phải được thực hiện trong tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế.
Trong công nghiệp, nỗ lực kiểm soát năng lượng có thể thực hiện dưới hình thức cải tiến các thiết bị công nghiệp được đưa vào thị trường (động cơ, máy móc, điều khiển điện tử); cải tiến liên tục các quy trình nhằm tiết kiệm năng lượng, bao gồm cả trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ; sự phát triển của các quá trình điện để thay thế các quá trình nhiệt; phát triển tái chế (thép, kim loại, giấy, nhựa, vật liệu) để giảm tiêu thụ nhiệt năng trong giai đoạn đầu của quá trình chuyển hóa nguyên liệu thô, nhất là giảm nhiên liệu hóa thạch.
Trong mỗi tòa nhà, phải có những nỗ lực lớn về cách nhiệt và cải tiến các thiết bị nhiệt.
Thực tế, các thiết bị gia dụng như thiết bị văn phòng do các nhà sản xuất cung cấp hiếm khi được tối ưu hóa theo quan điểm năng lượng. Do đó, tiềm năng cải tiến đáng kể tồn tại trong thiết kế của các thiết bị này và điều kiện sử dụng của chúng.
Giao thông vận tải là một vấn đề lớn. Nếu chúng ta tính đến cam kết của Việt Nam về giảm 4 loại khí thải gây hiệu ứng nhà kính, thì giao thông vận tải đã phát thải nhiều hơn 1,3 lần so với những gì có thể có đối với đất nước vào năm 2050. Tuy nhiên, lượng phát thải hiện đang tiếp tục tăng ở mức gần 2% mỗi năm.
Do đó, tiết kiệm năng lượng trong lĩnh vực này là rất cần thiết. Chúng có thể được hình dung chủ yếu thông qua việc giảm đáng kể mức tiêu thụ đơn vị của động cơ, điều này ngụ ý tiến bộ kỹ thuật trong động cơ, tối ưu hóa hiệu suất bằng điều khiển điện tử nhưng cũng giảm quy mô để đưa xe gần hơn với mục đích sử dụng thực tế: trọng lượng, công suất và tốc độ do đó sẽ phải giảm. Thách thức được đưa ra bởi nhiệm vụ liên bộ về hiệu ứng nhà kính là giảm mức tiêu thụ xuống dưới 3-4 lít xăng / 100 km.
2. Tối ưu hóa sử dụng năng lượng bằng cách đa dạng hóa chúng
Việc giảm phát thải CO2 sẽ không đồng nhất giữa các lĩnh vực hoạt động. Có những cách sử dụng mà năng lượng không phải cacbon có thể dễ dàng được thay thế cho nhiên liệu hóa thạch, ví dụ như phần lớn các mục đích sử dụng nhiệt. Mặt khác, đối với một số mục đích sử dụng nhất định, không có lựa chọn thay thế thực sự nào. Đối với những mục đích sử dụng này, việc tiêu thụ nhiên liệu hóa thạch sẽ phải được tập trung để tránh làm tê liệt các lĩnh vực hoạt động. Chúng có hai loại:
- Vận chuyển, cho dù là đường hàng không, đường biển, hoặc hàng hóa bằng xe tải trên đường dài và trung bình, hầu như không có xăng dầu;
- Sử dụng nhiệt khi năng lượng tái tạo hoặc điện không thể đáp ứng được nhu cầu, cũng như sản lượng điện đạt đỉnh khi năng lượng hạt nhân quá đắt và việc sản xuất bằng năng lượng tái tạo là không chắc chắn.
Ngược lại, trong tất cả các lĩnh vực khác, cần phải tối ưu hóa năng lượng được sử dụng để hạn chế sử dụng nhiên liệu hóa thạch, nghĩa là phát triển cụ thể năng lượng tái tạo và nghiên cứu sớm sử dụng năng lượng hạt nhân.
Hai lĩnh vực có duyên với sự phát triển của năng lượng tái tạo: xây dựng và sản xuất điện; phát triển năng lượng tái tạo từ nhiệt mặt trời, năng lượng địa nhiệt, thu hồi chất thải... Ngoài ra, cần phải đạt được những tiến bộ to lớn về năng lượng gió và quang điện.
Tuy nhiên, việc phát triển sản xuất điện từ các nguồn tái tạo sẽ không đáp ứng được nhu cầu điện ngày càng tăng của Việt Nam nên việc sản xuất điện mà không thải ra carbon dioxide sẽ đòi hỏi phải đưa vào sử dụng nguồn năng lượng hạt nhân.
Đối mặt với nhận định này, điều cần thiết là phải hướng tới việc công chúng chấp nhận sử dụng điện hạt nhân bằng cách đảm bảo các cơ sở điện hạt nhân trong tương lai sẽ được vận hành với mức độ an toàn cao và chất thải phóng xạ và nhiên liệu đã qua sử dụng được quản lý một cách an toàn và có trách nhiệm với môi trường.
Liên quan đến giao thông, có hai giải pháp để giảm sử dụng dầu: nhiên liệu sinh học và phát triển động cơ không thải CO2.
Việc sản xuất nhiên liệu sinh học, giống như bất kỳ quá trình thu hồi sinh khối nào, được coi là không thải ra carbon dioxide ròng vì lượng khí thải ra trong quá trình đốt được bù đắp bằng sự hấp thụ trong quá trình sinh trưởng của cây trồng.
Đối với xe điện, chi phí mua xe cao hơn phương tiện truyền thống, nhưng được bù đắp bằng mức tiêu thụ năng lượng thấp hơn (ít hơn khoảng 20-40% so với phương tiện "chạy xăng" truyền thống). Ngoài ra, người ta có thể tưởng tượng rằng tỷ lệ điện năng được sử dụng có thể sớm tăng mạnh trong tương lai.
3. Các công cụ sẵn có để Nhà nước thúc đẩy giảm phát thải khí nhà kính
Như đã chỉ ra trước đây, giảm phát thải khí nhà kính liên quan đến việc tiết kiệm năng lượng và sử dụng các nguồn năng lượng phi carbon. Với sức ì của hành vi và sự ổn định lớn của cơ cấu kinh tế cũng như mức tiêu thụ năng lượng của chúng ta, chỉ có hành động kiên quyết của các cơ quan công quyền mới có thể đẩy nhanh việc thực hiện chính sách năng lượng bền vững. Nhà nước có một số công cụ để sử dụng.
Đầu tiên, có thể sử dụng quy định để khuyến khích cải thiện hiệu quả năng lượng. Ví dụ, trong xây dựng, nó có thể áp đặt các tiêu chuẩn cách nhiệt khắt khe hơn cho các tòa nhà mới. Trong lĩnh vực giao thông vận tải, có thể đặt ra các quy định chặt chẽ hơn về mức tiêu thụ nhiên liệu hoặc tăng dần tỷ lệ bắt buộc của nhiên liệu sinh học trong nhiên liệu sử dụng cho các phương tiện cơ giới.
Nhà nước cũng có công cụ tài khóa để tác động đến sự lựa chọn của các chủ thể kinh tế. Do đó, có thể tăng thuế đối với các phương tiện tiêu thụ nhiêu nhiên liệu. Thông qua các khoản tín dụng và thuế, Nhà nước có thể khuyến khích sự phát triển của nhiên liệu sinh học hoặc sự phát triển của năng lượng mặt trời quang điện. Công cụ này dường như đặc biệt thích hợp để đẩy nhanh việc đổi mới thiết bị năng lượng trong những ngôi nhà đã được xây dựng.
Cuối cùng, điều cần thiết là Nhà nước phải hoàn toàn chấp nhận các lựa chọn của mình về chính sách năng lượng thông qua việc sử dụng có chọn lọc chi tiêu công.
Trong lĩnh vực giao thông, việc hạn chế sử dụng ô tô cá nhân không chỉ cần phát triển giao thông công cộng mà còn phải kiểm soát tính di chuyển thông qua các chính sách quy hoạch vùng và quy hoạch đô thị. Hơn nữa, sự bùng nổ của vận tải hàng không chỉ có thể được ngăn chặn bằng một đề xuất thay thế trên khoảng cách từ 500 đến 1.200 km mà chỉ đường sắt cao tốc mới có thể cung cấp. Cuối cùng, để hạn chế việc vận chuyển hàng hóa bằng đường bộ, việc phát triển vận tải kết hợp đường sắt và đường thủy đối với hàng hóa là hết sức cần thiết.
Hơn nữa, Nhà nước phải khuyến khích nghiên cứu trong lĩnh vực năng lượng. Thật vậy, tiến bộ kỹ thuật có thể có ảnh hưởng đáng kể trong việc nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng và phát triển năng lượng không có carbon. Các công nghệ được khái quát vào năm 2050 tương ứng với các sản phẩm kỹ thuật được bán muộn nhất vào những năm 2030 với giá cả cạnh tranh và do đó sẽ phải ra khỏi phòng thí nghiệm thường xuyên nhất trong thập kỷ tới. Các chương trình nghiên cứu do Nhà nước tài trợ phải ưu tiên các phương tiện của tương lai, năng lượng tái tạo, năng lượng hạt nhân và hấp thụ carbon.
CÁC KIẾN NGHỊ
I - Hành động trên thị trường: cải thiện tính minh bạch và tính thanh khoản
· Cải thiện thông tin thị trường về nhu cầu, sản xuất và dự trữ thương mại. Chuẩn hóa khái niệm về trữ lượng đã được chứng minh để thiết lập thống kê của các nước sản xuất
· Phát triển tính minh bạch của thị trường giao dịch tự do thông qua việc xuất bản của Ngân hàng Thanh toán Quốc tế về số liệu thống kê về khối lượng giao dịch, loại sản phẩm, thời hạn đáo hạn của hợp đồng và loại công cụ tài chính được sử dụng.
· Sử dụng dự trữ chiến lược để "xoa dịu" thị trường khi giá tăng đột ngột có liên quan đến một tình huống ngoại lệ làm giảm đáng kể nhưng tạm thời nguồn cung dầu hoặc các sản phẩm tinh chế.
II - Hành động đối với việc cung cấp dầu: đảm bảo nguồn cung cấp
· Khuyến khích đối thoại giữa các nước sản xuất và tiêu thụ trong Diễn đàn Năng lượng Quốc tế.
· Phát triển hành động ngoại giao mạnh mẽ và phối hợp với các nước không ổn định có hoạt động sản xuất là “chiến lược”. Ký kết quan hệ đối tác chiến lược với Nga và các nước Trung Đông, nội dung có thể có hai hình thức:
- hợp đồng cung cấp dài hạn dựa trên mô hình của những gì đã tồn tại đối với khí;
- các hợp đồng kết hợp việc cung cấp dầu và hợp tác kỹ thuật và tài chính (trao đổi kỹ sư, chuyển giao công nghệ, cung cấp hàng hóa, lao động với các nước xuất khẩu xăng dầu.
III - Hành động theo nhu cầu dầu: giảm tiêu thụ dầu
Tiết kiệm năng lượng trong tất cả các lĩnh vực hoạt động trở thành ưu tiên quốc gia lâu dài (công nghiệp, xây dựng và cấp ba, giao thông) bằng cách sử dụng công cụ thuế (đánh thuế cao hơn đối với các phương tiện gây ô nhiễm nhất, tín dụng và thuế ưu đãi để đẩy nhanh việc đổi mới thiết bị năng lượng trong gia đình đã xây dựng) và các quy định (tăng cường các tiêu chuẩn cách nhiệt hoặc về tiêu thụ nhiên liệu sinh học).
· Cải thiện việc sử dụng năng lượng bằng cách đa dạng hóa nó bằng cách thúc đẩy sự phát triển của năng lượng tái tạo trong xây dựng và sản xuất điện và xây dựng các nhà máy điện hạt nhân.
· Tối ưu hóa sự di chuyển thông qua các chính sách quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch đô thị có tính đến các hạn chế về quản lý năng lượng.
· Tài trợ cho cơ sở hạ tầng cần thiết cho sự phát triển của giao thông công cộng, vận tải kết hợp đường sắt và đường thủy cũng như xây dựng các tuyến đường sắt cao tốc nhằm ngăn chặn sự bùng nổ của vận tải hàng không và đường bộ.
· Khởi động các chương trình nghiên cứu lớn, đặc biệt là về các phương tiện của tương lai, giao thông “thông minh”, năng lượng tái tạo, năng lượng hạt nhân và quản lý chất thải của nó, cũng như về hấp thụ carbon.
· Nâng cao nhận thức cộng đồng một cách bền vững về các vấn đề năng lượng nhằm thay đổi hành vi của cá nhân và tập thể.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét