Trung Quốc đang có thiên thời để chiếm Đài Loan
Nguồn: Trên mạng - Khả năng Trung Quốc phát động một cuộc chiến tranh để thống nhất Đài Loan ngày một lớn hơn kể từ khi Nga đưa quân vào xâm lược Ukraine. Các cảnh báo chiến tranh khởi xướng bởi Trung Quốc từ các chính phủ, chuyên gia chiến lược quân sự khắp toàn cầu ngày một dày đặc. Nhờ sai lầm chiến lược và sự yếu của Mỹ, Trung Quốc chưa bao giờ có ‘thiên thời’ tốt đến thế để phát động một cuộc chiến tranh, dù vậy, ‘địa lợi và nhân hoà’ lại là một câu chuyện khác…Chuyên cơ mang số hiệu SPAR19 chở Chủ tịch Hạ viện Mỹ Nancy Pelosi chính thức hạ cánh xuống sân bay Tùng Sơn, Đài Bắc, Đài Loan vào 22:45 phút tối thứ Ba (02/08). Chuyến thăm lịch sử này bất chấp mọi đe dọa trước đó của Trung Quốc về triển khai quân đội, vũ khí nhắm vào chuyến phi cơ của Bà Pelosi.
Thậm chí Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã không ngần ngại khi cảnh báo Tổng thống Biden rằng Mỹ đang đùa với lửa ở Đài Loan trong một cuộc điện đàm giữa hai nguyên thủ vài ngày trước chuyến thăm của bà Pelosi. Tất cả sự kiện này có thể cắt đứt quan hệ vốn đã căng thẳng giữa Washington và Bắc Kinh.
Chỉ một tuần trước, cuối tháng 7/2022, Cố vấn an ninh quốc gia của Vương Quốc Anh, Stephen Lovegrove, cảnh báo nguy cơ xảy ra một cuộc chiến tranh hạt nhân với Trung Quốc đang gia tăng trong bối cảnh Bắc Kinh không ngừng mở rộng kho vũ khí hạt nhân mà không quan tâm đến các cơ chế kiểm soát vũ khí quốc tế. Ông nhấn mạnh rằng, nguy cơ bùng nổ xung đột hạt nhân ngày nay có thể còn lớn hơn nhiều so với thời kỳ đỉnh điểm của Chiến tranh Lạnh.
Lạc quan hơn đồng minh, Vào ngày 20/7 vừa qua, Giám đốc CIA Mỹ William Burns cho rằng Trung Quốc sẽ không xâm lược Đài Loan ngay sau Đại hội toàn quốc lần thứ 20 của Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) vào mùa thu năm nay. Tuy nhiên, ông cảnh báo không nên đánh giá thấp quyết tâm của nhà lãnh đạo Tập Cận Bình trong việc tiếp quản Đài Loan. Ám chỉ của Giám đốc CIA Mỹ rằng cuộc chiến có thể không diễn ra trong ngắn hạn nhưng không có nghĩa là nó không diễn ra.
Và có ngày càng nhiều những nhận định chiến tranh như thế. Và quả thực, những nhận định này dựa trên bản đồ địa chiến lược chính trị toàn cầu đang nghiêng lợi thế về Trung Quốc. Đáng buồn là những lợi thế này do chính quyền mới của Hoa Kỳ dâng tặng Bắc Kinh, đối thủ an ninh số một của Hoa Kỳ, một cách đầy tình nguyện…
Chỉ một tuần trước, cuối tháng 7/2022, Cố vấn an ninh quốc gia của Vương Quốc Anh, Stephen Lovegrove, cảnh báo nguy cơ xảy ra một cuộc chiến tranh hạt nhân với Trung Quốc đang gia tăng trong bối cảnh Bắc Kinh không ngừng mở rộng kho vũ khí hạt nhân mà không quan tâm đến các cơ chế kiểm soát vũ khí quốc tế. Ông nhấn mạnh rằng, nguy cơ bùng nổ xung đột hạt nhân ngày nay có thể còn lớn hơn nhiều so với thời kỳ đỉnh điểm của Chiến tranh Lạnh.
Lạc quan hơn đồng minh, Vào ngày 20/7 vừa qua, Giám đốc CIA Mỹ William Burns cho rằng Trung Quốc sẽ không xâm lược Đài Loan ngay sau Đại hội toàn quốc lần thứ 20 của Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) vào mùa thu năm nay. Tuy nhiên, ông cảnh báo không nên đánh giá thấp quyết tâm của nhà lãnh đạo Tập Cận Bình trong việc tiếp quản Đài Loan. Ám chỉ của Giám đốc CIA Mỹ rằng cuộc chiến có thể không diễn ra trong ngắn hạn nhưng không có nghĩa là nó không diễn ra.
Và có ngày càng nhiều những nhận định chiến tranh như thế. Và quả thực, những nhận định này dựa trên bản đồ địa chiến lược chính trị toàn cầu đang nghiêng lợi thế về Trung Quốc. Đáng buồn là những lợi thế này do chính quyền mới của Hoa Kỳ dâng tặng Bắc Kinh, đối thủ an ninh số một của Hoa Kỳ, một cách đầy tình nguyện…
1) Trung Quốc lần đầu tiên có được đồng minh toàn diện là cường quốc Nga
Mối quan hệ giữa Nga - Trung, dù bề ngoài có vẻ cùng ý thức hệ, nhưng bên trong vốn chứa đầy mâu thuẫn, bất bình thậm chí đầy thù địch. Dù vậy, Nga luôn là nỗi cay đắng, là con gấu phía bắc mà Trung Quốc không dám động đến. Nhưng NATO và chính quyền ông Biden đã trao tặng một món quà tuyệt vời cho Trung quốc: tình bạn, liên minh lợi ích với con gấu Nga.
Trải dài trên lãnh thổ Á - Âu, liên kết Trung - Nga từ lâu đã được xem là nhân tố đáng kể chống lại phương Tây về kinh tế, chính trị, quân sự. Trong lịch sử, dù cùng xuất sinh từ một ý thức hệ, song sự bất tuân của Mao với Stalin đã biến mối quan hệ từng là đồng minh trở thành kẻ thù trong thời Chiến tranh lạnh. Một lãnh thổ lớn, tới cả triệu km2 của Trung Quốc buộc phải dâng cho Liên Xô (cũ), nay đã sáp nhập vào lãnh thổ Nga dưới thời Mao để đổi lấy viện trợ và hỗ trợ chiến tranh.
Nỗ lực do thám Nga của Trung Quốc cho thấy sự phức tạp trong mối quan hệ giữa hai quốc gia chuyên chế mà ông Tập Cận Bình và ông Vladimir Putin mới tuyên bố là “hợp tác không giới hạn”. (Ảnh tổng hợp)
Quan hệ giữa hai nước đã từng có lúc căng thẳng tại bờ vực chiến tranh hạt nhân, Liên Xô (thời Chiến tranh lạnh) có thể đánh phủ đầu Trung Quốc nhờ sở hữu vũ khí hạt nhân. Ở phía còn lại, Trung Quốc được cho là đã từng bước chuẩn bị chiến tranh hạt nhân với Liên Xô vào năm 1969, khi đó, các bộ của nước này đã dời đi các tỉnh và chỉ còn Chu và Mao ở lại Bắc Kinh.
Từ những năm 1950 đến cuối những năm 1980, Liên Xô và Trung Quốc đã có tranh chấp biên giới và tranh giành quyền lãnh đạo phe cộng sản trong Chiến tranh Lạnh. Vào những năm 1970, sự bất hòa sâu sắc trong quan hệ Trung – Xô đã giúp thúc đẩy Trung Quốc liên kết với Mỹ, trong lúc xung đột biên giới giữa hai nước xảy ra trầm trọng năm 1969. Vào năm 1972, mối quan hệ giữa hai cường quốc cộng sản trở lên xấu đi, chuyển từ lạnh nhạt sang đóng băng hoàn toàn, khi Ngoại trưởng Mỹ Kissinger đến thăm Trung Quốc.
Sau khi Liên Xô tan rã, mối quan hệ Nga - Trung vẫn không được cải thiện là bao. Tuy nhiên, cơ hội Nga thân Mỹ, trở thành một quốc gia dân chủ hơn lần lượt bị các đời Tổng thống Mỹ từ chối. Bằng cách liên tiếp mở rộng NATO về phía sườn đông nước Nga, Mỹ và NATO áp dụng cả một chiến lược truyền thông, ngoại giao, an ninh xem Nga như kẻ thù. Nga không còn cách nào khác là tăng cường quan hệ đồng minh với Trung Quốc và các nhà nước khủng bố bị Mỹ hắt hủi để tránh rơi vào tình trạng bị cô lập cũng như bán vũ khí nhiều hơn. Quan hệ Nga – Trung trở nên nồng ấm dần dần, biên giới bớt căng thẳng, trao đổi mua bán vũ khí tấp nập trở lại.
Mối quan hệ Trung - Nga thực sự chỉ nồng ấm sau 2014, khi Nga chiếm Crimea, một vị trí chiến lược với an ninh quốc gia của Nga, nơi có cảng nước ấm, thứ không thể thiếu cho hải quân Nga mà vị trí địa lý không cho phép Nga có. Để tránh bị cô lập, mối quan hệ với Trung Quốc nồng ấm trở lại, nhưng vẫn đầy nghi kỵ và bất đồng. Thời kỳ Tổng thống Donald Trump tại vị, mối quan hệ này không thắt chặt thêm, bản thân Mỹ cũng không tiếp tục dồn ép Nga vào thế thù địch. Thời điểm này, một số chỉ trích của Nga dành cho Trung Quốc và chủ nghĩa cấp tiến đang phá hoại văn hoá truyền thống và sự thịnh vượng của Mỹ thậm chí khá rõ ràng. Mối quan hệ Nga - Trung chỉ được nâng cấp lên toàn diện khi NATO muốn sáp nhập thêm Ukraine bất chấp các cảnh báo của Tổng thống Nga Vladimir Putin; tất cả diễn ra chỉ 20 ngày trước khi Nga đưa quân vào xâm lược quốc gia láng giềng này.
Ông Vương Nghị, Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc sau đó đã ra một tuyên bố chung vào tháng 3/2022 rằng “Hợp tác Trung - Nga không có giới hạn”. Tuyên bố này là một lời hứa sẽ hợp tác nhiều hơn để chống lại phương Tây, dường như đang diễn ra.
Trước khi có mối quan hệ toàn diện được Trung Quốc hết lời ca ngợi như hiện nay, Trung Quốc luôn phải e ngại trước Nga. Việc Việt Nam nhờ doanh nghiệp nhà nước Nga khai thác dầu khí để bảo vệ Biển Đông là một minh chứng rõ ràng.
Theo tin từ BBC, vào tháng 6/2020, dẫn một nguồn thạo tin trong ngành dầu khí nói với BBC rằng Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PetroVietnam) đã đồng ý trả tiền cho Repsol của Tây Ban Nha và Mubadala của Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất cho các thỏa thuận 'chấm dứt' và 'bồi thường' vì các hãng này không thể khai thác dầu thô trên Biển Đông trước sự quấy phá của Trung Quốc. Áp lực từ Trung Quốc khiến Việt Nam phải đền bù khoảng trên 1 tỷ USD. Sau vụ việc, Việt Nam phải nhờ cậy tới “anh cả” Nga. Các hãng dầu khí nhà nước Nga vào cuộc và Trung Quốc buộc phải thoả hiệp. Việc đưa Nga tham gia vào lợi ích trên Biển Đông, trở thành một lực lượng kìm hãm sự hung hăng của Bắc Kinh thực sự là bước đi rất hiệu quả và khôn ngoan của Việt Nam.
Nga sau đó đã tăng cường hỗ trợ Việt Nam liên quan đến thăm dò năng lượng ở Biển Đông và có lẽ đáng ngại hơn theo quan điểm của Trung Quốc, trong việc mua bán vũ khí và hợp tác quốc phòng.
Trên bản đồ địa chính trị toàn cầu, Nga luôn xứng là một cường quốc, kẻ định hình và cân bằng các thế lực chính trị, quân sự. Một khi Nga không hài lòng với Trung Quốc, sự trỗi dậy của Trung Quốc bị hạn chế ít nhiều; vấn đề Biển Đông và các dàn khoan trên biển của Việt Nam là một ví dụ điển hình.
Trong lịch sử, ngoài cơ hội mà Tổng thống Nixon trao cho Trung Quốc hồi năm 1972, một cơ hội được ví như cách Mỹ mở cửa thả quái vật Frankenstein, thì mối quan hệ toàn diện Nga - Trung lần này là cơ hội vàng cho Trung Quốc thực thi tham vọng của mình. Sự ủng hộ hết lòng của Trung Quốc cho cuộc xâm lược bất minh của Nga ở Ukraine sẽ được tưởng thưởng bằng sự ủng hộ của Nga cho Trung Quốc trước cuộc xâm lược Biển Đông và thậm chí là sáp nhập Đài Loan bằng vũ lực; cách mà Nga đã và đang làm với các tỉnh phía đông của Ukraine.
Rốt cuộc, một liên minh trải dài Á - Âu rộng lớn, có sức mạnh quân sự đáng gờm, đầy dã tâm và khát khao soán ngôi thống trị Mỹ đã hình thành nhờ vào sai lầm chiến lược của Mỹ: ưu ái, che chở cho Trung Quốc phát triển bất chấp các vấn đề nhân quyền tồi tệ và buộc Nga phải trở thành kẻ thù số một của nước Mỹ. Bằng cách này, Mỹ đã thành công dâng tặng một cường quốc vũ khí, đầy dã tâm cho đối thủ số một của họ: Trung Quốc.
Quan hệ giữa hai nước đã từng có lúc căng thẳng tại bờ vực chiến tranh hạt nhân, Liên Xô (thời Chiến tranh lạnh) có thể đánh phủ đầu Trung Quốc nhờ sở hữu vũ khí hạt nhân. Ở phía còn lại, Trung Quốc được cho là đã từng bước chuẩn bị chiến tranh hạt nhân với Liên Xô vào năm 1969, khi đó, các bộ của nước này đã dời đi các tỉnh và chỉ còn Chu và Mao ở lại Bắc Kinh.
Từ những năm 1950 đến cuối những năm 1980, Liên Xô và Trung Quốc đã có tranh chấp biên giới và tranh giành quyền lãnh đạo phe cộng sản trong Chiến tranh Lạnh. Vào những năm 1970, sự bất hòa sâu sắc trong quan hệ Trung – Xô đã giúp thúc đẩy Trung Quốc liên kết với Mỹ, trong lúc xung đột biên giới giữa hai nước xảy ra trầm trọng năm 1969. Vào năm 1972, mối quan hệ giữa hai cường quốc cộng sản trở lên xấu đi, chuyển từ lạnh nhạt sang đóng băng hoàn toàn, khi Ngoại trưởng Mỹ Kissinger đến thăm Trung Quốc.
Sau khi Liên Xô tan rã, mối quan hệ Nga - Trung vẫn không được cải thiện là bao. Tuy nhiên, cơ hội Nga thân Mỹ, trở thành một quốc gia dân chủ hơn lần lượt bị các đời Tổng thống Mỹ từ chối. Bằng cách liên tiếp mở rộng NATO về phía sườn đông nước Nga, Mỹ và NATO áp dụng cả một chiến lược truyền thông, ngoại giao, an ninh xem Nga như kẻ thù. Nga không còn cách nào khác là tăng cường quan hệ đồng minh với Trung Quốc và các nhà nước khủng bố bị Mỹ hắt hủi để tránh rơi vào tình trạng bị cô lập cũng như bán vũ khí nhiều hơn. Quan hệ Nga – Trung trở nên nồng ấm dần dần, biên giới bớt căng thẳng, trao đổi mua bán vũ khí tấp nập trở lại.
Mối quan hệ Trung - Nga thực sự chỉ nồng ấm sau 2014, khi Nga chiếm Crimea, một vị trí chiến lược với an ninh quốc gia của Nga, nơi có cảng nước ấm, thứ không thể thiếu cho hải quân Nga mà vị trí địa lý không cho phép Nga có. Để tránh bị cô lập, mối quan hệ với Trung Quốc nồng ấm trở lại, nhưng vẫn đầy nghi kỵ và bất đồng. Thời kỳ Tổng thống Donald Trump tại vị, mối quan hệ này không thắt chặt thêm, bản thân Mỹ cũng không tiếp tục dồn ép Nga vào thế thù địch. Thời điểm này, một số chỉ trích của Nga dành cho Trung Quốc và chủ nghĩa cấp tiến đang phá hoại văn hoá truyền thống và sự thịnh vượng của Mỹ thậm chí khá rõ ràng. Mối quan hệ Nga - Trung chỉ được nâng cấp lên toàn diện khi NATO muốn sáp nhập thêm Ukraine bất chấp các cảnh báo của Tổng thống Nga Vladimir Putin; tất cả diễn ra chỉ 20 ngày trước khi Nga đưa quân vào xâm lược quốc gia láng giềng này.
Ông Vương Nghị, Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc sau đó đã ra một tuyên bố chung vào tháng 3/2022 rằng “Hợp tác Trung - Nga không có giới hạn”. Tuyên bố này là một lời hứa sẽ hợp tác nhiều hơn để chống lại phương Tây, dường như đang diễn ra.
Trước khi có mối quan hệ toàn diện được Trung Quốc hết lời ca ngợi như hiện nay, Trung Quốc luôn phải e ngại trước Nga. Việc Việt Nam nhờ doanh nghiệp nhà nước Nga khai thác dầu khí để bảo vệ Biển Đông là một minh chứng rõ ràng.
Theo tin từ BBC, vào tháng 6/2020, dẫn một nguồn thạo tin trong ngành dầu khí nói với BBC rằng Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PetroVietnam) đã đồng ý trả tiền cho Repsol của Tây Ban Nha và Mubadala của Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất cho các thỏa thuận 'chấm dứt' và 'bồi thường' vì các hãng này không thể khai thác dầu thô trên Biển Đông trước sự quấy phá của Trung Quốc. Áp lực từ Trung Quốc khiến Việt Nam phải đền bù khoảng trên 1 tỷ USD. Sau vụ việc, Việt Nam phải nhờ cậy tới “anh cả” Nga. Các hãng dầu khí nhà nước Nga vào cuộc và Trung Quốc buộc phải thoả hiệp. Việc đưa Nga tham gia vào lợi ích trên Biển Đông, trở thành một lực lượng kìm hãm sự hung hăng của Bắc Kinh thực sự là bước đi rất hiệu quả và khôn ngoan của Việt Nam.
Nga sau đó đã tăng cường hỗ trợ Việt Nam liên quan đến thăm dò năng lượng ở Biển Đông và có lẽ đáng ngại hơn theo quan điểm của Trung Quốc, trong việc mua bán vũ khí và hợp tác quốc phòng.
Trên bản đồ địa chính trị toàn cầu, Nga luôn xứng là một cường quốc, kẻ định hình và cân bằng các thế lực chính trị, quân sự. Một khi Nga không hài lòng với Trung Quốc, sự trỗi dậy của Trung Quốc bị hạn chế ít nhiều; vấn đề Biển Đông và các dàn khoan trên biển của Việt Nam là một ví dụ điển hình.
Trong lịch sử, ngoài cơ hội mà Tổng thống Nixon trao cho Trung Quốc hồi năm 1972, một cơ hội được ví như cách Mỹ mở cửa thả quái vật Frankenstein, thì mối quan hệ toàn diện Nga - Trung lần này là cơ hội vàng cho Trung Quốc thực thi tham vọng của mình. Sự ủng hộ hết lòng của Trung Quốc cho cuộc xâm lược bất minh của Nga ở Ukraine sẽ được tưởng thưởng bằng sự ủng hộ của Nga cho Trung Quốc trước cuộc xâm lược Biển Đông và thậm chí là sáp nhập Đài Loan bằng vũ lực; cách mà Nga đã và đang làm với các tỉnh phía đông của Ukraine.
Rốt cuộc, một liên minh trải dài Á - Âu rộng lớn, có sức mạnh quân sự đáng gờm, đầy dã tâm và khát khao soán ngôi thống trị Mỹ đã hình thành nhờ vào sai lầm chiến lược của Mỹ: ưu ái, che chở cho Trung Quốc phát triển bất chấp các vấn đề nhân quyền tồi tệ và buộc Nga phải trở thành kẻ thù số một của nước Mỹ. Bằng cách này, Mỹ đã thành công dâng tặng một cường quốc vũ khí, đầy dã tâm cho đối thủ số một của họ: Trung Quốc.
2) Nhờ chính quyền ông Biden, những đồng minh của Trung Quốc ở Trung Đông đang hung hăng hơn
Thế giới đã thay đổi không thể đảo ngược với việc Trung Đông hình thành tâm chấn của những thay đổi kiến tạo trong trật tự địa chính trị mới. Khi UAE, Mỹ và Israel đã ra Tuyên bố chung nhấn mạnh về việc “bình thường hóa hoàn toàn quan hệ giữa Israel và Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất”, đồng thời, một trục do Trung Quốc hậu thuẫn bao gồm các quốc gia như Pakistan, Iran, Thổ Nhĩ Kỳ và Palestine cũng đã hình thành.
Trung Quốc đang cho thấy ý định định hình cục diện quân sự và khu vực của Trung Đông thông qua các mối quan hệ thương mại với các quốc gia trong khu vực cũng như thông qua việc dự báo sức mạnh quân sự của chính họ.
Trục liên minh khu vực Trung Đông của Trung Quốc từng suy yếu trong suốt 4 năm ông Trump tại vị nhờ sự ủng hộ của Mỹ với Israel, cắt đứt tài trợ tài chính và trừng phạt kinh tế với các đồng minh của Trung Quốc. Mọi sự đã thay đổi khi thế cờ vây ông Trump để lại cho khu vực Trung Đông bị phá bỏ bởi chính quyền kế nhiệm. Đồng minh của Trung Quốc ở khu vực này đang mạnh, hung hăng hơn và ngày càng coi thường sức mạnh của Mỹ.
3) Iran đang hung hăng với thỏa thuận hạt nhân 2015
Chế độ Hồi giáo ở Iran là nhà nước tài trợ khủng bố hàng đầu trên thế giới. Trong hơn 40 năm, hành vi ác độc của họ và sự ủng hộ của các tổ chức khủng bố đã lan rộng khắp khu vực.
Việc thực hiện JCPOA, được biết đến với tên gọi không chính thức là “Thỏa thuận hạt nhân Iran 2015”, giúp chế độ này sử dụng nhiều nguồn lực và tiền bạc hơn, càng làm tăng khả năng tiếp cận và gây hấn bằng các hoạt động ác ý của họ. Đây là lý do tại sao Hoa Kỳ rời khỏi JCPOA và thực hiện các biện pháp trừng phạt quyết định để hạn chế khả năng tài trợ khủng bố của chế độ dưới thời Trump. Quyết định chính sách này đã rất hiệu quả khi Iran, cùng với Trung Quốc, trở nên suy yếu.
Tuy nhiên, chính quyền Biden đã không thể thúc đẩy một chiến lược chặt chẽ để đối phó với Iran mà lại tập trung vào việc khơi dậy thỏa thuận hạt nhân được ký kết dưới thời cựu Tổng thống Obama trong khi Iran gia tăng vũ khí hạt nhân và viện trợ cho Nga trong cuộc xâm lược Ukraine.
Hôm 14/7, ông Biden tái khẳng định cam kết quay trở lại thỏa thuận hạt nhân JCPOA năm 2015 với Iran - thỏa thuận chứng kiến chính phủ Obama gửi 100 tỷ USD cho Iran, trong đó có một chiếc C-130 Hercules chở 400 triệu USD tiền mặt vào ngày 16/1/2016, CNN đưa tin. Sau đó, chế độ Hồi giáo đã sử dụng số tiền đó để gây chiến ở Yemen, Lebanon, Iraq, Gaza và khắp nơi trên thế giới, gây mất ổn định hàng loạt trên thế giới.
“Theo thỏa thuận, Iran nhận được một gói tài chính trị giá lên tới 275 tỷ USD trong năm đầu tiên và 800 tỷ USD trong 5 năm tiếp theo”, Richard Goldberg, cố vấn cấp cao tại Foundation for Defense of Democracies nói. “Với một nghìn tỷ USD sẵn có vào năm 2030 cho chương trình tên lửa của Iran, tài trợ cho khủng bố và Lực lượng Vệ binh Cách mạng, thỏa thuận này cho phép Tehran đốt thêm hàng chục đám cháy xung quanh Trung Đông, buộc Mỹ phải đáp trả để bảo vệ công dân, đại sứ quán và đồng minh của Mỹ. Và cuối cùng, thỏa thuận không yêu cầu tính toán đầy đủ các hoạt động hạt nhân của Iran hay phá hủy một máy ly tâm duy nhất và sẽ hết hạn nhưng đảm bảo Iran sẽ vẫn vượt qua ngưỡng hạt nhân vào một thời điểm mà họ lựa chọn trong tương lai”.
“Chắc chắn, Nga và Trung Quốc không muốn gì hơn là chứng kiến một nước Mỹ sa lầy bởi hành động tống tiền và leo thang hạt nhân không hồi kết của Iran. Đó là lý do tại sao họ là những người ủng hộ mạnh mẽ nhất thỏa thuận hạt nhân với Iran. Họ biết rằng Iran càng có nhiều tiền cho khủng bố, tên lửa và mở rộng hạt nhân ở Trung Đông, thì thời gian và nguồn lực của Mỹ sẽ liên tục được chuyển hướng khỏi châu Á và châu Âu để giảm thiểu cuộc khủng hoảng mới nhất do Iran tài trợ”, Goldberg viết.
4) Ả Rập Xê-út nghiêng về phía Nga và Trung Quốc
Ả Rập Xê-Út bán khoảng 1/4 tổng lượng dầu xuất khẩu của mình sang Trung Quốc. Trong hai tháng đầu năm nay, họ đã vượt qua Nga trở thành quốc gia gửi nhiều dầu nhất tới đó.
Trong bối cảnh căng thẳng địa chính trị xung quanh cuộc xâm lược Ukraine đang diễn ra của Nga và khi thế giới đứng về hai phía của cuộc xung đột, tin tức này đã làm dấy lên lo ngại rằng Ả Rập Xê-Út có thể sẽ đứng về phía Nga.
Việc cho phép thanh toán dầu bằng đồng CNY có thể giúp tạo ra một hệ thống song song cho thanh toán quốc tế, nơi CNY của Trung Quốc trở nên quan trọng như USD. Đổi lại, điều này sẽ giúp Nga vượt qua các lệnh trừng phạt vì quốc gia xâm lược này sau đó cũng có thể sử dụng CNY.
Mối quan hệ giữa Ả Rập Saudi và Trung Quốc đã trở nên sâu sắc hơn trong vài năm nay. Năm 2020, Ả Rập Xê-Út là đối tác thương mại lớn nhất của Trung Quốc trong khu vực, với kim ngạch xuất nhập khẩu trên 67 tỷ USD (60,6 tỷ Euro).
Hầu hết, các mối quan hệ này dựa trên mối quan hệ kinh tế cùng có lợi, một mối quan hệ làm nổi bật sự hợp lực giữa Sáng kiến Vành đai và Con đường trị giá nghìn tỷ của Trung Quốc và dự án hiện đại hóa của riêng Ả Rập Xê-Út, Tầm nhìn 2030.
Một phần của Tầm nhìn 2030 là về việc chuẩn bị cho Ả Rập Xê-Út một tương lai khi dầu mỏ ít quan trọng hơn, một khía cạnh là thúc đẩy tiềm năng của Ả Rập Xê-Út như một trung tâm hậu cần ở Trung Đông. Sáng kiến Vành đai và Con đường phù hợp với điều này, Trung Quốc và Ả Rập Xê-út có mối quan hệ được gọi là "quan hệ đối tác chiến lược toàn diện" - mặc dù các chuyên gia như Cinzia Bianco, một chuyên gia về khu vực vùng Vịnh, thận trọng không gọi hai quốc gia là "đồng minh".
Roie Yellinek, một học giả không thường trú tại Viện Trung Đông có trụ sở tại Washington, nhận xét rằng : “Thực tế là việc các bộ trưởng ngoại giao đến Trung Quốc, chứ không phải là những người đồng cấp của họ ở các bộ thương mại hoặc kinh tế, điều này cho thấy sự thay đổi trọng tâm. Sau nhiều năm quan hệ theo định hướng kinh tế ... các sự kiện gần đây đã cho thấy rõ rằng một kỷ nguyên mới đã bắt đầu với sự tập trung nhiều hơn vào địa chính trị".
Quan hệ của Trung Quốc-Ả Rập Xê-út trong lĩnh vực quân sự đã ngày càng tăng. Từ năm 2016 đến năm 2020, chuyển giao vũ khí của Trung Quốc cho Ả Rập Xê-út đã tăng 386%, theo Viện Nghiên cứu Quốc tế và An ninh Đức trong một bài báo nghiên cứu hồi tháng 2/2022. Đầu tiên Trung Quốc bán tên lửa đạn đạo cho Ả Rập Xê-Út, sau đó bắt đầu hỗ trợ họ sản xuất ở Ả Rập Xê-Út.
Cũng cần lưu ý: Người Trung Quốc thường giao dịch với các nhà lãnh đạo trong khi người Mỹ thì không. Như các nhà phân tích tại Hội đồng Đối ngoại Châu Âu (ECFR) giải thích trong cuộc họp tóm tắt chính sách năm 2019 của họ: "Mô hình chủ nghĩa tư bản độc tài của Trung Quốc đã thu hút nhiều chế độ Trung Đông vốn coi hợp tác với Trung Quốc là phương tiện để chống lại áp lực của phương Tây trong việc theo đuổi cải cách quản trị và trách nhiệm giải trình nhân quyền".
Thật vậy, các nhà lãnh đạo của Ả Rập Xê-Út và Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất đã không nghe điện thoại khi Tổng thống Biden cố gắng gọi điện cho họ để thảo luận về việc thúc đẩy xuất khẩu dầu để bù đắp việc tăng giá liên quan đến cuộc xâm lược của Nga vào Ukraine.
Thái tử Ả Rập Saudi Mohammed bin Salman và Sheikh Mohammed bin Zayed al Nahyan của UAE đã từ chối nỗ lực tiếp cận của ông Biden, Wall Street Journal đưa tin. Quyết định giữ sản lượng dầu ở mức thấp của nước này đối với yêu cầu tương tự trước đó của ông Biden vào tháng 8/2021 cũng không được chú ý.
Tờ The Intercept nhận xét rằng việc Ả Rập Xê-út giữ nguyên sản lượng có thể dẫn đến giá xăng dầu cao trước cuộc bầu cử giữa nhiệm kỳ quan trọng ở Mỹ. Bất chấp những nỗ lực nhằm điều chỉnh lại quan hệ với Riyadh, động thái này có thể có tác động tiêu cực đến đảng Dân chủ, những người có thể bị cử tri đổ lỗi vì giá cả tăng vọt.
Không có gì bí mật khi Thái tử Mohammed bin Salman ủng hộ chính quyền Trump khi tuyên bố có con rể của ông Trump và trợ lý hàng đầu Jared Kushner "rất thân thiết với ông ấy”. Khi Tổng thống Donald Trump yêu cầu tăng sản lượng dầu ngay trước cuộc bầu cử giữa nhiệm kỳ 2018 và sau đó là giảm sản lượng dầu để bảo vệ ngành công nghiệp đá phiến trong nước, Thái tử Mohammed bin Salman đã tuân thủ.
5) Cường quốc áp chế được Trung Quốc đang nội loạn và chưa bao giờ suy nhược đến thế
Trong khi Trung Quốc kết nạp được người bạn mơ ước là cường quốc Nga, các đồng minh gây bất ổn khu vực và Mỹ ở Trung Đông đang trỗi dậy, Mỹ ngày một suy nhược. Trung Quốc không ngần ngại bày tỏ sự miệt thị với sức mạnh của Mỹ bằng phong cách ngoại giao sói chiến.
Nỗi ám ảnh của chính quyền Biden với thỏa thuận xanh mới đã đặt nước Mỹ vào một vị trí có thể không bao giờ hồi phục và đã đặt kẻ thù của họ vào vào vị trí cầm lái.
Một hoặc hai ngày đầu tiên nhận chức, chính quyền ông Biden đã hủy Keystone XL Pipeline, nới lỏng các lệnh trừng phạt đối với Đường ống Nord Stream 2, đây là một tín hiệu rõ ràng cho Putin rằng nước Mỹ sẽ yếu đi và cơ hội của Nga đang đến.
Chính quyền ông Biden không khuyến khích đầu tư vào mỏ dầu. Việc hủy bỏ đường ống và đẩy năng lượng tái tạo trở lên đắt đỏ đã làm giảm sản lượng năng lượng của nước Mỹ và củng cố quyền kiểm soát của Nga và OPEC đối với giá dầu.
Nước Mỹ đã từ chỗ là nhà xuất khẩu ròng dầu mỏ và chỉ trả dưới 2 USD một gallon cho khí đốt, trở thành việc phải nhập khẩu gần 40% nhu cầu năng lượng từ OPEC, và tệ hơn là từ Nga! Chính quyền Biden trả cho Nga hàng tỷ đô-la cho một sản phẩm mà một năm trước họ đã sản xuất nhiều hơn bất kỳ quốc gia nào khác.
Mặc dù thực hiện một chiến dịch nổi tiếng cam kết đưa đất nước xích lại gần nhau, Biden đã cố tình tạo ra mâu thuẫn chủng tộc thậm chí còn lớn hơn, mô tả sai đặc điểm của luật cử tri được các bang do Đảng Cộng hòa lãnh đạo thông qua là Jim Crow 2.0 và tố cáo cơ sở thực thi pháp luật của Mỹ là phân biệt chủng tộc. Biden khẳng định, Mỹ là một quốc gia "phân biệt chủng tộc một cách có hệ thống" khi bỏ qua những tiến bộ to lớn đạt được trong những thập kỷ qua đối với bình đẳng chủng tộc.
Ngoài ra, chính quyền ông Biden đã phớt lờ tội ác đang gia tăng, cúi đầu trước quan điểm của cánh tả rằng chính tội phạm, không phải nạn nhân, mới là những người cần được thông cảm.
Ông Biden tán thành chi tiêu liên bang khổng lồ làm giảm thúc đẩy nhu cầu việc làm đang bùng nổ và cho phép người lao động ở nhà. Tình trạng thiếu hụt lao động dẫn đến lạm phát hiện đã ở mức cao nhất trong 40 năm. Đáng kinh ngạc, giải pháp của ông Biden là đề xuất chi thêm hàng nghìn tỷ đô-la thông qua chương trình Build Back Better.
Chính quyền ông Biden đã loại bỏ các chính sách nhập cư vốn hạn chế được số lượng người vượt biên vào Mỹ bất hợp pháp. Ông đã mời mọi người đến biên giới phía nam và nói rõ rằng họ được chào đón, không ràng buộc. Và cơn bão với gần 2 triệu người đã tràn vào nước Mỹ trong năm ngoái.
Chính quyền không biết phải đưa hàng ngàn người đột ngột này đến đâu để chăm sóc, vì vậy họ đã tràn vào các thành phố và thị trấn trên khắp đất nước trong đêm khuya, không báo cho chính quyền địa phương. Chính quyền cũng sử dụng tiền đóng thuế để vận chuyển và cung cấp thức ăn cho người di cư vì hầu hết những người đó không có giấy tờ tùy thân thích hợp.
Nguyên tắc trong nhiệm kỳ tổng thống của ông Biden là mọi thứ ông Trump làm đều tồi tệ và phải bị lật tẩy. Vấn đề là nhiều chính sách của người tiền nhiệm của ông đã phát huy tác dụng; đảo ngược chính sách "ở lại Mexico" là một sai lầm; từ bỏ Hiệp ước Áp-ra-ham là một sự tàn bạo.
Putin, các nhà lãnh đạo Trung Quốc, Triều Tiên và Iran, cảm thấy bây giờ là cơ hội của họ. Họ chứng kiến cảnh Biden vượt qua một cuộc rút lui hỗn loạn khỏi Afghanistan, điều này làm lộ rõ khả năng phán đoán tồi và sự yếu kém của tổng tư lệnh của nước Mỹ.
Nga đã tăng chi tiêu quân sự một cách đáng kể bởi vì tiền tệ của họ dựa trên dầu mỏ và được hỗ trợ rất nhiều bởi chính sách năng lượng vô cùng ngớ ngẩn của chính quyền ông Biden.
Chính quyền ông Biden đã làm tất cả những gì có thể để làm suy yếu khả năng phòng thủ của mình. Quân đội dưới sự chỉ huy của ông Biden nhanh chóng trở thành một tổ chức thức tỉnh, quan tâm đến các vấn đề xã hội hơn là một lực lượng chiến đấu hùng mạnh.
Biden đã đề cập trong một bài phát biểu quanh co rằng nếu chỉ có một sự xâm nhập "nhỏ" của Nga thì phản ứng của chúng ta sẽ tương xứng. Điều đó cho thế giới và các đồng minh của Mỹ thấy rằng nước Mỹ đã trở nên yếu nhược như thế nào.
Trung Quốc, Triều Tiên, Nga và Iran đã chú ý đến và trở nên hào hứng hơn và nguy hiểm hơn. Họ tin rằng đã đến lúc họ muốn làm bất cứ điều gì họ muốn vì họ thấy một tổng thống Mỹ yếu đuối đang bị những kẻ cực đoan lãnh đạo và đang có ý định hủy diệt nước Mỹ từ bên trong.
6) Tranh thủ hỗn loạn do Nga gây ra để dự trữ dầu: một nguồn lực của chiến tranh?
Trung Quốc có thể là nước đầu tiên tận dụng nguồn năng lượng và nguyên liệu thô không thể chạm tới của Nga sau quyết định của Mỹ về việc cấm nhập khẩu dầu, khí đốt tự nhiên và than đá từ nước này.
Trước khi bắt đầu khai chiến với Ukraine, Nga đã kịp hóa giải điểm yếu của họ về dầu bằng cách lập tức bắt tay với Bắc Kinh. Theo phóng viên TTXVN tại châu Âu, ngày 4/2/2022, chỉ 20 ngày trước cuộc chiến Nga - Ukraine, Tổng thống Nga Vladimir Putin đã công bố các hợp đồng mới cung cấp khí đốt tự nhiên và dầu mỏ của Nga cho Trung Quốc, ước tính trị giá 117,5 tỷ USD.
Theo số liệu từ Reuters, nhập khẩu dầu thô của Trung Quốc từ Nga đã tăng 55% so với một năm trước đó lên mức kỷ lục vào tháng 5/2022; điều này khá ngạc nhiên khi cầu về dầu thô của Trung Quốc đang suy giảm do phong tỏa kinh tế. Nga đã thay thế Arab Saudi trở thành nhà cung cấp hàng đầu cho Trung Quốc nhờ chiết khấu lớn cho "đồng minh". Nga áp dụng mức giá dầu chiết khấu cao để tăng nguồn thu trong bối cảnh nước này phải chịu các lệnh trừng phạt kinh tế liên tiếp do xâm lược Ukraine.
Theo số liệu từ Tổng cục Hải quan Trung Quốc, nhập khẩu dầu của Nga, bao gồm nguồn cung được bơm qua đường ống ở Thái Bình Dương ở Đông Siberia và các chuyến hàng bằng đường biển từ các cảng Châu Âu và Viễn Đông của Nga, đạt tổng cộng gần 8,42 triệu tấn dầu vào tháng 5/2022. Con số này tương đương với khoảng 1,98 triệu thùng/ngày (bpd) và tăng tới 25% so với mức nhập khẩu 1,59 triệu thùng/ngày vào tháng 4/2022.
Nga đã trở thành nhà cung cấp hàng đầu cho quốc gia nhập khẩu dầu thô lớn nhất thế giới sau 19 tháng.
Không chỉ dầu thô, một nguồn lực quan trọng của chiến tranh, Trung Quốc chưa bao giờ dự trữ nhiều đến thế về lương thực. Ngoài ra, kho vũ khí hạt nhân cũng bành trướng đến mức đáng báo động. Tất cả các động thái của Bắc Kinh đang cho thấy quốc gia này tận dụng ‘thiên thời’ hỗn loạn nhất hiện nay, biến nó thành lợi thế của mình, để thúc đẩy một cuộc chiến tranh.
Hơn bao giờ hết, Trung Quốc hiện rất cần một cuộc chiến tranh để tiện bề dẹp nội loạn, che dấu các thất bại về kinh tế, kéo các xung đột chính trị - xã hội trong nội bộ ra bên ngoài biên giới.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét