Việt Nam trước Đại hội Đảng: Yếu tố Trung Quốc và lá bài Hoa Kỳ
30/11/2020 - Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của đảng Cộng Sản Việt Nam dự kiến diễn ra vào tháng 01/2021. Khoảng 1.600 đại biểu toàn quốc sẽ bầu ra Ủy ban Trung ương đảng mới gồm 180 ủy viên. Ngoài khó khăn trong việc bầu ra “tứ trụ” lãnh đạo Việt Nam trong nhiệm kỳ 2021-2025, “yếu tố Trung Quốc” vẫn hiện hữu trong việc xây dựng chính sách đối ngoại của Việt Nam cho những năm tới.Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc (T) và chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình tại Đại lễ đường Nhân dân, Bắc Kinh, Trung Quốc, ngày 25/04/2019. AP - Kenzaburo Fukuhara
Bắc Kinh khăng khăng đòi chủ quyền trên hầu hết Biển Đông, bất chấp phản đối của các nước ASEAN liên quan và nhiều nước trên thế giới. Hoa Kỳ lên án lập trường của Trung Quốc, gia tăng các chiến dịch vì tự do lưu thông hàng hải ở Biển Đông và yêu cầu tôn trọng Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển.
Những điểm này được nêu trong Dự thảo Báo cáo chính trị chuẩn bị cho Đại hội đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ XIII : “Tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo diễn ra căng thẳng, phức tạp, quyết liệt hơn. Hòa bình, ổn định, tự do, an ninh, an toàn hàng hải, hàng không trên Biển Đông đứng trước thách thức lớn, tiềm ẩn nguy cơ xung đột. ASEAN có vai trò quan trọng trong duy trì hòa bình, ổn định, thúc đẩy hợp tác khu vực nhưng cũng đứng trước nhiều khó khăn”.
Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam, có ảnh hưởng lớn đến đường lối lãnh đạo của đảng Cộng Sản Việt Nam. Tuy nhiên, từ nhiều năm gần đây, Hà Nội điều chỉnh chính sách để tránh quá phụ thuộc vào nước láng giềng phương bắc, mở rộng và cải thiện quan hệ ngoại giao, thương mại với các đối tác phương Tây và nước dân chủ, đặc biệt là Hoa Kỳ. Việc Hoa Kỳ có chính quyền mới vào tháng 01/2021 được Hà Nội hết sức chú ý. Ban Tuyên giáo Trung ương tổ chức một hội nghị trực tuyến ngày 12/11 để cập nhật cho các báo cáo viên, cũng như dự báo về chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ trong nhiệm kỳ mới và những tác động đối với tình hình quốc tế và khu vực.
“Yếu tố Trung Quốc” tác động như nào đối với việc hoạch định chính sách đối ngoại của Việt Nam cho những năm tới, trong bối cảnh thay đổi chính quyền ở Mỹ ? RFI Tiếng Việt đặt câu hỏi với nhà nghiên cứu Benoît de Tréglodé, giám đốc khu vực châu Phi - châu Á - Trung Đông, Viện Nghiên cứu Chiến lược, Trường Quân sự Pháp (IRSEM).
*****
RFI : Đại hội đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ XIII diễn ra vào tháng 01/2021. Liệu đây có phải là thời điểm tế nhị cho Hà Nội trong bối cảnh chưa rõ chính sách cụ thể của chính quyền mới của Hoa Kỳ đối với Biển Đông, cũng như trong khu vực ?
Benoît de Tréglodé : Trước hết là không nên chờ những thay đổi sâu sắc. Tuần trước, ông Joe Biden đã chỉ định ngoại trưởng tương lai trong chính quyền của ông. Đó là một nhân vật rất nổi tiếng, tại vì ông Antony Blinken là cựu trợ lý cố vấn an ninh dưới thời tổng thống Clinton. Ông cũng từng là trợ lý ngoại trưởng trong nhiệm kỳ hai của tổng thống Obama. Thật sự đây là một nhân vật trọng tâm của hệ thống. Chính ông Blinken là người chuẩn bị cho chính sách « xoay trục sang châu Á » nổi tiếng, vì thế, chính sách của ông đối với Trung Quốc, đối với châu Á, được biết đến từ lâu. Cho nên, có rất ít khả năng là dưới thời Biden có những thay đổi sâu sắc so với những điểm trọng tâm trong chính sách của Mỹ về châu Á.
Vấn đề đối với ông Joe Biden, với mẫu ngoại trưởng như vậy, lẽ dĩ nhiên sẽ là đưa Hoa Kỳ trở lại với việc hợp tác giữa các quốc gia, cũng như duy trì đường lối cứng rắn đối với Bắc Kinh, tại vì từ giờ Trung Quốc là vấn đề trung tâm trong việc xây dựng bản sắc Mỹ trên trường quốc tế. Đó là đối thủ cạnh tranh nhiều nhất với tham vọng của Mỹ trên thế giới. Vì thế, theo tôi, sẽ vẫn có một chính sách, một đường lối cứng rắn đối với Bắc Kinh. Nhưng lần này sẽ rất khác so với thời tổng thống Donald Trump, vì chính sách mới trước hết sẽ luôn được phối hợp với các đồng minh của Mỹ trên toàn cầu.
Tôi biết là rất nhiều người Việt Nam có tình cảm đặc biệt với chính quyền Donald Trump và với con người của tổng thống Mỹ thứ 45. Thứ nhất là vì ông Trump biết Việt Nam và đã hai lần đến Việt Nam. Thứ hai, Donald Trump là người khích lệ thêm cho người Việt Nam nói to hơn, dõng dạc hơn những gì mà họ không thể tự nói với tư cách là nước đối tác, nước láng giềng của Trung Quốc.
Chắc chắn là với chính quyền Biden, giọng điệu và phong cách sẽ thay đổi, ngôn từ cũng sẽ thay đổi. Chính sách thời Donald Trump đối với Bắc Kinh đậm tính tư tưởng, xoay quanh những nguyên tắc gần như kế thừa từ thời Chiến tranh lạnh giữa hai đế chế thiện và ác, thì kể từ giờ với ông Joe Biden và Blinken, với tư cách ngoại trưởng, sự thống trị của nền ngoại giao phức hợp, chủ nghĩa đa phương, cơ chế trọng tài, tìm kiếm cân bằng, sẽ trở lại là trọng tâm trong cuộc đối đầu của Mỹ với Trung Quốc. Đây là điều chắc chắn !
Vì thế, việc Hoa Kỳ trở lại với chính sách ngoại giao phức hợp hơn, với những mối quan hệ quốc tế, đúng là đôi khi có thể gây phức tạp hơn cho Việt Nam. Họ không trực tiếp còn một nhân vật khuấy động như ông Donald Trump để có thể nấp đằng sau và đạt được thành quả trong vấn đề quan hệ với Bắc Kinh ở Biển Đông.
Nhưng một lần nữa, chúng ta đừng quên là quan điểm của Hoa Kỳ sẽ hoàn toàn không thay đổi. Bà Hillary Clinton, khi còn là ngoại trưởng Mỹ, đã đến Hà Nội năm 2010. Chính bà là người đã ủng hộ lập trường của Việt Nam và cho thấy rằng Hoa Kỳ sẽ là một đồng minh có ích của Hà Nội để bảo vệ quyền tự do lưu thông hàng hải, mở lối vào khu vực biển chung của châu Á và thúc đẩy việc tôn trọng luật lệ quốc tế ở Biển Đông. Đó là đường lối mà chính quyền mới của Mỹ sẽ tiếp tục theo đuổi.
RFI : Việt Nam thể hiện lập trường cứng rắn về Biển Đông trong những năm gần đây. Chiến lược Ấn Độ-Thái Bình Dương của chính quyền tổng thống Donald Trump có tác động như thế nào đến thái độ cứng rắn này của Hà Nội trước những yêu sách chủ quyền của Bắc Kinh ở Biển Đông ?
Benoît de Tréglodé : Dưới thời tổng thống Trump, quả thực Hoa Kỳ đã thực sự biến chiến lược ở Ấn Độ-Thái Bình Dương thành giấc mơ vĩ đại của họ ở châu Á và trở lại trong khu vực đang bị cạnh tranh sâu sắc vì những bước tiến của Trung Quốc. Cần phải biết là chủ tịch Tập Cận Bình không sẵn sàng thỏa hiệp và ông Tập đã có những bước tiến vô cùng lớn ở châu Á trong những năm gần đây.
Tuy nhiên, chúng ta đừng quên là chính sách của Việt Nam trước hết là một chính sách tìm kiếm sự cân bằng lâu dài giữa các cường quốc thế giới và được ấn định theo quan điểm từ chính sách an ninh, cụ thể là Sách Trắng Quốc Phòng. Được công bố vào cuối năm 2019, phiên bản mới nhất của Sách Trắng Quốc Phòng nêu lên nguyên tắc bốn « Không » trong chính sách đối ngoại và an ninh của Việt Nam. Những nguyên tắc này không cho phép, hay đúng hơn là không muốn đẩy Việt Nam vào việc chọn hoặc tham gia một liên minh quân sự để chống lại một nước thứ ba, hoặc tham gia vào các cuộc tập trận nhắm trực tiếp đến một nước thứ ba, cụ thể là Trung Quốc.
Vì thế, nguyên tắc trụ cột trong đường lối ngoại giao của Việt Nam là vừa tìm được và duy trì sự độc lập, tự chủ giữa những cơn cuồng nộ của hai cường quốc và tiếp tục có được quan hệ đối tác vững chắc với Trung Quốc về mặt kinh tế, thương mại, kể cả vấn đề chính trị nhưng vẫn phải có lập trường cứng rắn trong những vấn đề chiến lược và an ninh ở Biển Đông. Đây thực sự là điểm trọng tâm trong mọi chính sách đối ngoại của Việt Nam. Và trước kỳ Đại hội Đảng sắp tới với dàn lãnh đạo tương lai sẽ điều hành đất nước từ tháng 01 hoặc tháng 02/2021, tôi nghĩ sẽ không có thay đổi sâu sắc về điểm này.
RFI : Giả sử chính phủ Việt Nam tiếp tục đường lối cứng rắn này, Hà Nội sẽ phải triển khai chiến lược nào trong những năm tới ? Và sẽ phải xoay chuyển như nào trong trường hợp chính quyền ông Joe Biden tỏ ra hòa hoãn hơn với Bắc Kinh ?
Benoît de Tréglodé : Điều đầu tiên cần nghĩ đến là những bó buộc hay chính sách đối ngoại của Việt Nam được xây dựng dựa trên một liên minh, một thỏa hiệp lâu dài giữa thực tế kinh tế, ảnh hưởng về địa lý và những tính toán ngoại giao thay đổi theo những lần đổi chính phủ ở các nước lớn.
Có một sự kiện vô cùng quan trọng cần được nêu lên, đó là Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP) đã được phê chuẩn ngày 14/11/2020 trong khuôn khổ hội nghị cấp cao ASEAN do Hà Nội tổ chức. Chính Trung Quốc là nước khởi xướng và đứng đầu thỏa thuận thương mại đa phương mới này. Đừng quên là 6 trong số 10 nhà đầu tư hàng đầu vào Việt Nam từ giờ là thành viên của thỏa thuận RCEP, như Nhật Bản, Singapore, Trung Quốc, Hàn Quốc... Tôi đơn cử trường hợp Hàn Quốc, một trong những nước đầu tư lớn nhất vào Việt Nam với hơn 70 tỉ đô la đầu tư hàng năm, nhiều hơn gần gấp 10 lần so với tổng đầu tư hơn 7 tỉ đô la của toàn bộ các nước Liên Hiệp Châu Âu vào Việt Nam.
Quá trình hội nhập này của Việt Nam không phải là mới, mà đã có từ hơn 10 năm nay. Kinh tế Việt Nam từng bước hội nhập tại châu Á, trước tiên là ở Đông Nam Á, và kể từ giờ là Đông Á. Đây là một yếu tố quan trọng để hiểu được tiến triển, khả năng và phạm vi hành động mà chính quyền Việt Nam có thể có trong tương lai trong mối quan hệ với các cường quốc.
RFI : Đảng Cộng Sản Trung Quốc có ảnh hưởng đến đảng Cộng Sản Việt Nam trong khi người dân Việt Nam lại tỏ ra nghi kị Trung Quốc. Các nhà lãnh đạo đảng Cộng Sản Việt Nam sẽ phải dung hòa như thế nào hai luồng trái ngược này ?
Benoît de Tréglodé : Một kinh nghiệm chính trị lớn và lâu dài cho người Việt Nam mỗi khi gần đến kỳ Đại hội đảng Cộng Sản, điều vẫn thường xảy ra trong suốt nhiều thập niên qua và thực sự cấu thành đời sống chính trị Việt Nam, đó là đảng Cộng Sản Việt Nam, nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã luôn phải phối hợp : vừa lựa theo Trung Quốc, nước láng giềng khổng lồ, đồng thời là đối tác tư tưởng, kinh tế, vừa sử dụng những lá bài có lợi, qua việc tìm cách cân bằng nhờ ảnh hưởng ngày càng lớn của Hoa Kỳ. Washington cũng tìm cách lập một liên minh chính trị, và trong tương lai, tại sao không, cả về lĩnh vực quân sự với các thỏa thuận liên minh ở khu vực Nam Á.
Vấn đề được đặt ra cho cả Việt Nam, cũng như Trung Quốc và Hoa Kỳ, là làm thế nào, trong 4 năm, chính sách về châu Á của tổng thống Trump vốn cực kỳ tập trung vào ý thức hệ, mà cuối cùng lại nhường chỗ cho Trung Quốc. Chính quyền Trump tập trung giải quyết song phương với từng đối tác châu Á một loạt hồ sơ khác, cụ thể hơn và thường nhật hơn rất nhiều, mà Hoa Kỳ từng gác sang một bên.
Có thể nói là cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung trong 4 năm nhiệm kỳ tổng thống Trump thực ra đã gây thiệt hại cho lợi ích của Hoa Kỳ trong khu vực và củng cố rõ nét hơn ảnh hưởng của Trung Quốc trong đối thoại với các nước châu Á. Việt Nam phải tính tới và cân nhắc yếu tố mới này. Dĩ nhiên Hà Nội sẽ thử tiếp lá bài Hoa Kỳ. Ông Joe Biden với đội ngũ lãnh đạo mới sẽ có phát biểu vừa cứng rắn, nhưng cũng lắng nghe hơn lập trường của toàn bộ các nước trong vùng. Và bối cảnh trong khu vực hiện ít thuận lợi hơn cho lợi ích của Mỹ.
RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn nhà nghiên cứu Benoît de Tréglodé, giám đốc khu vực châu Phi - châu Á - Trung Đông, Viện Nghiên cứu Chiến lược của Trường Quân sự Pháp (IRSEM).
https://www.rfi.fr/vi/t%E1%BA%A1p-ch%C3%AD/t%E1%BA%A1p-ch%C3%AD-vi%E1%BB%87t-nam/20201130-dai-hoi-dang-cong-san-viet-nam-va-yeu-to-trung-quoc
Bắc Kinh khăng khăng đòi chủ quyền trên hầu hết Biển Đông, bất chấp phản đối của các nước ASEAN liên quan và nhiều nước trên thế giới. Hoa Kỳ lên án lập trường của Trung Quốc, gia tăng các chiến dịch vì tự do lưu thông hàng hải ở Biển Đông và yêu cầu tôn trọng Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển.
Những điểm này được nêu trong Dự thảo Báo cáo chính trị chuẩn bị cho Đại hội đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ XIII : “Tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo diễn ra căng thẳng, phức tạp, quyết liệt hơn. Hòa bình, ổn định, tự do, an ninh, an toàn hàng hải, hàng không trên Biển Đông đứng trước thách thức lớn, tiềm ẩn nguy cơ xung đột. ASEAN có vai trò quan trọng trong duy trì hòa bình, ổn định, thúc đẩy hợp tác khu vực nhưng cũng đứng trước nhiều khó khăn”.
Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam, có ảnh hưởng lớn đến đường lối lãnh đạo của đảng Cộng Sản Việt Nam. Tuy nhiên, từ nhiều năm gần đây, Hà Nội điều chỉnh chính sách để tránh quá phụ thuộc vào nước láng giềng phương bắc, mở rộng và cải thiện quan hệ ngoại giao, thương mại với các đối tác phương Tây và nước dân chủ, đặc biệt là Hoa Kỳ. Việc Hoa Kỳ có chính quyền mới vào tháng 01/2021 được Hà Nội hết sức chú ý. Ban Tuyên giáo Trung ương tổ chức một hội nghị trực tuyến ngày 12/11 để cập nhật cho các báo cáo viên, cũng như dự báo về chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ trong nhiệm kỳ mới và những tác động đối với tình hình quốc tế và khu vực.
“Yếu tố Trung Quốc” tác động như nào đối với việc hoạch định chính sách đối ngoại của Việt Nam cho những năm tới, trong bối cảnh thay đổi chính quyền ở Mỹ ? RFI Tiếng Việt đặt câu hỏi với nhà nghiên cứu Benoît de Tréglodé, giám đốc khu vực châu Phi - châu Á - Trung Đông, Viện Nghiên cứu Chiến lược, Trường Quân sự Pháp (IRSEM).
*****
RFI : Đại hội đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ XIII diễn ra vào tháng 01/2021. Liệu đây có phải là thời điểm tế nhị cho Hà Nội trong bối cảnh chưa rõ chính sách cụ thể của chính quyền mới của Hoa Kỳ đối với Biển Đông, cũng như trong khu vực ?
Benoît de Tréglodé : Trước hết là không nên chờ những thay đổi sâu sắc. Tuần trước, ông Joe Biden đã chỉ định ngoại trưởng tương lai trong chính quyền của ông. Đó là một nhân vật rất nổi tiếng, tại vì ông Antony Blinken là cựu trợ lý cố vấn an ninh dưới thời tổng thống Clinton. Ông cũng từng là trợ lý ngoại trưởng trong nhiệm kỳ hai của tổng thống Obama. Thật sự đây là một nhân vật trọng tâm của hệ thống. Chính ông Blinken là người chuẩn bị cho chính sách « xoay trục sang châu Á » nổi tiếng, vì thế, chính sách của ông đối với Trung Quốc, đối với châu Á, được biết đến từ lâu. Cho nên, có rất ít khả năng là dưới thời Biden có những thay đổi sâu sắc so với những điểm trọng tâm trong chính sách của Mỹ về châu Á.
Vấn đề đối với ông Joe Biden, với mẫu ngoại trưởng như vậy, lẽ dĩ nhiên sẽ là đưa Hoa Kỳ trở lại với việc hợp tác giữa các quốc gia, cũng như duy trì đường lối cứng rắn đối với Bắc Kinh, tại vì từ giờ Trung Quốc là vấn đề trung tâm trong việc xây dựng bản sắc Mỹ trên trường quốc tế. Đó là đối thủ cạnh tranh nhiều nhất với tham vọng của Mỹ trên thế giới. Vì thế, theo tôi, sẽ vẫn có một chính sách, một đường lối cứng rắn đối với Bắc Kinh. Nhưng lần này sẽ rất khác so với thời tổng thống Donald Trump, vì chính sách mới trước hết sẽ luôn được phối hợp với các đồng minh của Mỹ trên toàn cầu.
Tôi biết là rất nhiều người Việt Nam có tình cảm đặc biệt với chính quyền Donald Trump và với con người của tổng thống Mỹ thứ 45. Thứ nhất là vì ông Trump biết Việt Nam và đã hai lần đến Việt Nam. Thứ hai, Donald Trump là người khích lệ thêm cho người Việt Nam nói to hơn, dõng dạc hơn những gì mà họ không thể tự nói với tư cách là nước đối tác, nước láng giềng của Trung Quốc.
Chắc chắn là với chính quyền Biden, giọng điệu và phong cách sẽ thay đổi, ngôn từ cũng sẽ thay đổi. Chính sách thời Donald Trump đối với Bắc Kinh đậm tính tư tưởng, xoay quanh những nguyên tắc gần như kế thừa từ thời Chiến tranh lạnh giữa hai đế chế thiện và ác, thì kể từ giờ với ông Joe Biden và Blinken, với tư cách ngoại trưởng, sự thống trị của nền ngoại giao phức hợp, chủ nghĩa đa phương, cơ chế trọng tài, tìm kiếm cân bằng, sẽ trở lại là trọng tâm trong cuộc đối đầu của Mỹ với Trung Quốc. Đây là điều chắc chắn !
Vì thế, việc Hoa Kỳ trở lại với chính sách ngoại giao phức hợp hơn, với những mối quan hệ quốc tế, đúng là đôi khi có thể gây phức tạp hơn cho Việt Nam. Họ không trực tiếp còn một nhân vật khuấy động như ông Donald Trump để có thể nấp đằng sau và đạt được thành quả trong vấn đề quan hệ với Bắc Kinh ở Biển Đông.
Nhưng một lần nữa, chúng ta đừng quên là quan điểm của Hoa Kỳ sẽ hoàn toàn không thay đổi. Bà Hillary Clinton, khi còn là ngoại trưởng Mỹ, đã đến Hà Nội năm 2010. Chính bà là người đã ủng hộ lập trường của Việt Nam và cho thấy rằng Hoa Kỳ sẽ là một đồng minh có ích của Hà Nội để bảo vệ quyền tự do lưu thông hàng hải, mở lối vào khu vực biển chung của châu Á và thúc đẩy việc tôn trọng luật lệ quốc tế ở Biển Đông. Đó là đường lối mà chính quyền mới của Mỹ sẽ tiếp tục theo đuổi.
RFI : Việt Nam thể hiện lập trường cứng rắn về Biển Đông trong những năm gần đây. Chiến lược Ấn Độ-Thái Bình Dương của chính quyền tổng thống Donald Trump có tác động như thế nào đến thái độ cứng rắn này của Hà Nội trước những yêu sách chủ quyền của Bắc Kinh ở Biển Đông ?
Benoît de Tréglodé : Dưới thời tổng thống Trump, quả thực Hoa Kỳ đã thực sự biến chiến lược ở Ấn Độ-Thái Bình Dương thành giấc mơ vĩ đại của họ ở châu Á và trở lại trong khu vực đang bị cạnh tranh sâu sắc vì những bước tiến của Trung Quốc. Cần phải biết là chủ tịch Tập Cận Bình không sẵn sàng thỏa hiệp và ông Tập đã có những bước tiến vô cùng lớn ở châu Á trong những năm gần đây.
Tuy nhiên, chúng ta đừng quên là chính sách của Việt Nam trước hết là một chính sách tìm kiếm sự cân bằng lâu dài giữa các cường quốc thế giới và được ấn định theo quan điểm từ chính sách an ninh, cụ thể là Sách Trắng Quốc Phòng. Được công bố vào cuối năm 2019, phiên bản mới nhất của Sách Trắng Quốc Phòng nêu lên nguyên tắc bốn « Không » trong chính sách đối ngoại và an ninh của Việt Nam. Những nguyên tắc này không cho phép, hay đúng hơn là không muốn đẩy Việt Nam vào việc chọn hoặc tham gia một liên minh quân sự để chống lại một nước thứ ba, hoặc tham gia vào các cuộc tập trận nhắm trực tiếp đến một nước thứ ba, cụ thể là Trung Quốc.
Vì thế, nguyên tắc trụ cột trong đường lối ngoại giao của Việt Nam là vừa tìm được và duy trì sự độc lập, tự chủ giữa những cơn cuồng nộ của hai cường quốc và tiếp tục có được quan hệ đối tác vững chắc với Trung Quốc về mặt kinh tế, thương mại, kể cả vấn đề chính trị nhưng vẫn phải có lập trường cứng rắn trong những vấn đề chiến lược và an ninh ở Biển Đông. Đây thực sự là điểm trọng tâm trong mọi chính sách đối ngoại của Việt Nam. Và trước kỳ Đại hội Đảng sắp tới với dàn lãnh đạo tương lai sẽ điều hành đất nước từ tháng 01 hoặc tháng 02/2021, tôi nghĩ sẽ không có thay đổi sâu sắc về điểm này.
RFI : Giả sử chính phủ Việt Nam tiếp tục đường lối cứng rắn này, Hà Nội sẽ phải triển khai chiến lược nào trong những năm tới ? Và sẽ phải xoay chuyển như nào trong trường hợp chính quyền ông Joe Biden tỏ ra hòa hoãn hơn với Bắc Kinh ?
Benoît de Tréglodé : Điều đầu tiên cần nghĩ đến là những bó buộc hay chính sách đối ngoại của Việt Nam được xây dựng dựa trên một liên minh, một thỏa hiệp lâu dài giữa thực tế kinh tế, ảnh hưởng về địa lý và những tính toán ngoại giao thay đổi theo những lần đổi chính phủ ở các nước lớn.
Có một sự kiện vô cùng quan trọng cần được nêu lên, đó là Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP) đã được phê chuẩn ngày 14/11/2020 trong khuôn khổ hội nghị cấp cao ASEAN do Hà Nội tổ chức. Chính Trung Quốc là nước khởi xướng và đứng đầu thỏa thuận thương mại đa phương mới này. Đừng quên là 6 trong số 10 nhà đầu tư hàng đầu vào Việt Nam từ giờ là thành viên của thỏa thuận RCEP, như Nhật Bản, Singapore, Trung Quốc, Hàn Quốc... Tôi đơn cử trường hợp Hàn Quốc, một trong những nước đầu tư lớn nhất vào Việt Nam với hơn 70 tỉ đô la đầu tư hàng năm, nhiều hơn gần gấp 10 lần so với tổng đầu tư hơn 7 tỉ đô la của toàn bộ các nước Liên Hiệp Châu Âu vào Việt Nam.
Quá trình hội nhập này của Việt Nam không phải là mới, mà đã có từ hơn 10 năm nay. Kinh tế Việt Nam từng bước hội nhập tại châu Á, trước tiên là ở Đông Nam Á, và kể từ giờ là Đông Á. Đây là một yếu tố quan trọng để hiểu được tiến triển, khả năng và phạm vi hành động mà chính quyền Việt Nam có thể có trong tương lai trong mối quan hệ với các cường quốc.
RFI : Đảng Cộng Sản Trung Quốc có ảnh hưởng đến đảng Cộng Sản Việt Nam trong khi người dân Việt Nam lại tỏ ra nghi kị Trung Quốc. Các nhà lãnh đạo đảng Cộng Sản Việt Nam sẽ phải dung hòa như thế nào hai luồng trái ngược này ?
Benoît de Tréglodé : Một kinh nghiệm chính trị lớn và lâu dài cho người Việt Nam mỗi khi gần đến kỳ Đại hội đảng Cộng Sản, điều vẫn thường xảy ra trong suốt nhiều thập niên qua và thực sự cấu thành đời sống chính trị Việt Nam, đó là đảng Cộng Sản Việt Nam, nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã luôn phải phối hợp : vừa lựa theo Trung Quốc, nước láng giềng khổng lồ, đồng thời là đối tác tư tưởng, kinh tế, vừa sử dụng những lá bài có lợi, qua việc tìm cách cân bằng nhờ ảnh hưởng ngày càng lớn của Hoa Kỳ. Washington cũng tìm cách lập một liên minh chính trị, và trong tương lai, tại sao không, cả về lĩnh vực quân sự với các thỏa thuận liên minh ở khu vực Nam Á.
Vấn đề được đặt ra cho cả Việt Nam, cũng như Trung Quốc và Hoa Kỳ, là làm thế nào, trong 4 năm, chính sách về châu Á của tổng thống Trump vốn cực kỳ tập trung vào ý thức hệ, mà cuối cùng lại nhường chỗ cho Trung Quốc. Chính quyền Trump tập trung giải quyết song phương với từng đối tác châu Á một loạt hồ sơ khác, cụ thể hơn và thường nhật hơn rất nhiều, mà Hoa Kỳ từng gác sang một bên.
Có thể nói là cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung trong 4 năm nhiệm kỳ tổng thống Trump thực ra đã gây thiệt hại cho lợi ích của Hoa Kỳ trong khu vực và củng cố rõ nét hơn ảnh hưởng của Trung Quốc trong đối thoại với các nước châu Á. Việt Nam phải tính tới và cân nhắc yếu tố mới này. Dĩ nhiên Hà Nội sẽ thử tiếp lá bài Hoa Kỳ. Ông Joe Biden với đội ngũ lãnh đạo mới sẽ có phát biểu vừa cứng rắn, nhưng cũng lắng nghe hơn lập trường của toàn bộ các nước trong vùng. Và bối cảnh trong khu vực hiện ít thuận lợi hơn cho lợi ích của Mỹ.
RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn nhà nghiên cứu Benoît de Tréglodé, giám đốc khu vực châu Phi - châu Á - Trung Đông, Viện Nghiên cứu Chiến lược của Trường Quân sự Pháp (IRSEM).
https://www.rfi.fr/vi/t%E1%BA%A1p-ch%C3%AD/t%E1%BA%A1p-ch%C3%AD-vi%E1%BB%87t-nam/20201130-dai-hoi-dang-cong-san-viet-nam-va-yeu-to-trung-quoc
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét