Vượt “bẫy thu nhập trung bình”
Nguyễn Minh Đức, 19-3-2025 Việt Nam đang đặt mục tiêu tăng trưởng 8% trong năm 2025 và sẽ lên hai con số từ năm 2026 trở đi. Mức tăng trưởng cao này sẽ tiếp tục trong hai thập kỷ. Vì sao lại có con số này? Thông điệp khá rõ ràng, lãnh đạo Việt Nam đang quyết tâm thoát bẫy thu nhập trung bình.Tôi từng học chương trình master về quản lý chính sách kinh tế tại Đại học Columbia. Chương trình này được thiết kế dành riêng cho những người mid-career đang làm về chính sách kinh tế tại các nước đang phát triển. Bạn học của tôi đến từ 25 quốc gia trên thế giới, hầu hết là [các] nước đang phát triển. Chúng tôi có duy nhất một bạn học là người Mỹ. Bạn đó theo học chương trình này vì đang làm cho Bộ Ngoại giao Mỹ chuyên về trừng phạt kinh tế các nước đang phát triển.
Nói vậy để các bạn hiểu, chúng tôi cực kỳ tập trung vào chính sách kinh tế của [các] nước đang phát triển. Và đương nhiên, chúng tôi không thể không tranh luận về vấn đề “bẫy thu nhập trung bình” và làm thế nào để thoát khỏi nó.
Đầu tiên, xin nói một chút về bẫy thu nhập thấp. Bẫy thu nhập thấp là tình trạng vòng lặp đói nghèo. Nghèo thì tiền làm ra chỉ đủ để ăn tiêu, không có tính luỹ để đầu tư. Không có đầu tư thì không thể tăng năng suất. Năng suất thấp thì thu nhập thấp và tiếp tục đói nghèo. Cái vòng luẩn quẩn nghèo này có lẽ dễ hiểu với chúng ta. Các quốc gia nằm trong vòng lặp đói nghèo này thường bị vướng các vấn đề nội chiến, sắc tộc, tôn giáo, chính trị phức tạp.
Muốn thoát bẫy thu nhập thấp thì không quá khó. Chỉ cần đất nước đó có hoà bình, công nhận kinh tế tư nhân, mở cửa nhập khẩu vốn. Cái này ở Việt Nam gọi là Đổi mới.
Tại các nước nghèo này, thứ thừa nhất là lao động và thứ thiếu nhất là vốn. Mở cửa nhập khẩu vốn, vay nợ để đầu tư công cho hạ tầng, phát triển thị trường tài chính… Tất cả những biện pháp này giúp tăng vốn rất nhanh và đem lại tăng trưởng.
Giai đoạn mới thoát khỏi bẫy thu nhập thấp, thường thì kinh tế tăng trưởng rất nhanh, có thể lên đến 10% mỗi năm và kéo dài nhiều năm. Sau một thời gian, quốc gia này được xếp vào nhóm thu nhập trung bình.
Nhưng người ta thấy một hiện tượng là khi đã vào nhóm thu nhập trung bình, tốc độ tăng trưởng trung bình dài hạn của nhiều nước cứ chậm dần lại theo thời gian. Đây chính là bẫy thu nhập trung bình.
Tuy nhiên, cũng có vài quốc gia mà tốc độ tăng trưởng cao được duy trì dài hơn, và thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình, tiến vào nhóm thu nhập cao. Đến khi có thu nhập cao rồi thì tốc độ tăng trưởng của hầu hết các nước đều giảm, nên nhiều người nói vui là có cái gọi là bẫy thu nhập cao.
Có một lưu ý rất quan trọng là việc thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình thường chỉ diễn ra trong giai đoạn dân số vàng. Nếu hết dân số vàng mà không thoát được khỏi bẫy thu nhập trung bình thì sau đó rất khó. Vì thế mới có cái nguy cơ “Chưa giàu đã già”.
Dân số vàng xuất hiện sau khi một quốc gia ra khỏi đói nghèo. Khi đó, việc chăm sóc sức khoẻ tốt lên, tỷ lệ tử vong giảm mạnh, trong khi tỷ lệ sinh vẫn cao. Điều này tạo nên một giai đoạn bùng nổ dân số. Sau một thời gian, tỷ lệ sinh giảm dần do xã hội công nghiệp hoá, tâm lý dân cư thay đổi, ngại đẻ.
Dân số tăng đương nhiên góp phần vào tăng trưởng. Nhưng không chỉ vậy, dân số tăng còn khiến người ta kỳ vọng cao hơn vào tăng trưởng trong tương lai, vì thế người ta sẽ đầu tư nhiều hơn, thông qua tiết kiệm và nhập khẩu vốn. Vì thế, tốc độ tăng dân số có thể chỉ là một, nhưng nó giúp hút thêm vốn, kết quả là tăng trưởng tổng thể thường cao hơn tăng dân số.
Nhưng dân số cũng sẽ có tác động ngược lại. Khi dân số sắp già, kỳ vọng tương lai giảm, các luồng tiền đầu tư sẽ giảm, dòng vốn lại đi tìm nước dân số trẻ hơn. Vì thế, nếu quốc gia đã sang giai đoạn dân số già, tốc độ tăng trưởng sẽ giảm mạnh hơn tốc độ giảm dân số. (câu chuyện nhập khẩu lao động sẽ nói khi khác)
Một vấn đề nữa là khả năng tích luỹ vốn của nền kinh tế.
Như đã nói, muốn tăng trưởng thì cần vốn. Vốn có thể nhập khẩu hoặc tự tích luỹ thông qua tiết kiệm và thị trường tài chính. Nhập khẩu vốn thì vui, nhưng sau đó sẽ phải đối mặt với việc dòng vốn bị rút ra. Các chính sách quản lý ngoại hối hay đầu tư chỉ có thể tác động đến tốc độ nhập khẩu hay xuất khẩu vốn, không thể đảo ngược xu hướng đó. Như trên đã nói qua, dòng vốn toàn cầu sẽ chảy đến nơi mà nó nghĩ là sẽ sinh lợi tốt. Vì thế, đây là liều thuốc tốt để thoát khỏi bẫy thu nhập thấp, nhưng lại không có nhiều tác dụng khi muốn thoát bẫy thu nhập trung bình.
Tiết kiệm để tạo vốn nội sinh của quốc gia là đặc biệt quan trọng. Để có điều này cần hai yếu tố là văn hoá tiết kiệm của dân và (chính sách) thị trường tài chính tốt.
Tôi có một ông thầy người Argentina, ổng luôn ghen tị với dân Á Đông. Vì ổng tin rằng dân Mỹ Latin chỉ thích tiệc tùng, không thích tiết kiệm, nên rất khó để thoát bẫy thu nhập trung bình.
Ngược lại, khả năng thoát bẫy thu nhập trung bình của các nước Á Đông có vẻ tốt hơn, khi các nền kinh tế Nhật, Hàn, Đài Loan, Hong Kong, Sigapore và Trung Quốc đã thoát. Nhưng cũng nhiều nước ASEAN khác đang rơi vào bẫy. Như vậy, quốc gia nằm trong nhóm các nước Châu Á – Thái Bình Dương sẽ có cơ hội thoát bẫy thu nhập trung bình cao hơn, nhưng điều đó là chưa đủ.
Đó là hiện tượng bẫy thu nhập trung bình. Giờ chúng ta sẽ lý giải vì sao nó tồn tại và làm thế nào để thoát khỏi nó.
Nhiều người nói, vì do chính sách kinh tế. Nếu chính sách kinh tế tốt thì sẽ vượt qua được, còn nếu chính sách kinh tế dở thì sẽ bị rơi vào bẫy. Giải thích như thế đúng, nhưng chưa đủ. Đúng là vì chính sách kinh tế gần như quyết định toàn bộ việc một quốc gia sẽ rơi vào hay thoát được khỏi bẫy thu nhập trung bình. Nhưng điều gì cho ra chính sách kinh tế tốt?
Nếu chỉ là biết thế nào là chính sách kinh tế tốt thì nhiều giáo trình đã nói. Chỉ cần vài nhà kinh tế học tư vấn cho chính phủ là thoát bẫy được thôi, mà sao các nước cứ lần lượt rơi vào bẫy vậy?
Đó là vì, để ra được chính sách kinh tế tốt, cũng có giá của nó, và trong nhiều trường hợp, các chính trị gia không muốn trả cái giá đó. Vì vậy, họ đã đưa ra các lựa chọn chính sách thuận về mặt chính trị hơn trong ngắn hạn, nhưng nghịch cho nền kinh tế về dài hạn.
Ở đây, tôi muốn tập trung phân tích các yếu tố chính trị để có thể đưa ra chính sách kinh tế tốt, và cả chính sách dở. Chính sách kinh tế thì có hàng ngàn vấn đề, tôi chỉ xin lấy ví dụ một số.
Kích cầu hay trọng cung
Trọng cung là các chính sách giúp phía cung có thêm năng lực để sản xuất và cung ứng nhiều hàng hoá, dịch vụ hơn. Nó bao gồm việc tăng đầu tư cho hạ tầng, giáo dục, khoa học công nghệ; cải cách hệ thống tư pháp để giải quyết tranh chấp nhanh hơn, công bằng hơn; tạo thuận lợi làm thủ tục hành chính; chống tội phạm kinh tế, chống độc quyền,… Nói chung là làm sao cho doanh nghiệp thuận tiện kinh doanh trong một môi trường thúc đẩy đầu tư, công nghệ.
Kích cầu là việc tác động vào phần cầu của nền kinh tế, chủ yếu gồm nới lỏng chính sách tài khoá và tiền tệ. Chi tiêu công, giảm thuế, tăng cung tiền đều là các giải pháp kích cầu.
Cả hai loại chính sách này đều sẽ giúp con số GDP tăng lên. Nhưng trọng cung mới là tăng trưởng thực chất, còn kích cầu chỉ mang lại tăng trưởng trong ngắn hạn và gây thiệt hại về dài hạn như khủng hoảng kinh tế hoặc lạm phát cao. Ai cũng biết vậy, nhưng nếu để đạt tăng trưởng GDP, lãnh đạo lại thích kích cầu hơn là trọng cung. Vì mấy lý do:
Thứ nhất, kích cầu nhanh hơn, đẹp con số trong nhiệm kỳ của mình. Còn trọng cung thường có độ trễ vài năm đến vài chục năm, bây giờ tôi có làm tốt thì nhiệm kỳ sau được hưởng chứ không phải tôi.
Ví dụ nhé, một trong những chích sách trọng cung tốt nhất là cải cách hệ thống tư pháp để tăng tính minh bạch và khả năng dự đoán phán quyết của toà án, giảm thời gian giải quyết tranh chấp, tăng tỷ lệ thi hành án dân sự thành công, giảm tỷ lệ huỷ phán quyết trọng tài… Những hành động này thực sự có lợi cho phát triển kinh tế. Nhưng để việc cải cách tư pháp trên ngấm được đến từng người dân và doanh nghiệp, kích thích họ tự tin hơn khi bỏ tiền đầu tư hoặc giao kết hợp đồng, thì cần hàng thập kỷ. Lúc đó có ai ghi danh cho lãnh đạo đã làm tốt đâu.
Thứ hai, kích cầu là giảm thuế, tăng chi trợ cấp cho người dân, miễn học phí, miễn viện phí, trợ cấp giá xăng giá điện… Toàn những thứ được dân khen, được báo chí tung hô. Còn chính sách trọng cung thì ít được khen ngợi hơn.
Vậy nên, trong ngắn hạn, chính trị gia thường dùng chính sách kích cầu để đạt tăng trưởng đẹp trong năm tới, có thể nhằm chuẩn bị cho một cuộc bầu cử chẳng hạn. Nhưng nếu ông ta có ý định dùng kích cầu để tăng trưởng cao dài hạn thì chắc chắn đó là thảm hoạ. Thậm chí, nếu mục tiêu là tăng trưởng dài hạn thì còn phải chấp nhận thắt chặt để giữ lạm phát và lãi suất cho vay thấp nhằm tạo điều kiện cho đầu tư tư nhân.
Bảo hộ thị trường và ưu đãi hỗ trợ ngành kinh tế
Bảo hộ thị trường và ưu đãi hỗ trợ ngành kinh tế cũng là một sự lựa chọn khó khăn cho chính trị gia. Đây là các chính sách tác động đến từng ngành kinh tế, chủ yếu thông qua các biện pháp như trực tiếp đầu tư qua doanh nghiệp nhà nước, cắt giảm thuế, trợ cấp thông qua giá điện hoặc các khoản vay lãi suất thấp và dựng hàng rào đối với hàng nhập khẩu…
Nhiều nhà kinh tế cho rằng các chính sách phát triển ngành này là trung tâm trong tiến trình vượt bẫy thu nhập trung bình của các nước Đông Á như Nhật, Hàn, Trung Quốc… Nhưng cũng nên nhớ rằng hàng chục nước khác cũng có chính sách bảo hộ hay ưu đãi hỗ trợ ngành kiểu này, nhưng vẫn rơi vào bẫy.
Kịch bản tốt của một chính sách phát triển ngành là Nhà nước dùng nguồn lực và quyền lực của mình, để giúp doanh nghiệp nội địa phát triển trong giai đoạn đầu, tích luỹ vốn và kinh nghiệm. Sau khi các doanh nghiệp này đã đủ năng lực cạnh tranh với nước ngoài thì cắt giảm và bãi bỏ các chính sách bảo hộ hay ưu đãi.
Làm chính sách phát triển ngành này rất khó. Nếu thiếu thì doanh nghiệp không đủ lực để phát triển. Nếu thừa thì doanh nghiệp sẽ ỉ lại và cũng không chịu phát triển. Thậm chí, các doanh nghiệp thường kiếm lợi nhuận trước mắt và dùng lợi nhuận đó để vận động duy trì chính sách bảo hộ và hỗ trợ. Vận động có thể bằng nhiều cách, cả sạch và bẩn.
Quan trọng hơn, các chính sách hỗ trợ ngành này thường nhận được sự ủng hộ về mặt chính trị. Bởi người nào được hỗ trợ thì sẽ to mồm ủng hộ còn người khác thì không muốn to mồm phản đối. Thậm chí, nếu trong bộ máy nhà nước có cơ quan được giao nhiệm vụ phát triển một ngành, thì cơ quan đó sẽ chủ động vận động cho chính sách ưu đãi hỗ trợ của ngành mình chứ chẳng cần đợi đến doanh nghiệp trong ngành kêu.
Có lần mình phàn nàn với nhóm bạn là nước tao có nền kinh tế quả mít, vì ngành nào cũng được coi là mũi nhọn và được ưu đãi, thậm chí Việt Nam còn ưu đãi hỗ trợ cả những ngành untradable (tức là những ngành không bao giờ phải cạnh tranh với nước ngoài). Chúng nó ồ lên cười và bảo nước nó cũng thế. Có lẽ, tình trạng ưu đãi hỗ trợ tràn lan nhằm ban phát lộc lá diễn ra phổ biến.
Điều kiện gia nhập thị trường và các rào cản kinh doanh
Một ví dụ đơn giản như các cửa hàng ở sân bay. Nếu tất cả các cửa hàng này đều chung một chủ thì sẽ có vị thế độc quyền. Sự độc quyền này cho phép họ tăng giá mà không chịu áp lực cạnh tranh. Doanh nghiệp này sẽ sử dụng lợi nhuận độc quyền để vận động quan chức nhằm tiếp tục duy trì vị thế độc quyền của mình. (nhắc lại, vận động ở đây có thể bao gồm cả sạch và bẩn).
Sự liên kết giữa doanh nghiệp và quan chức như vậy có thể xuất hiện ở hầu hết các ngành kinh tế. Vì thế các quan chức sẽ rất thích môi trường kinh doanh càng nhiều giấy phép càng tốt, tiêu chí cấp phép càng cao hoặc càng mơ hồ càng tốt.
Các doanh nghiệp đã được kinh doanh, đang tồn tại trong thị trường thì muốn rào cản gia nhập thị trường thật cao để bớt đối thủ cạnh tranh. Còn những doanh nghiệp muốn giảm rào cản gia nhập thị trường thì lại chưa tồn tại. Nghịch lý này khiến cho việc cắt giảm điều kiện gia nhập thị trường rất khó thực hiện.
Có lần, tôi tham gia một cuộc họp thảo luận về một ngành kinh tế mà trên thị trường chỉ có vài doanh nghiệp (xin phép không nêu tên, vì tôi hèn). Hai quy định được nói nhiều nhất là thủ tục để xin phép kinh doanh lần đầu và thủ tục để mở rộng kinh doanh.
Một doanh nghiệp đứng lên ủng hộ mạnh mẽ quy định thủ tục xin phép lần đầu càng khó càng tốt, yêu cầu đủ thứ từ vốn lớn, quy mô lớn, kinh nghiệm nhiều. Đương nhiên, họ sẽ lấy các lý do như ông nhỏ thì không an toàn, khó quản lý, quyền lợi người tiêu dùng không được bảo đảm. Nhưng ai cũng biết, lý do thật của việc này là do họ không muốn có ông khác vào thị trường cạnh tranh với họ.
Đến khi tranh luận về thủ tục mở rộng kinh doanh, cũng doanh nghiệp đó đề nghị bỏ, bởi quy định này cản trở họ đang trên đà phát triển. Tuy nhiên, một doanh nghiệp khác lại đứng lên ủng hộ thủ tục vì họ có vẻ lo bị mất thị phần vào tay ông vừa nói trước đó.
Câu chuyện này diễn ra ở rất nhiều ngành kinh tế. Tôi từng gặp trường hợp một doanh nghiệp vận động để Chính phủ đưa ra một thứ giấy phép kinh doanh mới cho ngành của họ. Bạn có thể ngạc nhiên hỏi: Vì sao đang tự do không muốn lại muốn chui vào rọ? Họ tính là nếu phải xin phép thì họ có khả năng xin phép tốt nhất so với đối thủ và đó là lợi thế cạnh tranh.
Cắt giảm giấy phép hay các rào cản kinh doanh nhiều khi chính là đập nồi cơm của cán bộ. Hãy thử nghĩ mà xem, một cục vụ bộ ngành nào đó đang kiếm được từ một cái giấy phép con. Giờ mà lãnh đạo bảo bỏ cái giấy phép đó, thì lãnh đạo coi như mất ít nhất một phiếu ủng hộ trong trung ương và đại hội.
Tôi có thể kể ra nhiều ví dụ khác trong các chính sách về chi tiêu công (chi cho hạ tầng hay văn hoá), bảo hiểm xã hội (tăng lương hưu hay tiết kiệm để đầu tư)… Những ví dụ này cho thấy, việc vượt bẫy thu nhập trung bình không phải chỉ là sự hứa hẹn một tương lai xán lạn mà còn là một con đường chông gai và dễ đi lạc.
Viet dai lang nhang qua -loai mot sach cha lam duoc tro trong gi .
Trả lờiXóa