Thượng tướng Nguyễn Thế Trị, vị
tướng trận mạc nổi tiếng, nhà khoa học quân sự ưu tú của QĐND Việt Nam
đã kể cho chúng tôi nghe một câu chuyện lạ lùng về hành trình đi tìm mộ
mẹ của ông, kéo dài trong suốt 20 năm. Để tìm được mộ mẹ, ông đã di
chuyển khoảng 7.000km, nhờ cậy tới 15-16 nhà ngoại cảm, nhà tâm linh và
nhà khoa học, và ông cho rằng, đó là câu chuyện ấn tượng nhất trong cả
một “rừng sự kiện” của đời mình.
Tuổi thơ mất mẹ
Thượng tướng Nguyễn Thế Trị sinh đầu năm
1940 ở làng Cổ Phục, Kim Lương, Kim Thành, Hải Dương, một nơi nghèo khó
quanh năm chỉ có mấy chân ruộng lúa xen ít thửa trồng màu. Bố mẹ tướng
Trị sinh được 3 người con, ông là con thứ. Cả gia đình hồi ấy chỉ còn 11
thước vườn để ở, nguồn sống chính là làm nghề cấy rẽ và làm hàng xáo để
mưu sinh. Tuổi thơ của anh em ông tuy khó khăn thiếu thốn đủ bề, song
đó là những tháng ngày hạnh phúc trong vòng tay yêu thương của bố mẹ.
Ông và anh trai được bố mẹ cho đi học cùng một lớp, luôn được khen là
sáng dạ. Tuy là em, nhưng cậu bé Trị có vóc dáng nhỉnh hơn, khỏe mạnh,
nghịch ngợm và thường hay lý sự hơn anh. Bố mẹ ông thường hay nhận xét
vui, thằng Trị nhà này có đôi mắt xếch, không rèn từ bây giờ sau này lớn
lên không khéo thành tướng cướp! Biệt hiệu “Trị tướng cướp” nhiều năm
sau vẫn được bạn bè cùng trang lứa với ông nhắc lại như một kỷ niệm nhỏ
lúc thiếu thời.
Ngày 12/1/1947 (tức 21 tháng Chạp năm
Bính Tuất), quân Pháp mở trận càn lớn vào xã Vạn Thọ (nay là xã Kim
Khê), nơi có nhiều đồng bào xã Nhật Tân (nay là xã Kim Lương) tản cư ở
đó. Trận khủng bố này địch đã bắn chết 300 người dân vô tội, trong đó có
121 người dân xã Nhật Tân, gồm phần lớn người già và trẻ em. Ngày 21
tháng Chạp hàng năm trở thành ngày giỗ trận và cũng là ngày ghi dấu tội
ác của kẻ thù. Trận càn quét này gia đình tướng Trị may mắn thoát chết
do nhờ ông bà ngoại đưa đi tản cư sang xã khác trước đó vài ngày.
Ngọn lửa chiến tranh lan đến từng nhà.
Trẻ con thất học. Người già, phụ nữ vừa chạy loạn, vừa mưu sinh. Trai
tráng trong làng đi bộ đội. Nhà cửa bị đốt phá, ruộng vườn bị bỏ hoang,
bố đi đánh trận, mẹ tướng Trị dắt díu 3 người con chạy tản cư cùng với
gia đình các bác, cậu, dì; lớn bé, già trẻ tổng cộng tới 30 người. Tất
cả đều tuân theo sự chỉ dẫn của ông bà và các bác, các cậu. Bọn trẻ con
được người lớn mua cho mỗi đứa một cái bị cói để đựng quần áo cá nhân.
Bất kể đêm mưa hay ngày nắng, có lệnh là lên đường cùng cái bị cói “bất
ly thân”. Khốn khổ nhất là những đêm tản cư để tránh máy bay địch.
Những đêm ấy, mưa rét, đường trơn, băng qua ruộng lầy, cắt ngang luống
cày vỡ, gió buốt căm căm, áo xống phong phanh, anh trai của tướng Trị bị
ốm. Mẹ cho anh ngồi vào một bên thúng, thúng bên kia đựng đồ, tất tả
chạy theo mọi người. Bao năm qua đi, hình ảnh mẹ gồng gánh anh chạy giặc
đã hóa thạch trong tâm trí vị thượng tướng sau này.
Suốt mấy năm liền, gia đình tướng Trị
chạy giặc, chuyển chỗ ở nhiều nơi song chưa bao giờ bị bao vây sát sạt.
Đó là nhờ ông ngoại tỉnh táo, có kinh nghiệm, nắm được quy luật của
giặc. Ông rút ra, trước khi đánh chiếm xã nào, vùng nào, Pháp đều cho
máy bay thám thính từ 1 đến 3 ngày. Chỉ ngay ngày đầu, thấy máy bay do
thám, ông ngoại đã lệnh cho cả nhà đi nơi khác, tránh xa vùng nguy hiểm.
Chiến tranh! Chiến tranh! Cái chết ập tới
không phải chỉ bởi súng đạn của kẻ thù mà cả từ cuộc sống phiêu bạt,
trong đói cơm, rách áo. Khắc nghiệt trong hoàn cảnh đói khổ, thiếu thốn
thuốc men đã cướp đi của tướng Trị ba người thân yêu nhất. Em gái ông vì
cảm lạnh, thiếu thuốc kháng sinh nên đã ra đi. Năm 1948 là năm gian khó
của mọi vùng quê, bất hạnh lớn lại ập đến. Mẹ sinh em gái thứ tư, do
không được kiêng khem, đói khát nên bà mắc chứng hậu sản. Không bao lâu,
bà mất. Đó là ngày 29 tháng 8 năm Mậu Tý. Tướng Trị còn nhớ, trước lúc
lâm chung, bà đã gọi hai con vào dặn dò trong dòng nước mắt: “Sau khi mẹ
mất, thằng Sử (con cả) ở với ông bà ngoại, thằng Trị ở với bá”. Bà mất
khi mới ngoài 30 tuổi, còn tướng Trị lúc đó mới có 8 tuổi đầu! Người em
gái kế sau ông cũng mất sau đó vài tháng.
Với hai anh em, mất mát đó là quá lớn.
Hình ảnh mẹ lam lũ, chịu thương chịu khó, có miếng ngon thì nhường cho
chồng con, việc nặng nhọc thì dành lấy cho mình, cuộc đời ngắn ngủi của
bà là những kỷ niệm đau buồn nhất. Sau này tướng Trị được bà ngoại kể
lại một kỷ niệm làm ông càng thương mẹ nhiều hơn. Đó là vào khoảng đầu
năm 1946, mùa đông rét buốt thấu xương mà mẹ chỉ phong phanh manh áo vải
nên da thịt cứ tím tái lại. Thương con gái, bà ngoại cho mẹ một tấm vải
để về may áo mặc thêm cho ấm. Nhưng “đắm đuối vì con”, mẹ lại dùng mảnh
vải ấy để nhường hai con may áo trước.
Tướng Trị kể với chúng tôi rằng, cho đến
tận bây giờ, khi đã đi khắp mọi miền quê của đất nước, gặp nhiều người
mẹ tần tảo xứ Bắc, xứ Nam, nhưng đôi khi chiều về, lúc chạng vạng tối,
lòng ông vẫn nao nao nhớ về mẹ. Ông thấy hình bóng mẹ y nguyên như trong
bài thơ “Bên kia sông Đuống” của Hoàng Cầm: “Mẹ già nua còm cõi gánh
hàng rong/ Dăm miếng cau khô, mấy lọ phẩm hồng/ Vài xếp giấy dầm hoen
sương sớm”… Hình ảnh bà khắc sâu trong tim những đứa con, không chỉ
trong cuộc trường chinh ly hương chạy loạn những ngày xa xôi ấy. Khi là
Tư lệnh Quân khu 3, ông cùng các lãnh đạo, chỉ huy Bộ Tư lệnh trực tiếp
chỉ đạo thực hiện việc tạc tượng “Bà mẹ Sông Hồng”, đặt trang trọng
trong sân Bộ Tư lệnh Quân khu. Bà mẹ Sông Hồng là hiện thân của đức hy
sinh, lòng bao dung và nghị lực lớn lao, là hình bóng trong tim, từ
người lính cho tới cấp chỉ huy thuộc hàng cao cấp nhất trong quân đội.
Mẹ phù hộ một đời trận mạc
Tháng 5/1958, miền Bắc thực hiện đợt
nghĩa vụ quân sự đầu tiên. Như một lẽ đương nhiên, ông gia nhập quân
đội. Khi đó ông 18 tuổi. Ngay sau ngày nhập ngũ, ông hành quân về đơn
vị, đó là Sư đoàn 316 đóng quân ở huyện Tam Nông, Phú Thọ. Tiếp đấy là
những cuộc trường chinh vạn dặm. Ông không thể tưởng tượng được cuộc đời
mình lại gắn với núi rừng nhiều như thế. Ban đầu là rừng núi Tây Bắc,
rồi suốt dải rừng núi Tây Nguyên, rừng miền Đông Nam Bộ, sau này khi
chiến tranh biên giới phía Bắc nổ ra, tháng 2/1979, ông lại được điều
động về mạn núi rừng Đông Bắc tham gia phòng thủ.
Ông đã tham dự những trận đụng đầu sinh tử với quân thù, rồi sau đó
là những ngày dài bị chia cắt, cạn lương thực, đói đến nhợt nhạt giữa
núi rừng cao nguyên bình lặng, tràn nắng và biếc xanh mầu lá. Những trận
đánh mà mỗi người lính tay đều quấn băng trắng để tang đồng bào, trên
mũ viết dòng khẩu hiệu quyết tâm trả thù cho nhân dân Bình Sơn – Sơn
Tịnh bị Mỹ tàn sát. Những trận hứng mưa bom bão đạn, mảnh pháo bay xoèn
xoẹt, chém vào kim loại nảy lửa, mật độ pháo kích tăng lên rất nhanh khi
đối phương mất trận địa. Người lính chiến trường cảm nhận đối phương
giầu có, nhiều bom đạn bằng chính đôi tai, thân thể ám tro của mình khi
nấp trong giao thông hào, hố bắn.
Đời chiến trận trải dài theo tên của các
địa danh như Chư tan Kra, Chư Gô Tông, Chư Toác, Chư Beng, Đức Lập, Dầu
Tiếng, Sa Mát, Công Pông Thơm, Sài Gòn… Có những trận mà trung đoàn ông
diệt cả một chiến đoàn của địch, tiêu diệt 500 tên, bắt sống 334 tên,
thu 12 pháo, 287 súng và gần 100 máy thông tin, bắn cháy 162 xe các
loại.
Ở Quảng Trị năm 1972, Quân giải phóng
chốt được 81 ngày đêm, còn ở miền Đông Nam Bộ, trên Quốc lộ 13 quân ta
đã chốt được 150 ngày trong bão lửa. Tướng Trị có mặt ở đường 13 với tư
cách là một sĩ quan chỉ huy. Chiến sĩ Sư đoàn 312 – nhà thơ Lê Đức Mậu
sau này, có câu thơ: “Nếu hôm nay các anh về đông đủ/ Sư đoàn ta đông
bằng mấy sư đoàn”. Tướng Trị nói, đọc xong câu thơ ấy ông cứ thấy cay
nơi khóe mắt.
Có câu thơ mộc mạc thời chiến khác mà đến
bây giờ ông vẫn nhớ rằng:“Nếu một mai mình không trở về/ Cậu có nhớ lối
về nhà mình không cậu/ Dậu mồng tơi có bướm vàng đến đậu/ Mẹ mình
thường ở đó nhìn ra…” Tướng Trị nói với chúng tôi rằng, mẹ đã phù hộ ông
cả một đời trận mạc.
Sau ngày giải phóng, nhiều người lính trở
về hậu phương, hình ảnh quen thuộc là một anh chiến sĩ vai khoác balô,
trên lưng có con búp bê, hồn nhiên bước trên hè phố ra tàu về Bắc. Hơn
mười năm biền biệt xa quê hương, xa vợ con đi chiến trường, bố mẹ đều đã
mất cả, nay đất nước thanh bình, mong ước trở về quê, thăm lại nơi bước
chân ra đi, thăm lại “đường xưa lối cũ” bừng sống dậy. Ngày ra Bắc, ông
không đi theo đường quân vận mà đi xe đò. Hãng xe đò Phi Long có những
lái xe kỳ cựu, kinh nghiệm chạy đường trường rất tốt. Họ thay nhau lái
suốt ngày đêm, ngược Đường số 1, với tốc độ rất cao. Đêm dài miền Trung
trôi đi trong giấc ngủ chập chờn. “Đã qua sông Hiền Lương”, câu ai đó
nói trên xe, bình thản mà khơi gợi bao cảm xúc. Những ký ức vụn vặt,
chắp vá trên xe đò lại bị đánh thức bởi một cơn gió sớm từ biển thổi
vào. Gió tươi mát rượi làm tâm hồn sảng khoái. Vươn cổ nhìn ra ngoài,
ông thảng thốt nhận ra một chiếc vó bè treo trong sương sớm, một bóng
người nhỏ thó đang rướn lên kéo vó, vẻ nhọc nhằn. Đất Bắc nghèo khó đây
rồi! Ông bất giác kêu lên thành tiếng, lòng xốn xang một niềm vui khó
tả, chen lẫn một nỗi buồn se sắt. Nhìn những cánh đồng qua ô cửa, chiếc
đòn gánh vẫn trĩu vai người phụ nữ thôn quê. Dáng lưng còng của người
phụ nữ nông dân vẫn thế, khiến ông da diết nhớ mẹ. Ông kín đáo chùi nước
mắt, nhìn sang, hai người lính vào Nam ngồi ghế bên, nay trở về cũng
thẫn thờ nhìn ra con đường đang vùn vụt chạy lùi lại sau lưng.
Mẹ hiện về báo mộng
Cuộc sống của gia đình Thượng tướng
Nguyễn Thế Trị dường như đảo lộn khi mẹ hiện về trong một giấc mơ. Một
đêm năm 1989, vợ ông – người bạn đời ông cưới từ trước khi vào Nam chiến
đấu – nằm mơ thấy một người phụ nữ đến đứng ở đầu giường và nói: “Mẹ về
thăm vợ chồng các con đây”. Tướng Trị hỏi chi tiết về gương mặt và vóc
dáng và dù vợ ông không hề biết mặt mẹ chồng, nhưng qua lời kể ông vẫn
có thể mường tượng được người phụ nữ trong mơ đúng là mẹ của mình.
Tháng 8/1948, mẹ tướng Trị mất tại thôn
La Tỉnh, xã Chí Minh, huyện Tứ Kỳ (nay là thị trấn Tứ Kỳ, Hải Dương).
Năm 1951, Pháp bình định xong Đồng bằng Bắc Bộ, thị trấn Tứ Kỳ trở thành
vùng tạm chiếm, khu chôn cất mẹ ông bị Pháp san gạt làm trại lính. Năm
1954, Miền Bắc được giải phóng, nhưng Hải Phòng và huyện Kim Thành là
khu vực tập kết 300 ngày để Pháp dồn quân chuyển vào Nam. Trong thời
gian này, ông ngoại của tướng Trị đã tổ chức một đoàn sang Tứ Kỳ tìm mộ
con gái, nhưng chuyến đi ấy không có kết quả gì. Hiệp định Paris được ký
kết năm 1973, cũng là năm huyện Tứ Kỳ triển khai xây dựng bệnh viện
huyện, trên mảnh đất có xương cốt của mẹ ông. Địa phương có thông báo,
gia đình nào có phần mộ đều phải đến nhận và di chuyển, nhưng thông tin
đó không đến được với gia đình tướng Trị, nên một số mộ vô thừa nhận
được di chuyển ra nghĩa trang của xã.
Sau khi vợ mơ thấy mẹ, tướng Trị tổ chức
ngay một đoàn gồm cả bên nội, bên ngoại về lại Tứ Kỳ để tìm nơi chôn
cất. Khi tới thị trấn, cả đoàn tìm vào nhà cụ Kiệu Trụ, một người cao
tuổi để hỏi chuyện và được gặp con trai cụ là ông Triều, người vui vẻ
nhiệt tình giúp đỡ gia đình, đưa cả đoàn ra thăm khu bệnh viện, sau đó
ra thăm khu nghĩa trang của xã, nơi có những phần mộ được di dời. Chuyến
đi đó chỉ gợi lại những kỷ niệm đau buồn, chứ không có bất cứ cơ sở gì
để có thể tìm được mộ.
Trong lúc gia đình đi Tứ Kỳ, ở Kiến An,
Hải Phòng, cô Cần – một người “có năng lực khác thường” sang nhà chơi
và phán rằng: “Bác trai và gia đình hôm nay đi không kết quả gì. Mộ bà
nằm bên trong Bệnh viện Tứ Kỳ với các đặc điểm sau: – Bên phải mộ là
đường mòn, sau đường là nhà 2 tầng; – Bên trái là ao, cuối ao có nhà bỏ
không; – Đầu mộ nhìn ra, có cây um tùm; – Sau mộ là cây 2 chạc, từ cây 2
chạc nhìn ra cây um tùm đoạn giữa có gò đất, trên gò có cây xanh, gai
như gai cây mỏ quạ, đó là phần mộ của bà. Ngày mai phải đi nữa, phải đi
qua hai cây cầu lớn mới tới và trên xe chỉ được chở 4 người”.
“Sóng người âm” gây nhiễu?
Không thông báo cho ai biết, ngay ngày
hôm sau, tướng Trị cùng vợ, cô Cần và người lái xe trở lại Tứ Kỳ. Khi
ông vào bệnh viện để đối chiếu lại những điều cô Cần đã “phán” từ hôm
trước, thì quả thực có tồn tại một hệ thống đường sá, cây cối đúng như
mô tả. Bệnh viện nhiều người kéo ra xem, người thì bảo phải đào lên để
kiểm tra, người thì nói phải đem thuốn ra mà thuốn. Quan niệm xã hội lúc
bấy giờ (năm 1989) còn rất nặng nề, giữa chuyện tin hay không tin và
hoàn toàn xa lạ với những khái niệm như “tâm linh”, “ngoại cảm”. Không
hiểu sao lúc bấy giờ tướng Trị quyết định không đào, không thuốn. Ông
xin phép bệnh viện xây tạm cho mẹ một cái lăng nhỏ để con cháu có chỗ đi
về hương khói, thời cơ nào chín mới tìm kiếm, dời mẹ về quê…
Tháng 5/2005, Bệnh viện Tứ Kỳ thông báo
cho gia đình biết kế hoạch xây dựng lại và đề nghị di chuyển lăng mộ.
Đây là yêu cầu bất khả kháng. Để tìm mộ, ông quyết định phải dựa vào
“sức mạnh tổng hợp”. Các nhà ngoại cảm, ông dựa vào cô Bích Hằng, cậu
Liên, chú Bảy; các nhà tâm linh ông dựa vào cậu Hưng ở Ninh Giang, thầy
Sơn ở Hòa Bình; nhà khoa học ông dựa vào Tiến sĩ Bằng ở Công ty Môi
trường Hà Nội… Đợt 1 diễn ra từ 8/10 đến 18/10 âm lịch năm 2008, tướng
Trị sử dụng cả ba lực lượng, “hợp đồng binh chủng”, nhưng không có kết
quả. Ông tự nhận xét: “Có lẽ do sóng người âm bị nhiễu – bộ phận này phủ
định bộ phận kia chăng?”.
Nhưng có một điểm chung là cả ba lực
lượng đều khẳng định, sẽ tìm thấy hài cốt của cụ. Gia đình có hy vọng.
Đợt 2 diễn ra từ 25/10 đến 1/11 âm lịch, gia đình tham khảo thêm cô
Nguyệt ở Nam Sách, ông Hằng ở Thái Bình, bác Phê, bác Chính ở Trung tâm
Nghiên cứu Tiềm năng con người. Cô Nguyệt phán: “Đi từ cổng bệnh viện
tới cây bàng gần nhà dược, bên phải là nhà dược, đối diện nhà dược là
nhà ăn, phía tây bắc có bể không có nắp, phía tây nam có vạt đất đen, ở
giữa có nhiều cây chết khô, thì đó chính là mộ bà”. Sau gần 1 tháng đào
bới vô vọng, trong gia đình tướng Trị đã xuất hiện nhiều ý kiến bàn lùi
và dao động. Có người bức xúc không kiềm chế được đã nói ra miệng, với
thái độ hậm hực ra mặt. Chỉ có vợ chồng tướng Trị, bụng bảo dạ, đã làm
thì nhất định phải theo đuổi đến cùng.
Đợt 3 diễn ra từ ngày 4/11 đến ngày 18/12
âm lịch, gia đình tham khảo thêm Đại đức Thích Thanh Tùng ở chùa Quán
Sứ – Hà Nội, cô Liên ở Ninh Bình, cô Hà ở Hải Dương. Trong lúc đó, tướng
Trị vẫn duy trì đội thợ đào gần 10 người tại những nơi mà các nhà ngoại
cảm – tâm linh trước đây đã chỉ. Có một điều khiến ông thấy vừa lạ vừa
chứa chan hy vọng, là khi đi “xem” cô Liên ở Ninh Bình, mẹ không “lên”
mà người em út đã mất lại “lên” trách móc: “Các anh trong đầu không bao
giờ nghĩ tới việc đi tìm em, vì nếu tìm thấy mẹ là thấy cốt của em, bởi
sau lúc chết em được chôn cùng với mẹ”.
Khi tướng Trị nghe thấy những lời ấy, tự
nhiên ông ứa nước mắt và tự trách mình. Em nói đúng quá và em còn nói
thêm, khi mẹ mất, bố không có mặt ở nhà vì lúc đó là chiến tranh, bố đi
bộ đội ở xa, nhưng khi bố phục viên về công tác ở xã, trong đầu bố cũng
không bao giờ nghĩ tới việc tìm mẹ và các em. Ông xúc động mạnh, định
lấy máy ghi âm ra ghi, chẳng may chạm vào áo cô đồng, thế là cô ú ớ rồi
không nói gì thêm nữa.
Sau đó một tuần, anh trai tướng Trị về
quê xem cô đồng Hà, bố của tướng Trị “lên”, cụ tự nhận khuyết điểm và
nói rằng: “bố biết thời gian qua các con vất vả việc tìm hài cốt của mẹ
các con, việc này đáng lẽ bố phải làm khi còn sống. Thôi bây giờ bố
nhường lời để mẹ con chỉ dẫn”. Mẹ tướng Trị “lên”, bà chỉ khóc, một lúc
lâu sau bà nói sẽ chỉ cho các con một người để hướng dẫn tìm hài cốt mẹ.
Và bà lại tiếp tục khóc.
Trong lúc người của tướng Trị đào xới
không ngừng ở Bệnh viện Tứ Kỳ thì nhiều bạn bè ông ở xa, gần tới thăm và
chia sẻ thông tin. Đặc biệt có Đại tá Thắng – Phó giám đốc Bệnh viện 7 –
Quân khu 3, một buổi tối đánh xe xuống Tứ Kỳ thăm, xem nơi ăn ở và sức
khỏe của tướng Trị. Đại tá Thắng đề nghị công việc tìm kiếm phải kiên
trì, đề nghị thủ trưởng về nhà khách của bệnh viện để ở, có nước nóng để
dùng, điều kiện sinh hoạt tốt hơn ở quê, từ Hải Dương về Tứ Kỳ có 16km,
chỉ đi 20 phút là tới.
Tướng Trị đồng ý. Trên đường từ Tứ Kỳ
về Bệnh viện 7, người lái xe nói với Đại tá Thắng rằng: “Em thấy ở TP
Hải Dương có bác Hẳn – nhà ngoại cảm vừa tìm thấy hài cốt mẹ của một
đồng chí Thiếu tướng Công an, sao anh không nói với bác Trị?”. Đại tá
Thắng mắng át đi và nói rằng, đến cô Hằng còn chả tìm thấy nữa là ông
Hẳn!
Tướng Trị im lặng không nói gì. Sáng
hôm sau, trong lúc ngồi uống nước, ông đề nghị cho người đưa sang nhà
ông Hẳn xem sao. Đại tá Thắng đồng ý chiều thủ trưởng và cho người đi
liên hệ trước. Khi thầy Hẳn nghe xong nguyện vọng, ông thắp hương khấn
vái và xin âm dương.
Sau đó, ông lấy giấy bút ra ghi nội dung
“người âm nói”: Mộ cụ nằm ở gần ngã ba Chợ Yên, cách chợ khoảng 100m.
Tiểu của cụ có 5 đặc điểm: không có nắp; đậy bằng hai viên gạch Bát
Tràng; một viên to, một viên nhỏ; viên sẫm, viên nhợt; viên dưới tiểu mẻ
bên phải.
Ông Hẳn yêu cầu gia đình về ngã ba Chợ
Yên tìm và hỏi dân, nếu trước đây ở đó có gò đống và có mộ là ông sẽ tìm
được cốt của bà cụ. Ngay lập tức trong ngày hôm đó, tướng Trị đánh xe
tới ngã ba Chợ Yên. Chợ Yên bây giờ là một dãy phố nằm hai bên đường.
Tướng Trị lần lượt tìm hiểu qua 7 nhà nhưng không ai biết thông tin gì.
Sang đến nhà số 8, giữa ngã ba chợ, ông chủ nhà kể rằng, khi làm nhà
trong vườn có tới 4 cái tiểu, ông đã dời đi 2 cái khi đào móng và trong
vườn vẫn còn 2 cái nữa. Tướng Trị vô cùng mừng rỡ và quay trở lại gặp
thầy Hẳn thông báo tình hình. Thầy Hẳn nói, phải 20/11 âm lịch cụ mới
cho tìm, chứ muốn tìm bây giờ cũng không tìm thấy.
Ngày 20/11 âm lịch tới, gia đình tướng
Trị đón thầy Hẳn về ngã ba chợ Yên. Tướng Trị cố tình ép ông Hẳn vào nhà
số 8, nhưng ông Hẳn nhất định không vào ngôi nhà có hai chiếc tiểu chưa
di chuyển, mà cứ đi đi lại lại, xoay xoay chiếc nhẫn trên tay với bán
kính cách ngã ba Chợ Yên khoảng 50m.
Khi trở lại nhà số 8, ông Hẳn phán, cốt
của bà cụ nằm một trong hai chiếc tiểu mà gia đình này đã đưa ra nghĩa
trang khi đào móng. Khi tới nghĩa trang, ông Hẳn cũng không nói không
rằng gì, chỉ vẫn đi đi lại lại, xoay xoay chiếc nhẫn trên tay, xung
quanh với bán kính cách trung tâm khoảng 50m. Tướng Trị nảy ra sáng kiến
hỏi ông chủ nhà ở ngã ba Chợ Yên, khi chuyển hai chiếc tiểu ra nghĩa
trang, ông chủ nhà trực tiếp làm hay thuê người? Ông chủ nhà nhanh nhảu
trả lời, ông thuê ba người bạn ở thị trấn bê hộ và hiện cả ba ông đều
đang còn sống cả.
Tướng Trị mừng lắm, ông nhờ cô Hải, một
người quản lý nhà ăn của Bệnh viện Tứ Kỳ, cũng là người tự nguyện hương
khói trong nhiều năm qua cho mẹ ông trên chiếc lăng mộ xây tạm vào thị
trấn mời ba người khuân cốt của cụ trước đây ra nghĩa trang giúp gia
đình. Trong suốt khoảng thời gian gia đình triển khai tìm mộ, người thị
trấn ai cũng biết, nên khi cô Hải vào mời, cả ba người đều đồng ý ra
nghĩa trang. Cả ba người đều khẳng định trước đây nghĩa trang nhỏ, tiểu
đặt ở cạnh vệ đường ngay lối vào. Dường như có một sự trùng hợp tình cờ,
chính vị trí đặt tiểu ngày xưa, các trẻ chăn trâu mùa đông đốt cỏ sưởi,
tạo thành một vệt cháy tròn đường kính khoảng 0,9m, trông như sàng gạo.
Cả ba người khẳng định, đó chính là nơi các ông đã đặt tiểu trước đây.
Tướng Trị cảm ơn và dặn cả 3 ông, coi như
chưa có việc gì xảy ra, để xem thầy Hẳn phán ra sao? Khi thầy Hẳn quay
lại, ông đề nghị gia đình đặt lễ giữa nghĩa trang mà khấn. Tướng Trị
khấn: “Mẹ linh thiêng chỉ cho con cháu chỗ mẹ đang nằm để chúng con rước
mẹ về quê”. Sau đó, thầy Hẳn bảo tướng Trị lấy bó hương làm thước, đo
65 thước ngược đường đi vào. Hết 65 thước ở đâu thì mẹ nằm ở đó. Thật
bất ngờ khi kết quả hoàn toàn trùng lặp với điều ba người khiêng tiểu
vừa nói với tướng Trị cách đó 15 phút: mộ bà nằm tại vệt cỏ cháy đốt mùa
đông của trẻ chăn trâu. Vị sĩ quan từng vào sinh ra tử trăm trận ở các
chiến trường năm xưa bỗng nhiên lạnh toát, người nổi đầy gai ốc vì một
nỗi sợ hãi mơ hồ.
Pháp sư chiến thắng nhà ngoại cảm
Khi đội khai quật ấn xẻng sâu 20cm thì
lập tức chạm vào nóc tiểu. Khi cho đào rộng ra và lấy nước rửa sạch, nắp
tiểu có đầy đủ 5 đặc điểm mà thầy Hẳn đã phán cách đó nửa tháng ở TP
Hải Dương. Sau này, khi tướng Trị hỏi, làm sao thầy biết 5 đặc điểm ấy,
ông nói, đó là do “người âm chỉ”, ông chỉ có việc là ghi lại cho gia
đình mà thôi.
Khi thấy tiểu có đầy đủ cả 5 đặc điểm,
gia đình người thì bảo đưa cụ về thôi, đúng quá rồi còn gì? Thầy Hẳn thì
nói, các trường hợp khác ông giúp, khi đúng đặc điểm “người âm” chỉ
người nhà đều đưa về quê luôn. Tướng Trị phân vân, bởi ông không chỉ là
một vị Thượng tướng, mà còn là một PGS. TS, một nhà khoa học quân sự. Vì
mẹ đã mất 60 năm nay, để con cháu sau này không còn băn khoăn điều này
điều nọ, ông xin phép thầy được thử ADN đã. Thầy Hẳn vui vẻ đồng ý, thậm
chí còn nói đùa, nếu nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng cuộc với ông, ông
sẵn sàng đặt 100 triệu là hài cốt cụ ở đây chứ không phải nằm trong
bệnh viện huyện.
Thầy Hoàng Công Hẳn không phải là nhà ngoại cảm – ông là một pháp sư.
Tướng Trị bới lấy mảnh xương sọ và cái
răng hàm, gói kín vào túi nilon, cất gọn trong túi áo ngực. Mọi người hể
hả ra về nhà ông Triều ăn mừng kết quả, chúc nhau nhờ kiên trì mới có
kết quả hôm nay. Những người thợ đào mộ nói, hôm nay họ mới thấy nhẹ
người, vì suốt nhiều ngày đào bới khắp nơi chưa có kết quả gì, nhận tiền
công của gia đình trong lòng không khỏi áy náy. Tiệc đang vui, đột
nhiên có y sĩ Thúy (y sĩ Viện Quân y 7), cháu gái của ông chủ nhà tất tả
từ Hải Dương chạy về, hỏi tướng Trị đã tìm thấy cốt của bà chưa? Tướng
Trị sờ vào túi áo ngực thì không thấy túi nilon xương đâu nữa. Cả nhà bỏ
dở bữa cơm chạy ra nghĩa trang, may mà thấy gói xương vẫn rơi ở đó. Lại
là một sự ngẫu nhiên chăng, nếu y sĩ Thúy không về hoặc về không hỏi,
khi liên hoan xong tất cả kéo quân về Hà Nội thì không biết rồi sẽ như
thế nào?
Thời gian chờ thử AND khá lâu. Trong thời
gian ấy, tướng Trị vẫn tiếp tục cho tìm kiếm hài cốt tại Bệnh viện Tứ
Kỳ, nơi các nhà ngoại cảm khác đã chỉ. Đồng thời, ông cho dời mộ bố mình
từ Nghĩa trang Sông Doong về nghĩa trang của gia đình ở Đống Dạ. Ông
làm lễ cầu siêu cho mẹ, rước vong mẹ về nghĩa trang trước một bước. Việc
làm này nhằm vào hai mục đích: Một là, theo quan niệm của nhà Phật, con
người khi chết đi có 2 phần: phần Hồn và phần Xác, tìm thấy cốt là tìm
thấy phần xác, phải mời vong về mới trọn vẹn. Hai là, để phòng xa, nếu
có thử AND không đúng thì mọi người trong gia đình đỡ sốc vì hụt hẫng.
Tìm thấy túi xương đó đưa về Hà Nội thử
ADN, thông thường phải 45 ngày mới có kết quả. Sĩ quan phụ trách thử ADN
hỏi tướng Trị: “Thế chú công tác ở Học viện Quốc phòng ạ?”. Ông trả
lời: “Ừ, trước tôi làm Giám đốc Học viện Quốc phòng”. Người sĩ quan nói:
“Ơ chú cháu là ông Tuệ, Trưởng khoa Xe tăng ở Học viện Quốc phòng đấy”.
Tướng Trị động viên: “Chỗ quen biết, cháu hết sức giúp chú với, năm hết
tết đến rồi. Cứ đúng lịch mà làm thế này, nhỡ sáng mồng 5 tết mà thông
báo không phải cốt của bà thì gia đình buồn lắm”. Người sĩ quan nói:
“Thôi để cháu động viên anh em nhân viên làm, rút ngắn xuống 30 ngày”.
Ngày mồng 8/1/2009, tức ngày 20 tháng
Chạp, Phòng Công nghệ tế bào động vật – Viện Công nghệ Sinh học mời
tướng Trị đến 18 Hoàng Quốc Việt, Hà Nội để nhận kết quả. Xác nhận: “Kết
quả phân tích: mẫu hài cốt đã phân tích có liên quan huyết thống theo
dòng mẹ với các mẫu máu của ông Nguyễn Thế Trị”. Ngay tối hôm ấy, cả nhà
tổ chức bốc cốt bà đưa từ Tứ Kỳ về nghĩa trang gia đình ở Đống Dạ, thôn
Cổ Phục, Kim Lương, Kim Thành, Hải Dương. Hai ngày sau, gia đình lên
Hải Dương tạ ơn thầy Hẳn, trong đó có một bức nhung đỏ thêu 4 chữ lớn
“Đức lưu mưu duệ” (tạm dịch: Việc làm của thầy Hẳn để lại phúc đức cho
con cháu). Bên dưới có thêu: “Thay mặt gia đình cảm ơn Pháp sư Hoàng
Công Hẳn đã tìm thấy hài cốt thân mẫu thất lạc 60 năm (1948 – 2009) –
Thượng tướng Nguyễn Thế Trị”.
Từ lúc gặp lại mẹ trong mơ cho đến khi
tìm thấy hài cốt, trọn vẹn là 20 năm trời. Tướng Trị tâm sự: “Các thầy
nói với tôi như thế này, đi tìm hài cốt người nhà, quan trọng nhất là
người đi tìm phải có cái tâm, thứ hai phải biết sàng lọc thông tin, thứ
ba phải kiên trì, có sức khỏe, có điều kiện kinh tế thì mới có thể toại
nguyện được. Câu chuyện này tôi muốn kể cho các bạn để thấy một điều
rằng, không phải tất cả các nhà ngoại cảm đều nói đúng cả đâu. Và mặc dù
tôi tìm hiểu thông tin của các nhà ngoại cảm, tâm linh đến 15-16 người,
nhưng cuối cùng thì vẫn phải theo khoa học, dựa vào khoa học, vẫn phải
thử ADN, đúng ADN kết luận như thế này rồi tôi mới tin.
Mình vẫn quan tâm đến khả năng tâm linh,
khả năng ngoại cảm nhưng cuối cùng phải thử AND thì mới có cơ sở khoa
học để tin cậy được. Và việc này tôi đã làm đúng, nếu không thử ADN thì
ngay chính con cháu tôi cũng chẳng ai tin. Sau này, có một nhà ngoại cảm
nói với tôi rằng, thông thường thì người dương đi tìm người âm, nhưng
không phải người dương muốn tìm là người âm ủng hộ ngay, đôi khi người
âm còn thử người dương xem có thực tâm hay không, hay vì “phong trào”,
hay vì động cơ gì? Ngoại cảm thì cũng chỉ đúng một tỉ lệ nhất định thôi,
còn khoa học mới là chỗ dựa tin cậy nhất, chứ đừng để người ta hiểu lầm
rằng tôi là Thượng tướng, PGS. TS mà lại mê tín dị đoan, ngoại cảm”.
Sau khi tìm thấy mộ mẹ, năm 2009, Thượng
tướng Nguyễn Thế Trị bán căn nhà đang ở của mình ở Chùa Hà để chia cho
ba con, khoản tiền còn lại vợ chồng ông lại mua một căn nhà nhỏ hơn để
sống dưỡng già. Ông cũng đã sửa sang xong nhà thờ ở dưới quê, còn lại
thời gian, ông đi tìm được mộ hơn 200 đồng đội tại Chư tan Kra – Sa
Thầy, Kon Tum hy sinh trong trận đầu đánh Mỹ năm 1968. Đồng thời, ông
cũng đã dốc sức viết trong suốt 10 tháng, hoàn thành cuốn hồi ký của
cuộc đời mình. Thượng tướng Nguyễn Thế Trị kết luận buổi trò chuyện với
chúng tôi rằng, sau khi tìm thấy hài cốt mẹ, mọi việc lớn còn lại trong
đời ông đều đã làm xong cả. Đôi mắt xếch của ông sáng lên vẻ hiền từ,
quả cảm và nhân hậu.
——
“Thượng tướng Nguyễn Thế Trị là một
trong những cán bộ ưu tú của quân đội ta. Trưởng thành từ chiến sĩ đến
cán bộ Sư đoàn, Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh, Phó tư lệnh về
Chính trị, Tư lệnh Quân khu 3, Giám đốc Học viện Quốc phòng, Ủy viên BCH
Trung ương Đảng các khóa VII, VIII, IX… Dù ở cương vị nào, quân sự hay
chính trị, đơn vị chiến đấu hay nhà trường, đồng chí luôn là một cán bộ
có bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ
quốc và nhân dân; dũng cảm, mưu trí, linh hoạt, quyết đoán trong chiến
đấu; đổi mới, năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách
nhiệm trong xây dựng đơn vị và trong huấn luyện, đào tạo cán bộ” – Đại
tướng Nguyễn Quyết – nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương
Đảng, Phó chủ tịch HĐNN, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị QĐND Việt Nam –
nhận xét”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét