"Người Việt không ăn thịt chó mới là lạ"
Vì sao Việt Nam và một số nước châu Á nuôi chó để thịt, trong khi nhiều nước châu Âu coi chó là “người bạn gần gũi của con người”? Dưới đây là lý giải thú vị của một vị tiến sĩ Việt kiều.
Dù đã hơn 20 năm sống ở xứ người và từ lâu tôi không còn ăn thịt chó nhưng mỗi lần nhắc đến món ăn này là tôi nhớ ngay đến hai “câu hỏi khó”: 1/ Tại sao người Việt Nam ăn thịt chó. Và 2/ Anh có ăn thịt chó không?Đó là hai câu hỏi GS Vlưchko Kultrev, nguyên Phó Tổng giám đốc Đài truyền hình quốc gia Bungari, và là vị thầy hướng dẫn luận án của tôi, đặt ra với tôi. Cũng phải nói rằng đây là hai câu hỏi “nhạy cảm” vượt qua nghi thức ngoại giao thông thường giữa một người Âu vốn coi chó như bạn bè, và một người Việt với truyền thống ăn thịt chó.
Trong bối cảnh khác nhau giữa Á-Âu về văn hóa ứng xử với loài chó như vậy, lẽ tự nhiên là những câu hỏi về món thịt chó của thầy tôi, phải nói thẳng là có ý kỳ thị người ăn thịt chó. Điều đó như một thách thức đối với tôi lúc đó, buộc tôi phải tìm ra câu trả lời thỏa đáng nhất có thể.
Chuyện đã lâu, tôi chỉ nhớ những ý đại khái về nội dung câu trả lời của tôi: . . . Tôi từng ăn thịt chó. Cũng như đa số đồng bào tôi vẫn ăn thịt chó - một thực đơn mang tính lịch sử.
Trong bối cảnh khác nhau giữa Á-Âu về văn hóa ứng xử với loài chó như vậy, lẽ tự nhiên là những câu hỏi về món thịt chó của thầy tôi, phải nói thẳng là có ý kỳ thị người ăn thịt chó. Điều đó như một thách thức đối với tôi lúc đó, buộc tôi phải tìm ra câu trả lời thỏa đáng nhất có thể.
Chuyện đã lâu, tôi chỉ nhớ những ý đại khái về nội dung câu trả lời của tôi: . . . Tôi từng ăn thịt chó. Cũng như đa số đồng bào tôi vẫn ăn thịt chó - một thực đơn mang tính lịch sử.
Thịt chó là món ăn giàu chất đạm, được nhiều người Việt ưa thích
Cùng là loài vật nuôi được thuần dưỡng từ động vật hoang dã nhưng các giống chó Tây vốn có thể tạng sức vóc rất to lớn, từ vài ba chục kg đến năm sáu chục kg, thậm chí có loại còn to lớn hơn nữa. Với tầm vóc to lớn như vậy, các giống chó Tây được sử dụng vào những công việc thích hợp trong quá trình phát triển của đời sống của con người từ rất xa xưa đến nay.
Tuy trên thực tế ở châu Âu có rất nhiều giống chó khác nhau nhưng chúng vẫn được gọi tên theo công việc mà chúng giúp đỡ con người, ví dụ: chó chăn cừu, chó săn, chó kéo xe trượt tuyết, chó cứu hộ, chó bảo vệ, chó chiến đấu v. v. . .
Có thể thấy chó là con vật rất hữu dụng với con người, đặc biệt là đối với người phương Tây. Từ chỗ là động vật hoang dã được con người thuần hóa, chó đã trở thành trợ thủ giúp việc đắc lực cho con người từ thời rất xa xưa, dần dần hình thành một quan hệ gắn bó, tình cảm giữa con người và vật nuôi. Đó cũng là điều tất nhiên, dễ hiểu. Nếu để ý một chút, chúng ta sẽ thấy trong văn học phương Tây (đặc biệt là truyện cổ tích), viết về thế giới động vật thì chuyện về loài chó có vị trí đặc biệt vì tính hữu dụng và sự trung thành với chủ của chúng. Có những chú chó đi vào lịch sử văn học, được mô tả như một đồ đệ sẵn sàng hy sinh vì chủ, như làm hoa tiêu dẫn đường lúc tuyết phủ lấp mọi ngõ ngách, cứu sống chủ bằng cách ủ ấm cho chủ trong một lần bị lạc giữa rừng sâu băng giá v. v. . .
Về phương diện nào đó, quan hệ giữa người phương Tây với con chó cũng có nét tương đồng với quan hệ của người Việt với con trâu - sức kéo, sức lao động rất quan trọng trong sản xuất nông nghiệp. Người Việt vốn coi con trâu như bạn bè: “Trâu ơi ta bảo trâu này/ Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta/ Cấy cày vốn việc nông gia/ Ta đây, trâu đấy ai mà quản công”. . .
Từ đó có thể suy ra rằng, tính hữu dụng của chó là nguyên nhân căn bản đầu tiên, bên cạnh những lý do khác, như sự trung thành, thông minh của giống vật này để chúng không bị biến thành vật nuôi lấy thịt như giống chó ở Việt Nam.
Trong khi đó, giống chó nhà của Việt Nam thường được gọi tên theo màu lông: Con cún đen, con cún đốm, con cún vện, con cún vàng v. v. . . Đó là cách gọi có chút âu yếm, và cũng chỉ có thế, vì ngoài chức năng nuôi lấy thịt thì chó nhà ở Việt Nam may lắm là có thể dùng để trông nhà và đuổi gà cho chủ. “Gà định vào vườn rau/ Chó bèn sủa gâu gâu/ Công lao người trồng trọt/ Vất vả đã bao lâu. . .!” (Thơ trong sách bậc tiểu học của VN).
Sự “yếu kém” này của giống chó nhà Việt Nam là do chúng nhỏ bé hơn rất nhiều so với giống chó Tây, trọng lượng trung bình của chúng chỉ độ vào khoảng mươi mười lăm kg mà thôi. Kể cả giống chó săn của người Việt thì sức vóc cũng yếu, nên sau này Việt Nam phải nhập từ châu Âu các loài chó phục vụ cho mục đích dân sự hay an ninh-quốc phòng, như: chó săn, chó bảo vệ, chó cứu hộ, chó chiến đấu (chủ yếu là giống chó Béc-giê của Đức).
Chó Tây thường có vóc dáng to lớn, trở thành
trợ thủ giúp việc đắc lực cho con người
Ngược với chó Tây, loài chó đối với người Việt Nam nói riêng và với người châu Á nói chung, tuy cũng là giống vật được thuần hóa nhưng tính hữu dụng của chúng không nhiều lắm, ngoại trừ chức năng nuôi lấy thịt là chủ yếu. Vì sao vậy?
Trên đại thể mà xét, có thể nói khẩu phần thức ăn của người Việt có ít thịt hơn khẩu phần ăn của người phương Tây. Nguyên nhân có thể là do Việt Nam nằm vào xứ nóng, các loại động vật cung cấp nhiều thịt như dê, cừu không có nhiều, thậm chí các loại động vật có khối lượng thịt nhiều như trâu bò chỉ được nuôi để cung cấp sức cày kéo trong nông nghiệp là chính. Trong khi đó, các loại vật cung cấp nhiều thịt này (cừu, dê, trâu, bò. . . ) lại rất phổ biến ở châu Âu.
Từ đó có thể suy ra việc người Việt nuôi chó thịt là đắc dụng, là đúng vì đây là loại thịt cho nhiều đạm, bổ sung vào thực đơn vốn chủ yếu là cá và rau - một thuộc tính của xứ nhiệt đới với thích hợp cho sự phát triển của các thảm thực vật. Ngoài ra, chó là con vật dễ nuôi, không cần phải bỏ ra công sức chăm sóc gì đáng kể. Trong tình huống như vậy, nếu người Việt không nuôi chó thịt mới là lạ.
Như vậy, có thể nói “hiện tượng” người Việt ăn thịt chó âu cũng là chuyện tự nhiên, có tính lịch sử lâu đời.
Về một phương diện khác, cũng không khó hiểu khi người đạo Hin-đu ở Ấn độ không ăn thịt bò vì họ quan niệm bò là vật tổ (to tem giáo) của họ, hay như người Hồi giáo không ăn thịt lợn vì theo quan niệm của bộ phận người này thì lợn là con vật dơ bẩn, chứa nhiều tật bệnh. Tuy nhiên, cũng không vì thế mà những người không ăn thịt lợn hay thịt bò nói trên lại cho mình cái quyền được bài xích bộ phận thế giới còn lại là đối xử man rợ, bất nhân với các loại động vật đó. Tương tự, người Việt ăn thịt chó âu cũng không có gì đáng phải bàn, ngay cả trong so sánh với người phương Tây là những người yêu quý giống vật này, vì mỗi nơi có hoàn cảnh riêng biệt, cụ thể.
Trong giai đoạn hội nhập với thế giới bên ngoài, đặc biệt là với người phương Tây, nơi coi chó là người bạn gần gũi của con người, người Việt đã và đang có những thay đổi trong quan niệm về món thịt chó truyền thống. Biết đâu trong tương lai sẽ không có món thịt chó trong thực đơn của người Việt.
Riêng cá nhân tôi, mỗi lần nhắc đến món thịt chó là tôi cứ phải nhớ lại những “câu hỏi khó” của thầy tôi và câu trả lời của mình. Chuyện tuy nhỏ nhưng cũng là một biểu hiện về ý thức ngoại giao văn hóa, ngoại giao nhân dân của một người Việt sống ở nước ngoài như tôi.
Trên đại thể mà xét, có thể nói khẩu phần thức ăn của người Việt có ít thịt hơn khẩu phần ăn của người phương Tây. Nguyên nhân có thể là do Việt Nam nằm vào xứ nóng, các loại động vật cung cấp nhiều thịt như dê, cừu không có nhiều, thậm chí các loại động vật có khối lượng thịt nhiều như trâu bò chỉ được nuôi để cung cấp sức cày kéo trong nông nghiệp là chính. Trong khi đó, các loại vật cung cấp nhiều thịt này (cừu, dê, trâu, bò. . . ) lại rất phổ biến ở châu Âu.
Từ đó có thể suy ra việc người Việt nuôi chó thịt là đắc dụng, là đúng vì đây là loại thịt cho nhiều đạm, bổ sung vào thực đơn vốn chủ yếu là cá và rau - một thuộc tính của xứ nhiệt đới với thích hợp cho sự phát triển của các thảm thực vật. Ngoài ra, chó là con vật dễ nuôi, không cần phải bỏ ra công sức chăm sóc gì đáng kể. Trong tình huống như vậy, nếu người Việt không nuôi chó thịt mới là lạ.
Như vậy, có thể nói “hiện tượng” người Việt ăn thịt chó âu cũng là chuyện tự nhiên, có tính lịch sử lâu đời.
Về một phương diện khác, cũng không khó hiểu khi người đạo Hin-đu ở Ấn độ không ăn thịt bò vì họ quan niệm bò là vật tổ (to tem giáo) của họ, hay như người Hồi giáo không ăn thịt lợn vì theo quan niệm của bộ phận người này thì lợn là con vật dơ bẩn, chứa nhiều tật bệnh. Tuy nhiên, cũng không vì thế mà những người không ăn thịt lợn hay thịt bò nói trên lại cho mình cái quyền được bài xích bộ phận thế giới còn lại là đối xử man rợ, bất nhân với các loại động vật đó. Tương tự, người Việt ăn thịt chó âu cũng không có gì đáng phải bàn, ngay cả trong so sánh với người phương Tây là những người yêu quý giống vật này, vì mỗi nơi có hoàn cảnh riêng biệt, cụ thể.
Trong giai đoạn hội nhập với thế giới bên ngoài, đặc biệt là với người phương Tây, nơi coi chó là người bạn gần gũi của con người, người Việt đã và đang có những thay đổi trong quan niệm về món thịt chó truyền thống. Biết đâu trong tương lai sẽ không có món thịt chó trong thực đơn của người Việt.
Riêng cá nhân tôi, mỗi lần nhắc đến món thịt chó là tôi cứ phải nhớ lại những “câu hỏi khó” của thầy tôi và câu trả lời của mình. Chuyện tuy nhỏ nhưng cũng là một biểu hiện về ý thức ngoại giao văn hóa, ngoại giao nhân dân của một người Việt sống ở nước ngoài như tôi.
TS. Phan Quốc Linh (Bài gửi từ CH Bungari)
Thịt chó ta vẫn là nhất :p
Trả lờiXóachó ta vẫn thương chủ như chó Tây...có khác biệt gì.Cũng từng thử ăn một lần nhưng cứ thấy ngại mồm.Ko thấy ngon lành gì.Từ đó đến nay chả bao h chạm đến thịt chó
Trả lờiXóa