Hà Sĩ Phu: ‘Bị Hán hóa là mất dân tộc’
15/09/2018 - Đinh Quang Anh Thái VOA – Bài viết dưới đây được trích từ tác phẩm “Ký II” của nhà báo Đinh Quang Anh Thái, xuất bản vào trung tuần tháng Chín, 2018, qua hệ thống Amazon. Bài viết bao gồm nhiều tài liệu, quan điểm của Hà Sĩ Phu, được nhà báo Đinh Quang Anh Thái ghi lại qua nhiều hình thức trong một thời gian dài, khởi đi từ một sự kiện năm 1995 đến biến cố biểu tình chống Dự Luật Đặc Khu 2018. Hơn 20 năm trôi qua, các nhận định liên tục của Hà Sĩ Phu về tình hình chính trị trong nước, trên thế giới, và đặc biệt về mối quan hệ Việt – Trung, vẫn còn nguyên vẹn tính thời sự và tiên đoán chính xác. Bài viết được đăng tải với sự đồng ý của tác giả Đinh Quang Anh Thái.
Hà Sĩ Phu, tác giả "Chia Tay Ý Thức Hệ," tại tư gia
ở Đà Lạt. (Hình: Hà Sĩ Phu gởi Đinh Quang Anh Thái)
Ngày 10 tháng Sáu, 2018, hàng chục ngàn đồng bào tại nhiều thành phố Việt Nam xuống đường biểu tình chống “Dự Luật Đặc Khu Kinh Tế”. Dự luật dự trù sẽ được Quốc Hội Cộng Sản Hà Nội đưa ra biểu quyết ngày 15 Tháng Sáu, cho thuê mướn thời hạn 99 năm ba khu vực Vân Đồn, Bắc Vân Phong và Phú Quốc.Hầu hết các nơi biểu tình đều diễn ra ôn hòa, ngoại trừ Phan Rí. Lực lượng Cảnh Sát Cơ Động, được mệnh danh ‘Quả Đấm Thép’ của Bộ Công An Việt Nam, thúc thủ trước người biểu tình chống dự luật đặc khu và đã biến thành bạo động tại Phan Thiết, Phan Rí Cửa, Bình Thuận.
Hình ảnh trên các mạng xã hội cho thấy lực lượng Cảnh Sát Cơ Động bỏ áo giáp, nón sắt, leo tường chạy khỏi trụ sở Ủy Ban Nhân Dân tỉnh Bình Thuận. Họ được những người biểu tình đối xử tử tế, thậm chí có người dân còn cúi xuống đưa lưng cho cảnh sát leo lên vượt tường ra ngoài.
Ngày 15 Tháng Sáu, từ Đà Lạt, Hà Sĩ Phu gửi email cho kẻ viết bài này:
“Đinh Quang Anh Thái thân mến,
“Trước hết cho mình xin lỗi vì đã hồi âm chậm trễ. Chắc Thái không thể hình dung tình trạng của mình sau khi chị Biên mất. Bà xã mình mất là sự kiện đau thương nhất đời mình. Chị Biên chịu đựng mấy chục năm để cho mình làm nghĩa vụ của một anh trí thức, chưa đền đáp được gì thì bà ấy đã ra đi! Ngày nào mình cũng khóc. Khổ thế, yêu thương càng nhiều thì sự mất mát càng đau. Mình trơ trọi một mình với bệnh tật, phải tự lo liệu đủ mọi thứ. Đồng thời đúng lúc xã hội đang xảy ra nhiều biến động, nên mình không thể tách rời khỏi tình hình chung ấy.
“Thái hỏi đất nước mình bây giờ ra sao, so với cách đây hơn 20 năm, khi mình trả lời phỏng vấn của Thái lần đầu tiên năm 1995, mình thấy, sau hơn 20 năm, tình hình xã hội đã có những biến chuyển đáng khích lệ (số người dân chủ tiên phong xuất hiện nhiều thêm, số người dân quan tâm đến vận mệnh đất nước cũng nhiều thêm, đặc biệt là trước họa Bắc thuộc; xã hội ngày càng phơi bày sự thối nát và không ổn định, thái độ mị dân ngày càng kém hiệu quả, chính sách độc tài ngày càng lộ diện… Những cuộc biểu tình tính tới con số trăm ngàn người tham dự hôm 10-6-2018 là minh chứng cho sự tiến triển đó. Nhưng đó mới là sự biến đổi về LƯỢNG, chưa đủ để thành biến đổi về CHẤT.
“Theo mình, thực trạng đất nước chúng ta hiện nay, do thể chế có 3 tính chất là phi khoa học, độc tài và dối trá, nên xã hội không thể phát triển, tham nhũng, ách tắc, tha hóa toàn diện, bị dồn nén nên tiềm ẩn nguy cơ biến động. Mà đã xảy ra biến động rồi, điển hình là những cuộc biểu tình hôm 10 Tháng Sáu. Nhưng đấy mới là đối nội, chưa quan trọng bằng đối ngoại (nạn Bắc thuộc mới). Thoát Trung mới là nhu cầu cấp thiết hàng đầu, nhưng muốn Thoát Trung phải Thoát Cộng. Người giữ chế độ CSVN không chỉ là ĐCSVN mà chủ yếu là ĐCS Trung Quốc!”
Hà Sĩ Phu 1995
Năm 1989, lúc khối Cộng Sản Đông Âu và “cái nôi của vô sản thế giới” là Liên Xô rã ra như “cơm nguội gặp mưa”, nhà thơ Lê Bi thuộc nhóm Nhân Chủ Học Xã rao khắp bạn bè: “Ai tìm được tác giả bài viết DẮT TAY NHAU ĐI DƯỚI TẤM BIỂN CHỈ ĐƯỜNG CỦA TRÍ TUỆ, tôi tặng 1,000 đô la.”
Không ai kiếm được.
“Nhân Chủ” là từ đã được nhà cách mạng Thái Dịch Lý Đông A dùng đầu tiên vào năm 1939, lúc ông khoảng 19 tuổi, khi ông sáng lập và là Bí Thư Trưởng Duy Dân Cách Mạng Đảng. Nhân Chủ Học Xã là cơ quan lưu trữ tài liệu, nghiên cứu và huấn luyện của Duy Dân.
Sau năm 1954, từ Bắc di cư vào Nam, nhà cách mạng Thái Lăng Nghiêm tiếp tục công việc của Nhân Chủ Học Xã.
Năm 1985, các anh Trịnh Đình Thắng, Thanh Hùng, Hoàng Khởi Phong, Nguyễn Văn Cường, Lưu Ngọc Thọ, Hoàng Chính Nghĩa (Lê Bi), Nguyễn Võ Thu Hương và kẻ viết bài này cùng nhau phục hoạt Nhân Chủ Học Xã tại Mỹ. Trong nhóm, ba anh Trịnh Đình Thắng, Thanh Hùng và Nguyễn Văn Cường là cán bộ Duy Dân; những anh em còn lại là những kẻ lưu vong cùng chí hướng tìm lại với nhau.
Trong nhóm, Lê Bi là người “miệng nói, tay làm.” Anh đánh máy, bỏ dấu tiếng Việt bằng tay và giao cho tôi in những cuốn “Đạo Trường Ngâm”, tập thơ của Lý Đông A; “Tự Phán” của Phan Bội Châu; “Thư Quốc Nội” tập bài nhận định về tình hình Việt Nam của tác giả ẩn danh được chuyển bí mật từ trong nước ra cho chúng tôi (sau này mới biết người chấp bút là anh Đoàn Viết Hoạt); và “Thơ Trích” của Lê Bi.
Cũng vào thời điểm anh em chúng tôi nỗ lực tìm xem ai là tác giả DẮT TAY NHAU ĐI DƯỚI TẤM BIỂN CHỈ ĐƯỜNG CỦA TRÍ TUỆ, báo Người Dân ra đời, với cùng nhân sự của Nhân Chủ Học Xã và thêm các anh Nhật Tiến, Hoàng Mạnh Hùng, Lê Thiện Tùng, Mai Văn Hiền, Phạm Gia Hòa, Nguyễn Văn Trung, Tống Nhiệm, Trần Thế Kiệt, Lã Hoàng Trung.
Nỗ lực, nhưng chúng tôi vẫn không tìm được tác giả DẮT TAY NHAU ĐI DƯỚI TẤM BIỂN CHỈ ĐƯỜNG CỦA TRÍ TUỆ.
Mãi sau này mới biết tác giả bài viết có bút hiệu là Hà Sĩ Phu.
Và ai cũng tưởng “Hà Sĩ Phu” là … sĩ phu Bắc Hà.
Nhưng không phải.
Lần đầu tiên tiếp xúc qua điện thoại và trả lời cuộc phỏng vấn ngày 04 tháng 12, 1995, phát thanh trên đài VNCR 106.3 FM tại California, Hoa Kỳ, Hà Sĩ Phu nói với tôi: “Bút hiệu của tôi đã từng bị đưa ra thảo luận. Ông Đào Duy Tùng khi đi nói chuyện mọi nơi đã cáo buộc rằng, ‘có người xưng là sĩ phu Bắc Hà đòi dạy chúng ta về Mác-Lê nin!’ Rồi khi tôi bị Bộ Nội Vụ gọi để thẩm vấn, thì Thiếu Tướng Quan Phòng có hỏi tôi ‘lấy cái tên như thế anh định có ý gì?’ Ý ông muốn nói tôi dùng cái tên đó để làm khởi động, kích động cái tinh thần sĩ phu kiên cường trong nước chăng? Tôi trả lời là lối hiểu đó là do đòi hỏi của thực tế. Người ta hiểu thế là vì trong thực tế nó đặt ra vấn đề rõ như vậy. Và nếu tên tôi có đáp ứng nhu cầu đó thì tôi không phản đối gì cả. Thực sự ra khi tôi đặt tên đó thì họ Hà, chữ Hà đó là bộ Nhân đứng chứ không phải là bộ Thủy. Nhân đứng và chữ Khả có ý nghĩa là ‘thế nào?’ ‘là ai?’ ‘làm sao?’ - thì tên Hà Sĩ Phu tôi đặt nghĩa là ‘thế nào là sĩ phu?’ ‘ai đáng là sĩ phu?’ ‘ hay làm gì có sĩ phu?’ - tức là sau đó phải đánh một dấu hỏi. Tôi không có ý khẳng định mình xứng đáng là một người sĩ phu của Bắc Hà đâu.”
Ông giải thích thêm, khi đặt bút danh cho mình là Hà Sĩ Phu, ông muốn tỏ những thao thức, trăn trở về tình trạng tụt hậu mọi mặt của Việt Nam và muốn tự nhắc mình về bổn phận và ý thức của người sĩ phu đối với con người và đất nước Việt Nam.
***
Hà Sĩ Phu, tên thật là Nguyễn Xuân Tụ, sinh năm 1940 ở Bắc Ninh. Tốt nghiệp Phó Tiến Sĩ Sinh Học tại Viện Hàn Lâm Khoa Học Tiệp Khắc. Về nước, Hà Sĩ Phu công tác tại Viện Khoa Học Việt Nam. Từ năm 1988, Hà Sĩ Phu đã công khai chống lại chủ nghĩa và sự cai trị độc tài của Cộng Sản Việt Nam. Những bài Hà Sĩ Phu viết như “Thằng Bờm,” “Biện Chứng và Ngụy Biện trong công cuộc đổi mới”; đặc biệt là bài “Dắt tay nhau đi dưới tấm biển chỉ đường của trí tuệ” và “Chia Tay Ý Thức Hệ” tạo ra nhiều tiếng vang lớn, trong cũng như ngoài nước.
Trong bài “Chia Tay Ý Thức Hệ” ông viết: “Không phải như Cộng Sản thường nói rằng chủ nghĩa luôn luôn đúng, chỉ có con người thi hành sai mà ý thức hệ Cộng Sản sai từ căn bản. Phải từ bỏ ý thức hệ đó thì mới xây dựng được đất nước.”
***
Một số đoạn trong bài phỏng vấn năm 1995:
Đinh Quang Anh Thái: Trong một bài của ông, ông viết rằng, dẫu còn điều kiện này hay điều kiện khác, vai trò lịch sử của trào lưu Cộng Sản vẫn được mãi mãi ghi nhận. Và một đoạn khác ông nói, cùng với người hiệp sĩ ấy (ý ông ám chỉ người Sộng Sản) nhân dân ta đã có những ngày sống đẹp thanh khiết như thần tiên. Chúng tôi xin hỏi, ông ghi nhận những chuyện đó ở thời điểm nào? Ông cho ví dụ được không? Bà Dương Thu Hương thì đã có một giai đoạn gọi đó là một thứ thiên đường, về sau bà chua chát nhìn nhận đó là một “thiên đường mù.” Còn về phần ông, khi viết như vậy, ông muốn dùng uyển ngữ để gửi tín hiệu cho người đọc hay thực tâm ông nghĩ như vậy?
Hà Sĩ Phu: Những quá trình chuyển hóa hết sức là phức tạp. Đầu tiên là có sự xâm nhập và ký sinh của một thứ lý thuyết giai cấp cực đoan ảo tưởng phi khoa học, tức là cái dở. Nhưng nó ký sinh vào trong phong trào dân tộc. Và nó biến thành cái của dân tộc, mang thông điệp giải phóng của dân tộc. Đây là sự chuyển hóa đầu tiên. Lúc kháng chiến chống Pháp xong, lúc ấy cuộc sống còn nghèo, và cả đói nữa, cuộc thanh trừng giai cấp đã ló ra ở chỗ này, chỗ khác. Nhưng nhìn chung thì phải nhìn nhận rằng trong giai đoạn ngắn ngủi ấy, xã hội còn thanh bình, tình người còn trung hậu và xét trong số đông, tâm lý hồ hởi tin tưởng là có thật.
Về sau, do tính chất ảo tưởng cực đoan và phi khoa học của các học thuyết đó, cho nên nó thoái hóa, làm mất yếu tố tốt ban đầu, và biến những cái của dân tộc thành cái phi dân tộc và cản trở dân tộc. Thế rồi lại đến giai đoạn khác như hiện nay. Nhưng phải nhận rằng ngay trong tâm trạng bị vùi mình trong cái xấu như thế, thì một số các hạt nhân tinh hoa của dân tộc vẫn tồn tại chứ không mất đi. Và trong điều kiện như ở nước ta là một đảng đã nắm độc quyền lãnh đạo thì những hạt nhân bị vùi trong cái khối không tốt, chính họ chứ không phải ai khác, có khả năng bất ngờ tách ra, châm ngòi cho những cuộc đổi đời dân tộc một lần nữa để thanh toán cái xấu một cách hòa bình.
Tôi nghĩ nhận thức thực tiễn cũng như về phương pháp, tức là có cái phần gọi là sách lược, đều cần làm rõ điều này và thực tế ở thế giới, cũng như thực tế ở trong nước ta cũng dần dần xác định điều này. Thực tế, hiện nay những người bảo thủ ở nước ta sợ nhất khả năng chuyển hóa trong nội bộ của những nhân tố tốt đó. Cho nên họ cũng đề phòng kỹ lưỡng nhất cái khả năng này. Chỉ riêng điều ấy thôi, cũng cho thấy rằng nhận thức này, tức là nhận thức về yếu tố tích cực của phong trào Cộng Sản trong quá khứ không hề là một tư tưởng cải lương. Trái lại chính nó là một nhận thức mang xung lực mạnh mẽ nhất. Còn lối suy nghĩ có tính cách phân tuyến, đơn giản, một chiều, thì thoạt nghe có thể thấy là mạnh mẽ, có thể làm thỏa mãn một nhận thức chủ quan nào đấy, nhưng nó không phản ánh đúng cái bi kịch phức tạp của dân tộc, và do đó nó có ít khả năng tác động vào hiện thực.
Một nhà văn Cộng Sản đã nói là “thế hệ chúng tôi ở tuổi 20 mà không theo Cộng Sản thì không có tim, nhưng mà ở tuổi 50 mà còn theo Cộng Sản thì lại không có óc.” Đấy, nhận thức nó lòng vòng như vậy, đâu có thể lấy hiện tại để làm chuẩn, để quy kết quá khứ hoặc là lấy quá khứ làm chuẩn để bênh vực hiện tại một cách suy diễn máy móc được.
Đinh Quang Anh Thái: Thưa ông, sau năm 1975, trong một lần nói chuyện với ông Vũ Sinh Hiên, một trí thức Công Giáo và cũng là cây bút của Tạp chí Đứng Dậy, ông Hiên bảo tôi rằng, khi chọn thái độ ở lại để cộng tác với chế độ Cộng Sản thì việc chọn đó là một “hành trình bắt buộc của trí thức.” Ông Hiên nói như thế sau khi đã tỉnh ngộ rồi. Câu tôi muốn được hỏi ông, là liệu người trí thức có phải chọn cái “hành trình bắt buộc” như ông Hiên nói hay không? Bởi vì theo chỗ tôi biết, có nhiều người ở lứa tuổi 20 đã sáng suốt để thấy rằng phong trào Cộng Sản thực chất của nó không có gì tốt đẹp cả và nó chỉ đưa đất nước hoặc tập thể con người bị sự chọn lựa tới con đường đen tối thôi; như vậy không nhất thiết sự chọn lựa của lứa tuổi 20 theo con đường Cộng Sản là phổ quát cho tất cả mọi người. Ông nghĩ sao?
Hà Sĩ Phu: Ý kiến của ông Thái có lý. Vì theo tôi nghĩ, sự chọn lựa đó là một sự chọn lựa của con tim, trong điều kiện là khối óc phát triển chưa tới. Cái đó, có thể nói là tình trạng DÂN TRÍ còn thấp. Và rất nhiều người trí thức mà ở trong một xã hội thông tin không đầy đủ, thì cái trí tuệ phát triển chưa tới. Tôi nghĩ là cùng trong giai đoạn đó rất nhiều nước văn minh va chạm với lý thuyết Cộng Sản, nhưng họ không đi theo, họ có tin nhưng vì trí tuệ của họ đã phát triển cao hơn để họ không phải bước qua giai đoạn đó nữa.
Cho nên, thực ra, nếu nói đây là sự chọn lựa tất yếu, thì đó là sự chọn lựa tất yếu của những người trí thức nhưng mà trí tuệ phát triển chưa tới. Nếu đủ trí tuệ thì đã có thể tránh được [sự chọn lựa đó] rồi.
Đinh Quang Anh Thái: Trở lại một câu mà lúc nãy chúng tôi vừa mới trích dẫn trong bài viết của ông, là “cùng với người hiệp sĩ ấy nhân dân ta có những ngày sống đẹp như thần tiên,” thì khi viết như vậy, ông có nghĩ rằng ông đã xúc phạm đến vong linh hàng triệu nạn nhân đã lót đường cho chủ nghĩa mà bây giờ chính ông, ông cũng đang chống lại không?
Hà Sĩ Phu: Lúc nãy tôi có nói là dân tộc mình trải qua một quá trình vận động hết sức phức tạp của lịch sử. Cho nên cái lối tư duy phân tuyến đơn giản chia thành hai gói: một gói trắng, một gói đen, một gói phải, một gói trái, một gói chính, một gói tà; rồi trắng là trắng hết ngay từ đầu, đen là đen hết ngay từ đầu; thì thực sự ra nó không phản ánh đúng thực tiễn. Không phải vì tôi và anh đối địch, mà về sau là cứ khen bất cứ cái gì của tôi là xúc phạm tới anh; bởi vì trong tôi có cái đúng, cái sai. Và trong tôi, đâu phải là cá nhân tôi, còn cả tập đoàn của tôi có người thế này, thế kia. Bởi vậy khi mà khẳng định có những ngày sống đẹp, xin hiểu như thế này, cái đẹp đó là cái đẹp không trần tục, không phải là cái đẹp thực tế. Cái đẹp thần tiên làm sao tồn tại trên trần gian được? Cái đẹp đó được nẩy sinh trong điều kiện đơn giản, còn nghèo khó, còn ảo tưởng, chứ khi tiếp xúc với cuộc sống thực tiễn thì nó bị đẩy lui. Vì đó là cái đẹp mong manh của giai đoạn chưa phát triển. Thứ đến là có cái tốt lẫn cái ngộ nhận của dân tộc. Thế nhưng khi khẳng định mặt mà ta còn có thể coi là tích cực đó thì không hề có ý là phủ định những mầm mống sai lầm đã có ngay từ đầu.
Như tôi đã nói lúc đầu, trong lúc đa số có một sự hồ hởi như thế, thì một cuộc thanh trừng giai cấp có thể đã nổ ra ở một chỗ nào đó nhưng nó chưa chi phối tình hình tâm lý chung của cả nước. Vậy giữa cái sai và cái đúng, giữa mặt tích cực và tội lỗi, nó xen kẽ cùng một lúc, cho nên khẳng định vấn đề ở chỗ này, không có nghĩa là phủ định một vấn đề ở chỗ khác. Tôi nghĩ rằng, trong tình hình phức tạp đó, khi khẳng định mặt tốt trong đó có yếu tố dân tộc tham gia, tôi không hề có ý định phủ định các tội lỗi mà một bộ phận hay chính các thế lực ấy gây ra ở chỗ khác. Tôi nghĩ là hai cái đó không có gì mâu thuẫn nhau.
***
Hà Sĩ Phu là một trí thức sinh ra, lớn lên, chứng nghiệm Xã hội Chủ nghĩa Cộng sản bằng chính bản thân mình. Không thù hận, không báng bổ, ông từ tốn, lột trần bản chất của cái chủ nghĩa đang bị nhân loại vất vào thùng rác của lịch sử.
Trong nước, Hà Sĩ Phu trăn trở như thế. Ở hải ngoại, nhà thơ Lê Bi, một cựu sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa, cũng trăn trở khi đặt bút viết bài thơ BỨC TƯỜNG BÁ LINH CÓ THẬT vào năm 1999, trong bối cảnh người dân cả khối Đông Âu và Liên Xô đứng lên lật đổ các chế độ Cộng Sản cai trị những đất nước này.
Bức tường Bá Linh có thật
Rất thật
Nhưng khi vỡ, nó vỡ như mơ
Rất mơ
28 năm lõa lồ trên mặt đất
Mất hôm qua hay tự bao giờ.
Đừng gởi về Việt Nam bất cứ viên gạch nào
của bức tường Bá Linh
Nó có thể làm tủi cả dòng sông Bến Hải
Đừng để lịch sử phải khóc
dù thời gian không thể quay đầu lại
Và mỗi người Việt Nam sẽ biết thêm
cái giá thống nhất nước mình.
Có những người đập phá bức tường
bằng tất cả niềm vui
Mà không kinh ngạc
Cũng chẳng ai thấy điều gì mất mát
Để chúng ta hiểu đó chỉ là chuyện bình thường
Khi con người bắt đầu đứng lên
đòi quyền sống thật
Ngay cả những giấc mơ cũng có thể bước ra đường
Mọc lên trăm ngàn ngọn nến
Những ngọn nến lung linh
Cả nước Đức phải thức
bước tới tương lai
Và trời sao cúi thấp
Chen lấn với người
Tôi cũng thức
Những cơn gió mùa thu 1989 làm rộn ràng nước Đức
Và tôi vội vàng dấu đi nước mắt
Những giọt nước mắt nuốt ngược ruột gan
Tôi ngoài Việt Nam ngoài nước Đức
Những cơn gió rộn ràng thổi ngoài Việt Nam
Gió ngoài Việt Nam
Rất ngoài Việt Nam.
Bức tường Bá Linh có thật
Quá thật
Bao nhiêu năm tôi mới có lần nhìn gần nước Đức
Nhìn từ cái búa cái đục
Trong tay những kẻ vô danh
Cũng cao hơn biết bao tầm nhìn trí tuệ
Khi thế giới chuyển mình nhìn nó đổ
Gạch đá cũng vui
Khi nhân loại tung lên những nụ cười
Một khoảng trời sao không thể ngủ
Khi những con người khám phá ra
quyền sống bình thường
Thở bình thường
Nói bình thường
Đi lại bình thường
Nước Đức không thể ngủ
Có những góc cạnh không thể ngủ
Những bản tin trên màn ảnh nhỏ
như những ngọn đèn không thể ngủ
Tôi không thể ngủ
Khi những ngọn đèn vẫn mọc ngoài Việt Nam
Chiếu sâu vào quá khứ
Tra tấn Việt Nam.
28 năm quá dài cho những kẻ đợi chờ
28 năm và 42 cây số quá ngắn
để che giấu cho một thời đại
Hãy giữ những phần còn lại
Giữ mãi
Như những bức tượng thời Trung cổ
Làm di tích
cho cả loài người.
Đừng, đừng nói với Việt Nam bất cứ một tin tức gì
về bức tường Bá Linh
Nó có thể làm Trường Sơn vùng lên tức tưởi
Những bà mẹ không thấy xác đàn con
Những oan hồn
không chiều dài chiều cao chứa nổi.
Hãy cứ để nó sần sùi
Ôi những tảng gạch vô tri vô giác
Đã thành não trạng của những niềm vui
Vừa tự vỡ.
28 năm cuộn tròn
28 năm không ngẩng mặt
Không dài hơn sông Bến Hải
Không cao hơn Trường Sơn
Hạnh phúc cho nước Đức
Đã dạy bao người bước qua ô nhục
Mà không phải hận thù
bạo lực
Và dạy tôi phải nuốt những giọt nước mắt
Giữa những niềm vui.
Nước Đức ở quá xa
Mưa tháng 11 quá xa
Tôi không ở gần được ôm được khóc
Hạnh phúc cho nước Đức
Đã dạy chúng tôi chiến thắng cao cả nhất
Là trận chiến không tốn máu xương
Và tất cả được sống bình thường
Hạnh phúc cho những bông hoa
Có thể chuyền tay cho bất cứ ai xa lạ
Những bông hoa may mắn hơn chán vạn hoa
Trong chốc lát bỗng nhiên thành cột mốc
Đón sự thật ùa ra.
Bức tường Bá Linh có thật
Nó có thật tự bao giờ?
***
(còn nữa)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét