Câu chuyện lấy lại tên Thăng Long cho Thủ đô nước Việt hình như
là tuyển tập dài không có hồi kết. Bao nhiêu tâm huyết đóng góp của
nhiều trí thức hết lòng với Thủ đô đều bị rơi vào quên lãng. Tác giả
Nguyễn Cường gửi một bài thú vị về cách nhìn mới. Mong quí độc giả góp ý cho bài viết thêm phong phú. Commnent có thể
không lay chuyển được ai nhưng lại thay đổi được người viết. Đó cũng là
một thay đổi lớn.
Lấy lại tên Thăng Long cho đất Việt
Tác giả: Nguyễn Cường
Nhân đọc bài viết của một nhà văn khá nổi tiếng, ca tụng về những nét
đẹp vừa lãng mạn nên thơ, vừa hào hùng của Hà Nội, mảnh đất biểu tượng
cho ngàn năm văn hóa của dân tộc Việt, làm người viết không khỏi nhớ lại
một ý tưởng tình cờ đến, trong tiềm thức sau một giấc mơ kỳ lạ, cách
đây không lâu.
Thật vậy, cái âm hưởng của từ “Hà Nội” dám chắc đã in sâu đậm vào tâm
khảm ký ức mọi người, trải qua ít nhất cũng khoảng chừng gần mươi thế
hệ, nên đối với đa số không còn phải thắc mắc hay tìm hiểu gì thêm về
nguồn gốc hay ý nghĩa của nó.
Hà nội là Hà nội, là cái tên như Sài`gòn hay Huế, là tiếng gọi đầu
đời của biết bao trẻ thơ, là nơi chốn hẹn hò gặp gỡ của những văn nhân
nghệ sĩ, và cũng giống như hơi thở của nhịp sống luân lưu trong hàng
triệu triệu con dân Việt, thì sao lại còn phải dài dòng giải thích hay
thắc mắc làm gì!?
Ðó thường là cảm tưởng chung của những người miền Bắc mỗi khi có dịp
hỏi về ý nghĩa của Hà nội. Cũng có một số vị có sự kiên nhẫn độ lượng và
thông cảm hơn, đã đưa ra lời giải thích theo sát nghĩa, đơn sơ và dễ
hiểu là: Thành phố có con sông (Hồng), hay chính xác hơn, thành phố nằm ở
ven sông.
Nếu chỉ giản dị như trên, thì chẳng có gì đáng nói, và dĩ nhiên, cũng
chẳng có bài viết này. Nhớ lại câu châm ngôn thường nghe nói: không có
lửa, sao có khói? Thắc mắc được nêu ra đây là: Tại sao cái tên nguyên
thủy “Thăng long” được vua Lý Thái Tổ sáng lập khai sinh ra, kéo dài
trong suốt hơn tám thế ky,ủ qua biết bao triều đại, kể cả khi nhà Trần
đã cướp ngôi và thảm sát cả nhà dòng họ Lý, bị đổi tên khác là Ðông Ðô,
Ðông Quan, rồi Ðông Kinh cả hơn trăm năm, rồi cuối cùng cũng được trả
lại cho tên cũ, thì tại sao triều đình nhà Nguyễn lại quyết định bỏ đi,
rồi sau cùng thay thế luôn bằng cái tên Hà Nội?
Câu trả lời cho thắc mắc trên sẽ được lần lượt trình bày trong bài
viết này, theo chiều hướng suy luận chủ quan của người làm công việc
khảo cứu, không nhất thiết phải là hoàn toàn đúng, và chắc sẽ có được
tiếng nói phê bình từ nhiều giới độc giả hay các nhà chuyên môn nghiên
cứu về văn hóa sử.
Thông thường, tên của một địa phương hay thành phố, đa số xuất phát
từ một trong hai trường hợp sau: Tên khởi thủy do nhóm người đầu tiên
đến khai phá hay lập nghiệp, thường gọi hay đặt cho. Giống như trường
hợp tên người do cha mẹ đặt cho từ khi mới sinh ra, thường được giữ luôn
đến suốt đời và ít khi bị thay đổi, không ngoài lý do tôn trọng ý kiến
của nhửng bậc tiền nhân có công gây dựng. Ngoài ra, giữ được cái tên
nguyên thủy còn nói lên tinh thần muốn duy trì truyền thống bảo tồn văn
hóa của địa phương, chưa nói đến nhử~ng rắc rối về giấy tờ hay công việc
hành chánh khi phải thay tên đổi họ.
Do vậy, hiếm khi thấy tên của một thành phố hay thị trấn lớn trên thế
giới bị thay đổi, trừ một thiểu số vì lý do chính trị. Ðây thuộc về
trường hợp thứ hai với các lý do có thể tạm coi là chính đáng, như một
thuộc địa vừa được thâu hồi lại chủ quyền, và tên đường hay tên của
thành phố là do ngoại bang đặt cho khi còn đang ở thế mạnh, hoặc đang
chiếm đóng lãnh thổ.
Dù ở trong trường hợp nào, thì cái tên của một thành phố đều hàm chứa
một ý nghĩa nào đó, mà những người thẩm quyền khi đặt tên, phải mất
nhiều thời gian suy nghĩ đến, và ít ra cũng có sự đồng thuận của môt số
người. Tuyệt đối không thể cho là kết quả của một sự ngẫu nhiên hay tình
cờ theo cảm hứng cá nhân được. Hơn nữa, riêng trong trường hợp tiếng
Việt thuộc dạng đơn âm, nên dù chỉ có một chữ hay một âm thôi, cũng
thường cho ra nghĩa rồi, nói gì đến hai âm ghép vào. Dựa trên những suy
tư đó, người viết đã thử truy tìm nguồn gốc ý nghĩa của Hà Nội.
Hà có nghĩa là con sông thì đã quá rõ, ai cũng biết cả rồi, không
phải nói tới nữa. Riêng chữ “Nội” mới là vấn đề, vì từ “Nội” ở đây đóng
vai của một trạng từ hay tĩnh từ. Theo nghĩa đen “Nội” là ở trong như đã
giải thích, ngược lại với “Ngoại” là bên ngoài. Nghĩa đen bóng bẩy hơn
một chút thì Nội là chính, còn Ngoại là phụ, như ta vẫn thường nói họ
nội, hay họ ngoại. Thành phố có con sông chính, hay thành phố có con
sông chảy ngang qua là ý nghĩa thuần nhất của Hànội.
Có người thì cho rằng vì có Hà Bắc, Hà Nam, Hà Ðông và Hà Tây, nên có
cái tên Hà Nội ở giữa, cho hợp lẽ. Giải thích như vậy thì tạm được,
nhưng chưa thông và còn thiếu sót. Trước khi có tên Hà Nội thì chỉ có
các địa danh như Kinh Bắc và Sơn Tây.
Mãi sau này, khi đã có từ Hànội rồi, thì các “Hà” khác mới được khai
sinh ra sau cho có vẽ hợp lý. Ðúng ra, tên Hà Nội đầu tiên đã được đặt
cho một làng nhỏ nằm trong huyện Nông Cống thuộc tỉnh Thanh Hóa dưới
thời vua Lê chúa Trịnh.
Sự thật có thể không chỉ đơn giản như vừa nói! Hãy lý luận thêm một
chút: Một thành phố có con sông chảy qua là chuyện rất bình thường ở
khắp nơi trên thế giới, ngay cả như ở miền Nam chẳng hạn, không là điều
hiếm có, thì việc gì phải cần nhấn mạnh Hà “Nội với Ngoại” (hay chính
với phụ!?) Vậy, tạm thời quên cái ý nghĩa đen bên ngoài có vẻ như vô tội
vạ và ngay thẳng nhất. Còn lại, chỉ có thể là “người ta” thâm nho, muốn
chơi “chữ với nghĩa”, muốn ám chỉ một ý khác như “Con sông hướng về bên
trong” chẳng hạn! Xin nhắc lại, trong tiếng Việt thì giới tự đứng sau
danh từ và làm bổ từ, nên theo đúng văn phạm phải là “sông (ở) trong”.
Nếu đúng, thì quả là một điều cần xét lại. Bỡi vì, một con sông lớn
mạnh và bề thế như sông Hồng, phải chảy ra “ngoài” biển cả về với đại
dương, mới xứng đáng là rồng mây gặp hội, và nhất là không thể nào lại
chịu bị gò bó kềm hãm “trong” đất liền, chật chội nhỏ hẹp như những con
kinh, hay cái mương, cái rạch được. Ðây là chưa dám nghĩ tới cái ý quanh
co, khi muốn ám chỉ đến cái loại dòng nước cho ra từ “bên trong thân
thể của các sinh vật”!
Dù sao, trên là chỉ mới nói sơ đến cái nghĩa đen và bóng đơn thuần bề
ngoài, nhưng chưa nói đến ẩn nghĩa thâm sâu nhất, mà “người ta” muốn
ngầm hiểu, áp đặt vào cái vùng đất địa linh nhân kiệt, tiêu biểu cho cả
mấy ngàn năm văn hóa BáchViệt. Rồng hay Long, tuy là giống vật linh
thiêng tưởng tượng chỉ có trong truyền thuyết, nhưng nguồn gốc về hình
dạng vẫn thuộc vào loài bò sát, có thân mình dài như rắn. Cho nên theo
khoa hình tượng học, thì sông được ví như rồng, như sông Cửu long được
ví như chín (9) con rồng chảy cong vòng lượn mình uốn khúc qua lại.
Rắn hay Rồng, trong tư thế mạnh mẻ và đáng sợ nhất là khi chụp mồi
hay để tự vệ, thường ngẩng cao đầu lên, phóng ra “ngoài” hướng về phía
trước, để đối diện với nguy hiểm khó khăn hay kẻ địch. Ngược lại, trong
thế sơ hở hay yếu nhất thì cuộn tròn lại, quay đầu vào bên “trong” nghỉ
ngơi, lúc no mồi phè phởn, hay khi ngủ.
Câu trả lời đã bắt đầu xuất hiện một cách khá rõ ràng, giống như ta
đem hai bức tranh thật và giả treo sát bên cạnh nhau để so sánh sự tương
phản khác biệt. Nếu đem viết hai chữ Hà Nội ngay liền phía dưới Thăng
Long thì có thể thấy ngay có sự đối xứng nhịp nhàng. Cùng một ý là sông,
thay vì dùng “Long” hay rồng tượng cho sự thông minh cao quý, thì lại
biến cho thành “Hà”, tầm thường và nhỏ mọn như loài giun rắn.
Thay vì “Thăng” tiến, dũng cảm tự tin để hướng thượng đi lên, thì bị
làm cho u mê nhu nhược chui rúc vào “Nội” thành hang hóc để cầu an. Rõ
là nghĩa đối nghĩa, lời thay lời, theo cách đối đáp thời nho học còn
thịnh không thể nhầm lẫn được.
Và chỉ cần thế thôi, họ chẳng muốn phải làm mạnh tay hay hảm hại gì
cả. Chỉ cần phù phép làm cho con rồng Việt đang tính bay lên, đành chịu
quay lại rúc đầu vô bụng ngủ yên cho quên hết mọi việc, cho họ khỏi phải
bận tâm lo lắng. Tính đúng ra, thì con rồng Việt đã bị làm cho ngủ say
sưa mê mệt đến cả hơn một thế kỷ rưỡi!
Nhớ lại, chẳng phải chỉ có người viết mới có ý nghĩ như vậy thôi. Các
nhà làm văn hóa, các nhạc sĩ theo trực giác tự nhiên hay cảm tính bén
nhạy, cũng đã thấy được điều muốn nói. Phải gọi cho được bản nhạc hùng
ca là “Thăng long hành khúc”, mà không là “Hà nội hành khúc”!
Phải tựa như rồng đang bay lên lượn xuống, uy nghi mãnh liệt, cuồn
cuộn như sóng dồn, như hào khí của đắng Quân vương, anh hùng hào kiệt.
Phải được vậy thì mới xứng danh là đất của ngàn năm văn vật, niềm hảnh
diện của các sĩ phu Bắc Hà! Nếu không, thì chỉ là giống Lươn, giống
Trạch chuyên chui rúc ở bờ ao đầm lầy, có gì mà ca tụng, tự hào hãnh
diện.
Nghĩ cho cùng, không phải là chuyện mê tín dị đoan mà là dữ kiện khoa
học, cũng chẳng phải là Sấm truyền mà là Duy Lý Sử Quan, Thống Kê Xác
Xuất. Kể từ khi cái vùng đất được vị vua anh minh họ Lý cho mang tên là
“Thăng long” đó, thì ít ra cũng đã sản sinh cho đất nước những bộ óc
tuyệt vời, những “Phá Tống, Bình Chiêm”, “Hội nghị Diên Hồng”, hay “Bình
Ngô Ðại Cáo”. Nếu đã không làm cho đất nước trở thành cường quốc lẫy
lừng trong thiên hạ, thì cũng không làm gì hổ thẹn đến vong linh tiền
nhân.
Hà Nội hay Rồng Ngủ
Nhưng, kể từ khi mang cái tên Hà nội vào, thì may lắm cũng chỉ cho ra
đời những nhân tài đại khái như “Truyện Kiều còn, nước ta còn!”; “Thống
chế ơi, có tôi đây”; hay là tội nghiệp đáng thương hại hơn “Anh thành
công, thì em sẽ thành công; còn anh thất bại, thì em xin chịu thất bại
theo anh!” Ôi! còn đâu là cái hào khí của giòng giống Lạc Hồng muôn
thuở!
Nguyên do nào thúc đẩy vua Minh Mạng ra Sắc lệnh (hay Chiếu Chỉ) đổi
Thăng Long ra Hà Nội vào năm 1831, sau khi đã đăng quang nhiếp chính cầm
quyền gần một con giáp? Xin trở lại từ đầu, lý do chính ai cũng có thể
hiểu là dưới ảnh hưởng chế độ phong kiến thời xưa, cái gì thuộc về Vua
đều được ví như rồng, hay ngược lại.
Thăng long không còn là kinh đô triều đình thuộc nơi chốn vua ở nữa,
nên không được quyền mang tên Long. Tuy nhiên, thắc mắc ở đây là vì sao,
trong cả trăm ngàn tên đẹp đẽ có ý nghĩa thiếu gì trong kho tàng văn
chương Hán Việt hay Nho học không chọn, mà lại lựa ngay cái tên có vẽ
tầm thường như Hà nội vừa nói ở trên, mới là điều cần nêu lên nghi vấn.
Phải chăng vì sợ rằng miền đất đó sẽ cho ra những anh hùng cái thế có
thể làm nổi chuyện thay ngôi đổi chủ, hay vì sợ hồn ma của vua Lê chúa
Trịnh muốn quay về, nên họ đã tìm ra đủ mọi phương cách để phòng ngừa
hay chế ngự, bằng ngay cả các biện pháp thuộc lảnh vực huyền học siêu
nhiên?
Hẳn các vị quan lại đại thần thời đó, phải biết là hơn ngàn năm
trước, có một thái thú Cao Biền rất tinh thông về khoa Phong thủy, đã
không mấy thành công và cũng gần như bỏ mạng, vì muốn ém cái đầu rồng
của nước Việt. Hậu sinh thật đáng kính nể, dùng biện pháp mạnh như ông
thầy họ Cao, tính cắt phăng luôn cái đầu rồng thì thất bại, nhưng dùng
cách nhẹ nhàng hơn để dụ rồng quay đằu vô bụng ngủ, thì lại thành công
hoàn toàn, bằng khoa siêu hình hay tâm linh, phá được cái thế quý địa
“Nhả ngọc phun châu”, mà các thầy Ðịa lý ví như con rồng đang bay rồi hạ
giáng xuống vịnh Bắc Việt để phun nước (?).
Trăm dâu không thể đổ đầu tằm! Chắc chắn rằng vua Minh Mạng không chủ
động xướng xuất việc này, vì nếu có thành kiến hay nghi ngờ, thì ông đã
làm từ khi mới lên ngôi vua. Ngoài ra, ông cũng không giỏi gì lắm về
văn chương chữ nghĩa, lại ham mê luyện tập võ nghệ săn bắn, và có nhiều
phi tần mỹ nữ nhất trong các ông vua, thì không thể nào lại có những ý
tưởng “cao siêu” đến thế. Vậy thì còn lại giả thuyết là do một ông quan
nào đó đã “mớm” ý cho vua.
Giả thuyết trên tuy có vẽ hợp lý, nhưng vẫn còn thiếu sót. Hãy thử
suy luận xa thêm một chút, nếu thật sự đó là sản phẩm trí tuệ của ông
quan nào đó nghĩ ra, thì hẳn phải là người thuộc dòng khoa bảng thông
minh xuất chúng. Mà đã làmột bậc sĩ phu chân chính được xã hội trọng
vọng như vậy, thì danh dự, lương tâm của kẻ sĩ để đâu, để có thể cho
phép chính mình xúi dục vua làm cái chuyện ám hãm cho đất nước như vậy.
Câu trả lời ở đây chỉ có thể là do kết quả của những ông quan mà trí
óc không cao quá cái ghế ngồi của mình, chỉ biết nhìn thấy cái lợi ngắn
hạn trứơc mắt, để rồi bị gạ gẫm xúi dục, mua chuộng bỡi những hồn ma
bóng quế nào đó!
Tất nhiên, chắc sẽ có nhiều người thắc mắc cho rằng, dù giả thuyết
trên nếu có đúng đi chăng nữa, thì cũng chỉ là một cái tên gọi, một sự
liên tưởng mơ hồ thiếu cơ sở khoa học nào đó, giữa con rồng chỉ có trong
huyền thoại với con sông Hồng. Làm sao có thể dám kết luận đó là nguyên
nhân cho những sút kém thua thiệt mà cả dân tộc Việt phải gánh chịu về
sau này!?
Câu trả lời ở đây sẽ là: Tất cả những suy luận trên đều dựa hoàn toàn
vào bằng chứng sử liệu, trên cơ sở kiến thức khoa học ngày nay, và
không phải là chuyện giả tưởng do trí tưởng tượng sắp đặt, hay từ một sự
linh thiêng huyền bí nào cả. Ngôn từ về “Siêu hình” hay “Huyền học” có
nói đến ở trên, chính là hiện thân của khoa tâm lý học hay phân tâm học,
và kết quả của những cái gọi là huyền bí đo,ù chính là những phương
pháp “Tẩy Não” hay nhẹ hơn là “Tự Kỷ Ám Thị” được áp dụng cho ngày nay.
Dù sự thật có như thế nào đi nữa, quan trọng hơn hết, vẫn là cái tâm
cái ý của những người có quyền lực thời bây giờ khi muốn đổi ra tên
Hànội, rồi biến thành hành động thể hiện qua chánh sách xử dụng nhân tài
v.v. Thí dụ, trong bộ “Ðại Nam Chính Biên Liệt Truyện” do Quốc Sử Quán
Triều Nguyễn biên soạn, xuất bản vào khoảng năm 1909, viết về chuyện các
Hoàng Thân Quốc Thích, cùng các Quan từ thời vua Gia Long cho đến Ðồng
Khánh, gần một trăm năm.
Nếu bỏ ra các nhân vật thuộc Hoàng Gia Tôn Thất, thì trong tổng số
hơn sáu trăm (600) tên của các quan lại, có không quá năm (5) vị là có
nguyên quán gốc ở Hànội nói riêng, và không quá 60 vị có nguyên quán từ
Nghệ An hay sông Cả trở ra, nói chung cho Bắc Hà. Con số quá khiêm
nhường cho một miền đất mà tỷ số nho sinh sĩ tử dám chắc không dưới 30 %
của cả nước, vào thời bấy giờ.
Rồng là con vật tưởng tượng ai cũng biết, nhưng sở dĩ vân hóa Phương
Ðông thường nhắc đến coi như có thật, bỡi vì ngoài vấn đề uy quyền linh
thiêng dành cho vua chúa, nó còn là biểu tượng của sự sang giàu, cho trí
tuệ hay sự thông minh của con người. Chẳng cần đợi đến khi thực dân
Pháp qua hay mãi về sau này, ngay từ thời đất nước còn độc lập và xuyên
qua cả ngàn năm lịch sử, ai cũng phải khách quan nhìn nhận là miền Bắc,
được coi như cái đầu của con rồng Việt, siêu hình hay thực tế, biểu
tượng cho trí tuệ hàng đầu của cả nước. Từ đó, cũng chẳng có gì lạ khi
miền đất gọi là Thăng Long, não bộ của đầu rồng, đã là mục tiêu chính để
triệt hạ theo đúng sách vở, đánh rắn phải đánh ở cái đầu!
Nhìn lại một vài hiện tượng văn hóa đã xảy ra và chỉ khởi sắc từ miền
Bắc, như hát Ả Ðào hay Ca Chầu dành cho mấy Ông, hoặc lên “Ðồng
Cốt”dành cho mấy Bà. Hát Ả Ðào bình thường đúng là môn văn nghệ giải trí
có nguồn gốc từ cung đình cho vua quan thưởng thức. Thế nhưng sau này
đã được truyền ra trong dân gian, rồi bị biến dạng thành “nhà chứa” và
kèm theo luôn nhà hút á phiện.
Những món ăn chơi vừa nói, thật sự đã có từ thời vua Minh Mạng. Lúc
đầu chỉ nhắm vào các giới quan lại cựu thần vua Lê miền Bắc, được khuyến
khích mượn thú ca kỹ, đi mây về gió tại tư gia để giải sằu, quên đi
chuyện cũ mà thôi.
Nhưng đến thời vua Tự Ðức thì trở thành thương mại, lan xuống tận
giới trung lưu hay thành phần nho học trí thức, và khi người Pháp qua
cai trị thì họ lại càng mạnh tay khai thác để biến thành một phong trào
“Bảo tồn văn hóa”! Thời đó, giới sĩ phu Hà Thành mà không biết thưởng
thức cái món “Hát Ả Ðào”, thì không xứng đáng được coi là người lịch
lãm.
Hiện tượng trên đúng là phù hợp với cái ẩn nghĩa “Hà Nội” hay “Rồng
ngủ “. Vả lại, Rồng đang ngủ thì không thể làm gì khác trừ chuyện mơ
mộng viễn vông, nên nhân tài Bắc Hà trong thế kỷ qua chỉ có quy tụ vào
trong các bộ môn Thơ, Nhạc và Họa hay nói chung là về nghệ thuật, nghĩa
là cần có nhiều đức tính mơ mộng và trí tưởng tượng dồi dào, và phải rời
xa cái đất gốc thì mới có danh tiếng khá được! Ðó là chưa nhắc đến hiện
tượng đa số các văn nghệ sĩ có tiếng ở miền Bắc thời bấy giờ, không ít
thì nhiều, đều mang thêm vào cái nghiệp “Ði mây về gió”.
Trên chỉ mới là những biện pháp dành cho tầng lớp từ trung lưu trở
lên, nhưng vẫn chưa đủ, vì miền Bắc nước Việt thời đó phải có ít nhất
90% nông dân. Chính số đông này dù có cha mẹ thuộc thành phần bần nông
ít học, nhưng nhờ tính hiếu học và trọng khoa bảng, nên một số không ít
cũng cố gắng cho con đi học để có thể vươn lên. Ðối với đám đông quá
nhiều này, thì họ lại dùng phương pháp “tự kỷ ám thị”.
Lợi dụng lòng mê tín và thương con của các bậc cha mẹ, qua lời khuyên
bảo của mấy ông Ðồng bà Cốt hay các thầy Pháp Sư đã được huấn luyện và
mua chuộng, tìm những cái tên xấu xí, thô tục đặt cho trẻ con.
Thế là cái đất ngàn năm văn hiến đó đã một lúc cho ra đời hàng ngàn
hàng vạn những “Thằng Cu” và “Cái Hĩm”, đã là nơi phát xuất ra một hủ
tục phi nhân bản, phản dân tộc, tệ hại nhất trong lịch sử văn hóa
của….loài người!
Vì, ngay cả những bộ lạc kém văn minh ở miền núi hay bên Phi Châu,
cũng không hề gọi tên con mình xấu như vậy. Rõ ràng là người ta muốn cho
những mầm non tương lai của nước Việt, phải bị nhập tâm ngay từ khi còn
nhỏ: “Luôn luôn phải nhớ là giá trị của chúng mày chỉ xứng đáng với cái
tên được gọi”!!!
Tên “Nội Bài” có đáng là cửa ngõ quốc gia?
Nhân viết tới đây, không thể không nói đến một trường hợp tương tự
thứ hai xảy ra sau cái tên Hà nội, chính là tên của phi trường quốc tế
“Nội Bài”. Thú thật, người viết không thể hiểu được tâm trạng của cái
ông tác giả nào đã đưa ra cái tên kỳ lạ như vậy! Tại sao người ta lại
hay thích dùng chữ “Nội”?
Có thể nào là kết quả của những nổi lo sợ ám ảnh bởi chữ “Ngoại”, vì
liên hệ đến ngoại bang hay xài đồ ngoại hóa, nghĩa là không yêu nước?
Còn nếu cho là dùng chữ “Nội” vì do từ Hà Nội mà ra, thì sao lại ghép
liền với chữ “Bài”, mới thật là hết ý kiến vì khó hiểu và vô lý quá!
Trước hết, xét về nghĩa lý thì chữ “Nội” là ỡ trong, đã nói rồi và
không cần lập lại. Riêng chữ “Bài” thì chỉ có hai nghĩa mà thôi. Nghĩa
thứ nhất làm động từ là bài bác hay gạt bỏ đi. Ðiều này hoàn toàn vô lý,
vì nếu có ý đó thì “Bài Ngoại” chớ sao lại “Bài Nội”?
Nghĩa thứ hai còn lại là khuôn khổ có giới hạn, hay đóng khuôn trong
kích thước, như bài học, bài vẽ, bài ngà (thẻ bài), hay bài vị trên bàn
thờ. Tạm bỏ qua những nghĩa không ổn, chẳng hạn như phi trường của thủ
đô là phải thuộc hạng quốc tế, chỗ máy bay đi khắp bốn bể năm châu, làm
sao lại bị hạn chế trong nội địa được!
Vậy thì chỉ còn một nghĩa tạm thời có lý là “cái thẻ ở trong
(người)”. Có thể, theo nhận xét của người khai sinh ra cái tên Nội bài,
thì phi trường là chỗ mà ai tới đó phải có cái thẻ bài hộ chiếu thông
hành, thẻ xanh, thẻ đỏ, hay gì gì đó…..thì mới được đi(!?) Còn như dân
thường không có thẻ, thì chắc suốt đời làm gì được bén mảng đến phi
trường, nói chi đến chuyện đi xuất ngoại!. Nghĩa này tuy đơn sơ, nhưng
có thể hiểu được. Và nếu chỉ có vậy thì tội nghiệp và buồn cho cái phi
trường này quá.
Nhưng chưa hết, một giả thuyết khác có thể là trường hợp “chơi chữ’
của cụ nào vốn dòng thâm nho mà thôi. Giống như câu chuyện “Quần Thần”
hay “Bầy tôi” là ám chỉ “Bồi Tây”, biết đâu mấy cụ lại bắt chước ông
nghè họ Nguyễn, muốn nói “Nội Bài” đọc lái là “Lại Bồi” (theo cách phát
âm sai “N” thành “L”) nghĩa là mấy người ra phi trường thời đó để đi
xuất ngoại hay công tác nước ngoài chỉ là đi làm “Bồi” cho thiên hạ!
Nghĩa này thì có vẽ suy diễn hơi tiếu lâm, khó có thể xảy ra. Dám chắc
không cụ nào cả gan xâm mình để đùa kiểu như vậy.
Tuy nhiên, điểm thắc mắc chính ở đây là người Việt mình, nhất là sĩ
phu Bắc Hà rất nhạy cảm về những chữ nói lái, mà cớ vì sao lại không hề
có ai thấy từ lúc cái tên đề nghị còn nằm trên giấy tờ?
Cuối cùng, nếu tất cả giả thuyết trên đều sai, thì chỉ còn duy nhất
một trường hợp, rất là khó chịu khi phải nói ra đây. Số là người viết
thích ăn một món mà chỉ có mấy tiệm người Hoa làm mới ngon. Ðó là cái
món “Dồi trường”, nguồn gốc theo nguyên thủy là do từ “Nội trường” mà
ra.
Thành thử khi nghe đến cái tên Nội Bài thì tự nhiên người viết lại có
ấn tượng mạnh khi nhớ cách nói vắn tắt, bỏ bớt chữ thường hay dùng, thí
dụ như “Việt Nam Cách Mạng Ðồng Minh Hội” thì gọi tắt là “Việt Minh”.
Vậy thì có thể nào “Nội Bài” là do từ 4 chữ “Nội Trường Bài Tiết”?. Nếu
đúng vậy, thì quả là chuyện “kinh thiên động địa”, quá sức tưởng tượng
của mọi người!
Ai cũng biết rằng phi trường hay hải cảng đối với một thành phố, có
thể được ví như là cái miệng để nuôi sống con người về vật chất, nơi để
xuất ra hay nhập vào hàng hóa, cung cấp thực phẩm tiêu thụ cho dân
chúng. Riêng về phương dịên tinh thần, và với thời đại không gian này,
thì phi trường quốc tế còn là nơi trao đổi tiếp xúc với trí tuệ của thế
giới.
Những du học sinh về nước, các nhà kinh doanh hay các nhân vật quan
trọng (VIP) khi đến phi trường, thì cũng có thể coi như là mang sự thịnh
vượng về vật chất hay chất xám về tinh thần cho đất nước, hiểu chung
theo nghĩa bóng. Do đó, không thể coi thường, vì vô tình hay bị gạ gẫm
(?), khi đặt cho cái tên tếu lâm như vậy.
Những người có thẩm quyền, nếu cần, phải truy tìm tông tích nguyên
nhân nào, và ai đã chịu trách nhiệm xướng ra cái tên “Nội Bài”. Nghĩ
“quẩn” thêm một chút, chẳng lẽ bỡi vì có vị danh nhân nào đó đã phán
“Trí thức không bằng cục phân”, nên mới có lý do để “lòi ra” cái tên
“Nội Trường Bài Tiết”? Và, một sự liên tưởng khác, biết đâu ẩn nghĩa của
Hà Nội chính là “Hà Khứ Quy Nội”?
Ðể kết thúc bài viết này, xin có một vài đề nghị chân thành, mong
rằng những vị nào có thẩm quyền và cơ hội để làm được chuyện thay đổi
tốt đẹp cho đất nước trong tương lai, thì cũng nên cứu xét giùm cho:
1. Trả lại tên cũ là Thăng Long cho thủ đô của nước Việt. Ðây
không những là việc làm hợp tình hợp lý, mà còn có ý nghĩa vô cùng, vì
trong thiên niên kỷ mới này, người Việt nào cũng mong ước cho đất nước
mình sẽ trở thành con rồng đang cất cánh bay lên của châu Á.
2. Bỏ tên sân bay “Nội Bài” và thay thế bằng tên nào thanh tao
và có ý nghĩa hơn. Thí dụ, tại sao không gọi là phi trường “Hạ Long”?
Chữ Hạ Long mà dùng cho phi trường quốc tế ở thủ đô Thăng Long của nước
Việt, thì thật là tuyệt vời. Trước hết, nghĩa đen Hạ long là rồng giáng
hạ hay rồng đến nhà, vừa nói sự may mắn sẽ đến với mình, mà còn chứng tỏ
cho du khách, cái tinh thần quý trọng và hiếu khách của chủ nhà. Mặt
khác, theo nghĩa bóng và quan trọng hơn hết, là ám chỉ sự thịnh vượng và
nhân tài của thế giới, hay trí tuệ của khắp bốn phương, sẽ cùng nhau
theo cánh chim sắt đáp xuống, hội tụ vào càng nhiều càng tốt. Có được
như vậy, thì lo gì cái thủ đô Thăng Long hay con rồng nước Việt không
thức giấc để chuẩn bị cất cánh bay lên!.
Không còn chừng gần mười năm nữa là kỷ niệm đúng 1000 năm ngày khai
sinh ra “Thăng Long”, kinh đô đầu tiên của nước Việt độc lập và tự chủ,
biểu tượng cho tài năng và trí tuệ của giòng giống Lạc Hồng. Vậy thì
nhân dịp này và còn chờ gì nữa mà không.
Nguyễn Cường. 4-2011.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét