Ảnh chúc mừng năm mới mới nhận
Giới thiệu về tỉnh Bắc Ninh quê bác gửi ảnh
Một bác về hưu đã hơn chục năm mới gửi tặng mình tấm ảnh chúc mừng năm mới này. Mình rất thích vì là ảnh bác chụp cảnh tự nhiên ở làng quê bác ở. Lưu lại đây để nhớ, thỉnh thoảng xem lại. Trân trọng cám ơn bác.Giới thiệu về Bắc Ninh, quê bác gửi ảnh:
Bắc Ninh là một tỉnh có diện tích nhỏ nhất Việt Nam thuộc đồng bằng sông Hồng và nằm trên Vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ. Bắc Ninh tiếp giáp với vùng trung du Bắc bộ tại tỉnh Bắc Giang. Bắc Ninh là cửa ngõ phía đông bắc của thủ đô. Tỉnh lỵ là thành phố Bắc Ninh nằm cách trung tâm Hà Nội 30 km về phía đông bắc. phía tây và tây nam giáp thủ đô Hà Nội, phía bắc giáp tỉnh Bắc Giang, phía đông và đông nam giáp tỉnh Hải Dương, phía nam giáp tỉnh Hưng Yên. Trong quy hoạch xây dựng, tỉnh này thuộc vùng Thủ đô. Ngoài ra, Bắc Ninh còn nằm trên 2 hành lang kinh tế Côn Minh - Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh và Nam Ninh - Lạng Sơn - Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh.
Bắc Ninh là tỉnh nổi tiếng với dân ca quan họ Bắc Ninh. Bắc Ninh là trung tâm xứ Kinh Bắc cổ xưa[2]. Đây là mảnh đất địa linh nhân kiệt, nơi có truyền thống khoa bảng và nền văn hóa lâu đời. Hiện nay trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh có khoảng 41 lễ hội đáng chú ý trong năm được duy trì. Trong đó có những lễ hội lớn như: hội chùa Dâu, hội Lim, hội đền Đô, hội đền Bà Chúa Kho[3]. Con người Bắc Ninh mang trong mình truyền thống văn hoá, hiếu khách, cần cù và sáng tạo, với những bàn tay khéo léo mang đậm nét dân gian của vùng trăm nghề như tơ tằm, gốm sứ, đúc đồng, trạm bạc, khắc gỗ, làm giấy, tranh vẽ dân gian... đặc biệt là những làn điệu dân ca quan họ trữ tình nổi tiếng trong và ngoài nước[4][5][6].
Định hướng Bắc Ninh trở thành vùng đô thị lớn: Văn hiến, văn minh, giàu bản sắc (của văn hóa Kinh Bắc), hiện đại, sinh thái và bền vững, trên nền tảng kinh tế trí thức; có cơ sở hạ tầng đồng bộ và hiện đại; có môi trường sống tiện nghi, trong lành đáp ứng nhu cầu vật chất ngày một cao của nhân dân[6].Đến năm 2020, Bắc Ninh đạt tiêu chí đô thị loại I, trở thành TP trực thuộc Trung ương[7]. Điều chỉnh, cải tạo, nâng cấp các KĐT, KCN cũ theo hướng hiện đại, bền vững, gắn chương trình phát triển nông thôn mới với lộ trình phát triển đô thị toàn tỉnh theo phương châm "Chùm đô thị hướng tâm, nhất thể hóa đô thị nông thôn".
Lịch sử
Bắc Ninh hình thành lâu đời gắn liền với nền Văn minh sông Hồng. Luy Lâu từng là trung tâm kinh tế - chính trị, tôn giáo cổ xưa nhất của Việt Nam.
Từ mấy nghìn năm trước người Việt cổ đã cư trú và lập làng ở ven sông Cầu, sông Dâu, sông Đuống, sông Ngũ Huyện Khê, sông Tiêu Vương sống chủ yếu bằng canh tác nông nghiệp kết hợp làm nghệ thủ công. Hàng loạt di vật như trống đồng, dao găm, rìu, giáo, tấm che ngực, mảnh giáp bằng đồng với những hoa văn độc đáo được tìm thấy ở các di tích Lăng Ngâm, Đại Trạch, Quả Cảm, Đại Lai mảnh khuôn đúc trống đồng trong thành cổ Luy Lâu đã chứng tỏ người xứ Bắc rất tinh xảo trong nghề đúc đồng, chế tác các đồ trang sức, làm gốm.[8] Những giá trị tinh thần, tư tưởng được phản ánh qua các huyền thoại ông Đùng, bà Đùng, ông khổng lồ cắn nát núi, hút sạch rừng, băng ngang lũ; về Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân, Âu Cơ, Thánh Gióng, An Dương Vương, Mỵ Châu - Trọng Thuỷ và thành cổ Loa. Cùng với huyền thoại truyền thuyết là đậm đặc các di tích tiêu biểu như lăng mộ Kinh Dương Vương, các đền thờ Lạc Long Quân, Âu Cơ, đền thờ Phù Đổng Thiên Vương ở Thuận Thành, Từ Sơn, Tiên Du.
Thời kỳ nước Văn Lang, nước ta được chia làm có 15 bộ, bộ Vũ Ninh là vùng lãnh thổ thuộc phần lớn tỉnh Bắc Ninh hiện nay. Trong thời Bắc thuộc, Giao Chỉ gồm có 10 huyện trong đó có huyện Luy Lâu. Luy Lâu đã từng là đô thị lớn, là trung tâm thương mại trong suốt thời kỳ dài từ cuối thế kỷ thứ II đến thế kỷ IX-X. Xung quanh Luy Lâu là các làng nông nghiệp, làng thủ công, làng buôn bán phát triển. Tại đây, tư tưởng Nho giáo và văn hoá Hán Đường đã được truyền bá liên tục vào nước ta. Trung tânm Luy Lâu là nơi đầu tiên có trường dạy chữ và văn hoá Hán ở Việt Nam. Ngoài ra Luy Lâu còn là trung tâm Phật giáo lớn và cổ xưa nhất của người Việt. Hệ thống di tích, chùa tháp quần tụ đậm đặc ở đây với trung tâm là chùa Dâu cùng nhiều nguồn di vật, tài liệu như tượng pháp, bia ký, bản khắc Cổ Châu Pháp Vân và lễ hội chùa Dâu - lễ hội Phật giáo lớn nhất trong đồng bằng Bắc Bộ với các nghi lễ Tân Phật, rước Tứ Pháp, rước nước chứng tỏ Luy Lâu là tổ đình của Phật giáo Việt Nam. Luy Lâu là không gian điển hình đan xen, hỗn dung tiếp xúc, biến đổi hội tụ và kết tinh văn hoá Việt Nam cổ với văn hoá Phật - Ấn, Nam Á và Trung Á, văn hoá Nho Lão (Trung Hoa - Đông Á) để rồi sinh thành bản sắc văn hoá Kinh Việt. Đến thời Ngô Quyền, Giao Châu gồm các vùng phía nam sông Hồng và sông Đuống, thuộc Hà Nội, Bắc Ninh, một phần Hưng Yên.
Các vua thời Lý lập Phủ Thiên Đức (vốn là châu Cổ Pháp). Bắc Ninh là đất phát tích nhà Lý - triều đại khai mở ra nền văn minh Đại Việt gắn liền với tên tuổi của những nhân vật lịch sử - văn hoá kiệt xuất như: Lý Công Uẩn, Lý Nhân Tông, Nguyên Phi Ỷ Lan, Lê Văn Thịnh. Đây là nơi vang vọng bài thơ Nam quốc sơn hà- bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc Việt Nam.
Cuối thời Trần, cả nước có 24 đơn vị hành chính. Lộ Bắc Giang bao trùm Bắc Ninh và một phần Hà Nội, Bắc Giang ngày nay, gồm có 3 châu, lộ trực tiếp quản lý 2 huyện Siêu Loại và Gia Lâm. Châu Gia Lâm gồm 3 huyện: An Định (Gia Bình hiện nay), Tế Giang (Văn Giang hiện nay), Thiện Tài (Lương Tài hiện nay). Châu Vũ Ninh gồm 5 huyện: Tiên Du (Tiên Du hiện nay), Vũ Ninh (Võ Giàng hiện nay), Đông Ngàn (Từ Sơn và một phần Sóc Sơn thuộc Hà Nội hiện nay), Từ Sơn (Quế Võ hiện nay), Yên Phong (Yên Phong hiện nay). Châu Bắc Giang gồm 3 huyện Tân Phúc (Đa Phúc cũ, một phần Sóc Sơn hiện nay), Phật Thệ (Hiệp Hòa thuộc Bắc Giang hiện nay), Yên Việt (Việt Yên hiện nay).
Năm 1490, vua Lê Thánh Tông cho định lại bản đồ cả nước, gồm 13 (đạo) xứ thừa tuyên. Trong đó, trấn (xứ) Kinh Bắc gồm 4 phủ (20 huyện), hiện nay bao gồm toàn bộ ranh giới 2 tỉnh Bắc Giang, Bắc Ninh và một phần nhỏ các tỉnh thành lân cận là Hà Nội (toàn bộ khu vực phía bắc sông Hồng là: Gia Lâm, Long Biên, Đông Anh, Mê Linh, Sóc Sơn); Hưng Yên (Văn Giang, Văn Lâm) và Lạng Sơn (Hữu Lũng).
Thời Minh Mạng, cả nước được chia thành 31 đơn vị hành chính: phủ Thừa Thiên là trung tâm, các trấn (tên đơn vị hành chính thời Hậu Lê và Tây Sơn) được đổi thành 30 tỉnh. Việc lập các tỉnh được thực hiện trong 2 đợt. Đợt đầu tiên vào năm 1831, Minh Mạng thực hiện chia các trấn phía bắc làm 18 tỉnh. Tỉnh Bắc Ninh được thành lập (nay là Bắc Ninh và Bắc Giang, một phần đất Hà Nội và Vĩnh Phúc này nay).
Bắc Ninh là cửa ngõ của cố đô Thăng Long, là vùng đất trung chuyển giữa kinh đô xưa với miền địa đầu giáp giới Trung Quốc. Do có đường quốc lộ lên ải Bắc chạy qua, nên vị trí quân sự của Bắc Ninh cực kỳ hệ trọng. Chính vì thế, mùa xuân 1884, Pháp đánh thành Bắc Ninh hoàn thành gấp công cuộc thống trị và bảo hộ nước ta. Năm 1895, tách phủ Lạng Giang ra lập tỉnh Bắc Giang. Năm 1903, tách các huyện Đông Anh, Kim Anh, Đa Phúc nhập vào tỉnh Vĩnh Yên. Năm 1960, huyện Văn Giang của Bắc Ninh được tách sang tỉnh Hưng Yên. Ngày 20 tháng 4 năm 1961, tách huyện Gia Lâm nhập vào Hà Nội.
Vào năm 1963, tỉnh Bắc Ninh được sát nhập với tỉnh Bắc Giang thành tỉnh Hà Bắc; cùng lúc đó, 2 huyện Tiên Du và Từ Sơn hợp nhất thành huyện Tiên Sơn, 2 huyện Quế Dương và Võ Giàng hợp nhất thành huyện Quế Võ. Mặc dù không còn vị trí tỉnh lỵ như trước đây (lúc đó Bắc Giang trở thành tỉnh lỵ của tỉnh mới sát nhập), nhưng thị xã Bắc Ninh vẫn là một trung tâm kinh tế - xã hội quan trọng của Hà Bắc, nhất là trong mối quan hệ giao lưu với thủ đô Hà Nội.[9].
Ngày 1 tháng 1 năm 1997, tỉnh Bắc Ninh chính thức được tái lập theo Nghị quyết của Quốc hội khoá IX, kỳ họp thứ 10 (ngày 06 tháng 11 năm 1996).[10] Khi tách ra, tỉnh Bắc Ninh có 6 đơn vị hành chính gồm: thị xã Bắc Ninh (tỉnh lị) và 5 huyện: Gia Lương, Quế Võ, Thuận Thành, Tiên Sơn, Yên Phong.
Ngày 9 tháng 8 năm 1999, chia huyện Tiên Sơn thành 2 huyện: Tiên Du và Từ Sơn; chia huyện Gia Lương thành 2 huyện: Gia Bình và Lương Tài.[11]
Hành chính
Cũng như các tỉnh và thành phố khác của Việt Nam, Hội đồng nhân dân tỉnh Bắc Ninh do người dân thành phố trực tiếp bầu lên, là cơ quan quyền lực nhà nước ở tỉnh. Hội đồng nhân dân tỉnh Bắc Ninh hiện nay, nhiệm kỳ 2011–2016, gồm 50 đại biểu, chủ tịch là Nguyễn Sỹ[14]. Ủy ban Nhân dân tỉnh Bắc Ninh là cơ quan chấp hành của hội đồng nhân dân và là cơ quan hành chính nhà nước ở thành phố, chịu trách nhiệm chấp hành hiến pháp, pháp luật, các văn bản của Chính phủ và các nghị quyết của hội đồng nhân dân tỉnh. Ngoài các sở, ban như những tỉnh khác, thuộc Ủy ban nhân dân còn có thêm báo Báo Bắc Ninh, Đài Phát thanh - Truyền hình Bắc Ninh.Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh là ông Nguyễn Nhân Chiến[15]. Ủy ban nhân dân tỉnh có trụ sở nằm ở số 10, Phù Đổng Thiên Vương, Suối Hoa, thành phố Bắc Ninh[16].
Bên cạnh Chủ tịch Hội đồng Nhân dân và Chủ tịch Ủy ban Nhân dân, đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Bắc Ninh còn bầu ra Bí thư Tỉnh ủy, hiện nay là ông Trần Văn Túy[17] được bầu vào đại hội lần thứ XVI (nhiệm kỳ 2010-2015). Quyền hạn và trách nhiệm của Bí thư Tỉnh ủy được quy định theo Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam. Về mặt quân sự, Bắc Ninh thuộc Quân khu 1.
Ðơn vị hành chính cấp Huyện | Thành phố Bắc Ninh | Thị xã Từ Sơn | Huyện Gia Bình | Huyện Lương Tài | Huyện Quế Võ | Huyện Thuận Thành | Huyện Tiên Du | Huyện Yên Phong | |||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Diện tích (km²) | --- | --- | --- | --- | --- | --- | --- | --- | |||||
Dân số (người)2009[18] | 164 370 | 140 040 | 92 269 | 96 326 | 135 938 | 144 536 | 124 396 | 126 660 | |||||
Mật độ dân số (người/km²) | --- | --- | --- | --- | --- | --- | --- | --- | |||||
Số đơn vị hành chính | 13 phường và 6 xã | 7 phường và 5 xã | 1 thị trấn và 13 xã | 1 thị trấn và 13 xã | 1 thị trấn và 20 xã | 1 thị trấn và 17 xã | 1 thị trấn và 13 xã | 1 thị trấn và 13 xã | |||||
Huyện lỵ | --- | --- | Gia Bình | Thứa | Phố Mới | Hồ | Lim | Chờ | |||||
Nguồn: Website tỉnh Bắc Ninh |
Địa lý
Địa chất, thủy văn
Địa hình của tỉnh này tương đối phẳng, có hướng dốc chủ yếu từ Bắc xuống Nam và từ Tây sang Đông, được thể hiện qua các dòng chảy bề mặt đổ về sông Đuống và sông Thái Bình. Vùng đồng bằng thường có độ cao phổ biến từ 3-7 m, địa hình trung du (hai huyện Quế Võ và Tiên Du) có một số dải núi độ cao phổ biến 300–400 m. Diện tích đồi núichiếm tỷ lệ nhỏ (0,53%) so với tổng diện tích, chủ yếu ở hai huyện Quế Võ và Tiên Du.
Bắc Ninh có mạng lưới sông ngòi khá dày đặc, mật độ lưới sông khá cao, trung bình 1,0 - 1,2 km/km2, có 3 hệ thống sông lớn chảy qua gồm sông Đuống, sông Cầu và sông Thái Bình. Sông Đuống có chiều dài 42 km nằm trên đất Bắc Ninh, tổng lượng nước bình quân 31,6 tỷ m3. Mực nước cao nhất tại bến Hồ tháng 8/1945 là 9,64m, cao hơn so với mặt ruộng là 3 – 4 m. Sông Đuống có hàm lượng phù sa cao, vào mùa mưa trung bình cứ 1 m3 nước có 2,8 kg phù sa. Sông Cầu có chiều dài sông Cầu là 290 km với đoạn chảy qua tỉnh Bắc Ninh dài 70 km, lưu lượng nước hàng năm khoảng 5 tỷ m3. Sông Cầu có mực nước trong mùa lũ cao từ 3 – 6 m, cao nhất là 8 m, trên mặt ruộng 1 – 2 m, trong mùa cạn mức nước sông lại xuống quá thấp (0,5 - 0,8 m). Sông Thái Bình thuộc vào loại sông lớn của miền Bắc có chiều dài 385 km, đoạn chảy qua tỉnh Bắc Ninh dài 17 km[19]. Do phần lớn lưu vực sông bắt nguồn từ các vùng đồi trọc miền đông bắc, đất đai bị sói mòn nhiều nên nước sông rất đục, hàm lượng phù sa lớn. Do đặc điểm lòng sông rộng, ít dốc, đáy nông nên sông Thái Bình là một trong những sông bị bồi lấp nhiều nhất. Theo tài liệu thực đo thì mức nước lũ lụt lịch sử sông Thái Bình đo được tại Phả Lại năm 1971 đạt tới 7,21 m với lưu lượng lớn nhất tại Cát Khê là 5000 m3/s. Ngoài ra trên địa bàn tỉnh còn có các hệ thống sông ngòi nội địa như sông Ngũ huyện Khê, sông Dâu, sông Đông Côi, sông Bùi, ngòi Tào Khê, sông Đồng Khởi, sông Đại Quảng Bình.
Với hệ thống sông này nếu biết khai thác trị thuỷ và điều tiết nước sẽ đóng vai trò quan trọng trong hệ thống tiêu thoát nước của tỉnh. Trong khi đó tổng lưu lượng nước mặt của Bắc Ninh ước khoảng 177,5 tỷ m3, trong đó lượng nước chủ yếu chứa trong các sông là 176 tỷ m3; được đánh giá là khá dồi dào. Cùng với kết quả thăm dò địa chất cho thấy trữ lượng nước ngầm cũng khá lớn, trung bình 400.000 m3/ngày, tầng chứa nước cách mặt đất trung bình 3–5 m và có bề dày khoảng 40 m, chất lượng nước tốt. Toàn bộ nguồn nước này có thể khai thác để phục vụ chung cho cả sản xuất và sinh hoạt trong toàn tỉnh, trong đó có các hoạt động của đô thị.
Khí hậu
Bắc Ninh nằm trong vùng khí hậu cận nhiệt đới ẩm, chia làm 4 mùa rõ rệt (xuân, hạ, thu, đông). Có sự chênh lệch rõ ràng về nhiệt độ giữa mùa hè nóng ẩm và mùa đông khô lạnh. Sự chênh lệch đạt 15-16 °C. Mùa mưa kéo dài từ tháng năm đến tháng mười hàng năm. Lượng mưa trong mùa này chiếm 80% tổng lượng mưa cả năm. Lượng mưa trung bình hàng năm: 1.400-1.600 mm. Nhiệt độ trung bình: 23,3 °C. Số giờ nắng trong năm: 1.530-1.776 giờ. Độ ẩm tương đối trung bình: 79%.
[ẩn]Dữ liệu khí hậu của Bắc Ninh | |||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Tháng | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | Năm |
Trung bình cao °C (°F) | 19.9 | 20.4 | 23 (73) | 27.4 | 31.8 | 33 (91) | 32.8 | 32.2 | 31.2 | 29 (84) | 25.6 | 22.1 | 27.37 |
Trung bình ngày, °C (°F) | 16.5 | 17.4 | 20 (68) | 24 (75) | 27.7 | 29.2 | 29.2 | 28.8 | 27.7 | 25.2 | 21.6 | 18.5 | 23.82 |
Trung bình thấp, °C (°F) | 13.2 | 14.4 | 17.1 | 20.6 | 23.7 | 24.6 | 25.5 | 25.4 | 24.2 | 21.4 | 17.7 | 14.9 | 20.23 |
Lượng mưa, mm (inches) | 12 (0.47) | 33 (1.3) | 34 (1.34) | 87 (3.43) | 211 (8.31) | 245 (9.65) | 332 (13.07) | 337 (13.27) | 234 (9.21) | 98 (3.86) | 34 (1.34) | 23 (0.91) | 1.680 (66,14) |
Nguồn: climate-data.org[20] |
Tài nguyên, khoáng sản
Tài nguyên rừng của Bắc Ninh không lớn, chủ yếu là rừng trồng. Tổng diện tích đất rừng là 661,26 ha phân bố tập trung ở Quế Võ (317,9 ha) và Tiên Du (254,95 ha). Tổng trữ lượng gỗ ước tính 3.279 m³, trong đó rừng phòng hộ 363 m³, rừng đặc dụng 2916 m³.
Bắc Ninh nghèo về tài nguyên khoáng sản, chủ yếu chỉ có vật liệu xây dựng như: đất sét làm gạch, ngói, gốm, với trữ lượng khoảng 4 triệu tấn ở Quế Võ và Tiên Du, đất sét làm gạch chịu lửa ở thị xã Bắc Ninh, đá cát kết với trữ lượng khoảng 1 triệu tấn ở Thị Cầu - Bắc Ninh, đá sa thạch ở Vũ Ninh - Bắc Ninh có trữ lượng khoảng 300.000 m³. Ngoài ra còn có than bùn ở Yên Phong với trữ lượng 60.000 - 200.000 tấn.
Dân số
Năm 2009, dân số Bắc Ninh là 1.024.472 người, chỉ chiếm 1,21% dân số cả nước và đứng thứ 39/63 tỉnh, thành phố, trong đó nam 502.925 người và nữ 521.547 người; khu vực thành thị 240.987 người, chiếm 23,5% dân số toàn tỉnh và khu vực nông thôn 783.485 người, chiếm 76,5%. Mật độ dân số Bắc Ninh năm 2010 đã lên tới 1,262 người/km², gần gấp 5 lần mật độ dân số bình quân của cả nước và là địa phương có mật độ dân số cao thứ 3 trong số 63 tỉnh, thành phố, chỉ thấp hơn mật độ dân số của Hà Nội và của thành phố Hồ Chí Minh[22][23].
Năm 2011, dân số Bắc Ninh là 1.060.300 người, mật độ dân số 1289 người/km², vẫn là tỉnh có mật độ dân số cao thứ 3 cả nước [24]
Bắc Ninh có một dân số trẻ với nhóm tuổi lao động từ 15 đến 60 là 665.236 người, chiếm 64,93% tổng dân số. Nhóm tuổi dưới 15 có 258.780 người, chiếm 25,26% tổng dân số còn nhóm người trên 60 tuổi có 100.456 người, tức chiếm 9,8%[25]
Thành phần dân tộc
Trên địa bàn tỉnh hiện có 27 dân tộc trên tổng số 54 dân tộc tại Việt Nam sinh sống, trong đó Kinh chiếm tuyệt đại đa số. Dưới đây là 3 dân tộc đông dân nhất là:[25]
Dân tộc | Dân số (người) | Tỉ lệ so với tổng dân số tỉnh | Dân số đô thị (người) | Tỉ lệ so với dân số dân tộc | Dân số nông thôn (người) | Tỉ lệ so với dân số dân tộc |
---|---|---|---|---|---|---|
Kinh | 1.021.061 | 99,67% | 249.305 | 24,42% | 781.276 | 75,58% |
Tày | 1.484 | 0,14% | 540 | 36,39% | 944 | 63,61% |
Nùng | 789 | 0,08% | 253 | 32% | 536 | 68% |
Tôn giáo
Cũng giống như phần lớn các tỉnh khác tại Miền Bắc Việt Nam, Bắc Ninh có đại đa số cư dân "không tôn giáo". Theo thống kê năm 2009, số người theo có tôn giáo tại tỉnh Bắc Ninh là 16.362 người, tức chiếm 1,6% tổng dân số của tỉnh.[25] Hiện nay, Bắc Ninh có 7 tôn giáo hoạt động là Phật giáo, Công giáo, Tin Lành, Hồi giáo, Minh Lý đạo,Phật Giáo Hòa Hảo và Cao Đài. Bắc Ninh có 40 xứ đạo Công giáo hoạt động và tất cả các hoạt động Công giáo ở Bắc Ninh đều do Toà Giám mục Giáo phận Bắc Ninh chỉ đạo.[26]
Tôn giáo | Tín đồ người | Tỉ lệ so với dân số |
---|---|---|
Công giáo | 12.590 | 1,23% |
Phật giáo | 3.744 | 0,37% |
Tin Lành | 17 | - |
Tổng số | 16.362 | 1,6% |
Năm 1997, khi tái lập tỉnh, Bắc Ninh có xuất phát điểm kinh tế thấp với cơ cấu nông nghiệp chiếm 45,1%, dịch vụ 31,1%, công nghiệp-xây dựng 23,8%, thu ngân sách 164 tỷ đồng, GDP đầu người 144 USD/năm; chỉ có bốn doanh nghiệp FDI với tổng vốn đăng ký 117 triệu USD, kết cấu hạ tầng yếu kém, công nghiệp chỉ có các cơ sở sản xuất nhỏ, giá trị sản xuất công nghiệp trên địa bàn đạt 569 tỷ đồng.[27] Sau năm 1997 kinh tế Bắc Ninh đã phát triển mạnh mẽ[6]. Tốc độ tăng trưởng GDP những năm gần đây liên tục nằm trong top dẫn đầu cả nước bất chấp khủng hoảng kinh tế năm 2008-2009 và suy thoái 2011-2012. Giai đoạn 2006-2010 GDP tăng trưởng trung bình 15,3% đáng chú ý có năm 2010 tăng trưởng tới 17.86% là tốc độ tăng trưởng cao nhất từ trước tới nay của tỉnh. Năm 2011, kinh tế Bắc Ninh vẫn đạt 16,2% - là tốc độ tăng trưởng cao nhất cả nước. Năm 2012, GDP Bắc Ninh vẫn tăng trưởng khá, đạt 12,3% nằm trong các tỉnh thành dẫn đầu cả nước.
Năm 2012, tổng sản phẩm trong tỉnh (GDP) đạt trên 13.607 tỷ đồng (đứng thứ 9 toàn quốc và thứ 2 khu vực đồng bằng sông Hồng); cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa: Khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 77,82%; dịch vụ 16,57%; Nông, lâm nghiệp và thủy sản còn 5,61%[28]. Năm 2012, GDP bình quân đầu người đạt 67,4 triệu đồng/năm (tương đương 3.211 USD)[29] và nằm trong top thu nhập bình quân cao nhất cả nước.
Thu ngân sách nhà nước liên tục tăng trưởng ngoạn mục và đưa Bắc Ninh trở thành tỉnh nộp ngân sách lớn thứ 12 cả nước. Năm 2010, Bắc Ninh vào CLB 5000 tỷ và đến năm 2011 con số này là 6800 tỷ, đưa Bắc Ninh lần đầu tiên có khả năng tự cân đối ngân sách và đóng góp vào ngân sách nhà nước. Năm 2012 Bắc Ninh đã đạt tới 9.068,5 tỷ đồng[30] và là một trong số ít tỉnh vượt rất xa dự toán ngân sách TW giao là 6.850 tỷ.
Tỉnh Bắc Ninh hiện tại có hơn 600.000 người trong độ tuổi lao đông nhưng thiếu lao động có trình độ chuyên môn. Nhiều sinh viên tốt nghiệp vẫn phải đào tạo lại, cơ cấu và chất lượng nguồn lao động chưa dịch chuyển theo yêu cầu cơ cấu ngành kinh tế. Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế vẫn chậm, đặc biệt cơ cấu nội ngành công nghiệp, dịch vụ và các sản phẩm chủ lực mũi nhọn.
Công nghiệp
Đây là điểm sáng nhất và là động lực quan trọng nhất trong sự phát triển kinh tế của Bắc Ninh trong những năm vừa qua[6]. Khi tách tỉnh, Bắc Ninh là một tỉnh thuần nông với nền công nghiệp không đáng kể đa phần là làng nghề. Tuy nhiên hết năm 2012, Bắc Ninh là tỉnh có quy mô công nghiệp lớn thứ 5 cả nước, thứ 2 miền Bắc và luôn duy trì tốc độ tăng trưởng cao nhất cả nước trong nhiều năm qua. Năm 2012, giá trị sản xuất công nghiệp đạt 84.884 tỷ đồng (CĐ1994) bằng 60% công nghiệp Bình Dương, là tỉnh có quy mô công nghiệp lớn thứ 2 cả nước. Và nhiều khả năng năm 2013, Công nghiệp Bắc Ninh sẽ gia nhập CLB 100.000 tỷ muộn hơn 3 năm so với Hà Nội, Đồng Nai và Bình Dương.Động lực cho tăng trưởng công nghiệp của Bắc Ninh tập trung ở các doanh nghiệp công nghệ cao như SamSung, Canon, Nokia.
Đầu tư
Năm 2011, Bắc Ninh là tỉnh có chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh đứng thứ 2 ở Việt Nam[31]. Bắc Ninh đã thu hút được hầu hết các dự án công nghệ cao của cả nước như Canon, SamSung, Nokia, ABB...
- Đầu tư trong nước: Quý I/2013, toàn tỉnh đã cấp GCNĐT mới cho 12 dự án đầu tư trên địa bàn toàn tỉnh với tổng vốn đầu tư đăng ký 665 tỷ đồng. Luỹ kế đến nay, toàn tỉnh có 673 dự án đầu tư trong nước được cấp GCNĐT với tổng vốn đầu tư đăng ký sau điều chỉnh là 75.079 tỷ đồng.
- Đầu tư nước ngoài: Quý I/2013, toàn tỉnh đã cấp GCNĐT mới cho 25 dự án FDI với tổng vốn đăng ký đầu tư 80,52 triệu USD; cấp GCNĐT điều chỉnh tăng vốn cho 08 dự án với mức vốn tăng thêm 27,72 triệu USD; tổng vốn đầu tư đăng ký sau điều chỉnh là 108,24 triệu USD; thu hồi 01 dự án đầu tư với tổng vốn đầu tư 30 triệu USD. Luỹ kế đến nay, toàn tỉnh có 390 đơn vị FDI với tổng vốn đầu tư đăng ký sau điều chỉnh là 4,7 tỷ USD[32].
Thương mại - Dịch vụ
Xuất khẩu giai đoạn 2001-2010 tăng trung bình là 47,91%/năm cá biệt giai đoạn 2005-2010 tăng tới 90,92%/năm (trong khi cả nước là 17,43%/năm). Năm 2011, Giá trị xuất khẩu Bắc Ninh đạt 7,441 tỷ USD một con số kỷ lục và vươn lên vị trí số 2 miền Bắc sau Hà Nội. Tuy nhiên đến năm 2012, giá trị xuất khẩu của Bắc Ninh đạt 13,7 tỷ USD đã đưa Bắc Ninh trở thành địa phương xuất khẩu lớn nhất miền Bắc, thứ 2 cả nước sau Thành phố Hồ Chí Minh, xuất khẩu Bắc Ninh chiếm tới 12% giá trị xuất khẩu của cả nước[33]. Quý 1/2013, xuất khẩu đạt 5.123 tỷ USD với tốc độ tăng tới 87,2% so với cùng kỳ năm trước và các thị trường xuất khẩu rộng lớn, trong năm 2013 có thể kỳ vọng đây sẽ là mặt hàng đầu tiên vượt qua mốc 20 tỷ USD, đóng góp quan trọng vào quy mô và tốc độ tăng tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Bắc Ninh xuất siêu 180 triệu USD[34]. Tính đến hết tháng 6 năm 2013, tổng mức bán lẻ hàng hóa ước đạt gần 15 nghìn tỷ đồng, tăng 15,6 % so với cùng kỳ. Đây cũng là mức tăng cao hơn mức bình quân chung của 3 năm gần đây[35].
Sáu tháng đầu năm 2013, các chi nhánh ngân hàng và tổ chức tín dụng trên địa bàn Bắc Ninh đã huy động được 29.783 tỷ đồng, tăng 9,7% so với cuối năm 2012; dư nợ cho vay đạt 30.956 tỷ đồng, tăng 4,9% so với cuối năm 2012 trong đó tập trung cho vay các lĩnh vực ưu tiên như: nông nghiệp - nông thôn, xây dựng nông thôn mới, doanh nghiệp nhỏ và vừa, xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ[36].
Năm 2012, Điện lực Bắc Ninh đạt 2,207 tỷ kWh, tăng 18% so với năm 2011. Trong đó thành phần phụ tải thương nghiệp dịch vụ tăng 32,61%, công nghiệp xây dựng tăng 19,89%, quản lý tiêu dùng tăng 11,04%; tổn thất điện năng giảm 0,57% so với năm 2011[37].
Du lịch
Bắc Ninh hiện có hàng trăm di tích lịch sử văn hóa và được coi là quê hương của đình, chùa, lễ hội và những làn điệu dân ca Quan họ say đắm lòng người. Bề dày lịch sử, văn hóa đã tạo cho Bắc Ninh tiềm năng to lớn phát triển du lịch văn hóa mà không phải địa phương nào cũng có được[38]. Bắc Ninh có 3 khu du lịch là: Khu du lịch văn hoá Quan họ Cổ Mễ (thành phố Bắc Ninh); khu du lịch văn hoá Đền Đầm (thị xã Từ Sơn); khu du lịch văn hoá Phật Tích (huyện Tiên Du). Bên cạnh đó, theo dự kiến sẽ có 3 khu du lịch khác là: Khu du lịch lâm viên Thiên Thai (huyện Gia Bình); khu du lịch văn hoá lịch sử Như Nguyệt (huyện Yên Phong); khu du lịch tâm linh Hàm Long - Núi Dạm (thành phố Bắc Ninh) và lựa chọn 22 điểm di tích quy hoạch phát triển thành điểm du lịch làm động lực cho các tuyến du lịch khép kín, liên hoàn và hấp dẫn trên địa bàn. Trong đó có một số di tích lịch sử - văn hóa tiêu biểu để hình thành các điểm, các tuyến du lịch hấp dẫn như Văn Miếu Bắc Ninh, chùa Phật Tích, lăng Kinh Dương Vương, chùa Dâu, chùa Bút Tháp, đền Đô, đền thờ Lê Văn Thịnh. Ngoài ra, còn có du lịch cộng đồng tại làng gốm Phù Lãng (huyện Quế Võ), làng tương Đình Tổ, khu vực chùa Bút Tháp (huyện Thuận Thành), làng Quan họ Viêm Xá (Thành phố Bắc Ninh)[39].
Bắc Ninh là tỉnh có hệ thống giao thông đa dạng, gồm cả đường bộ, đường sắt và đường sông. Trong đó, hệ thống đường bộ được đánh giá là tương đối đồng bộ so với các tỉnh khác trong cả nước.
Về đường bộ, tỉnh có 3 quốc lộ chạy qua là tuyến Quốc lộ 1A chạy từ Hà Nội lên Lạng Sơn), tuyến Quốc lộ 18 (Nội Bài - Hạ Long - Cảng Cái Lân - Móng Cái) và tuyến Quốc lộ 38 từ thành phố Bắc Ninh đi Hà Nam. Ngoài ra, Quốc lộ 5 nằm liền kề với Bắc Ninh và cao tốc quốc lộ 3 mới Hà Nội - Bắc Ninh - Thái Nguyên đang xây dựng. TL 282 đang được nâng cấp thành Quốc lộ 282 đoạn (Quế Võ - Gia Bình - Thuận Thành thuộc tỉnh Bắc Ninh) nối Quốc lộ 18 (tại Quế Võ) với Quốc lộ 5 (Hà Nội - Hải Phòng) tại Thị trấn Trâu Quỳ - Gia Lâm - Hà Nội (cách cầu vượt Thanh Trì khoảng 2 km). Cùng với quy hoạch vành đai 3, 4 của Hà Nội đều đi qua hầu hết các huyện, thị xã, thành phố của tỉnh Bắc Ninh tạo ra một mạng lưới giao thông đồng bộ, liên hoàn giữa Hà Nội với Bắc Ninh, và giữa Bắc Ninh với các tỉnh lân cận. Trong tỉnh có các tỉnh lộ như 179,276, 280, 281, 283, 285, 287, 291, 295 kết nối các địa phương trong tỉnh với nhau.
Tỉnh Bắc Ninh hiện có nhiều tuyến xe buýt đi tới các tỉnh thành lân cận và tất cả các huyện trong tỉnh:[40]:
Liên tỉnh
Long Biên - Từ Sơn[41]
B Long Biên - Trung Mầu [42](giáp ranh với các xã Tri Phương và Đại Đồng, Tiên Du)
- 54 Long Biên - Bắc Ninh [43](khoảng 30 km nối Trung tâm Hà Nội với Trung tâm Bắc Ninh)
- 52 Công viên Thống Nhất - Lệ Chi[43] (giáp ranh với huyện Thuận Thành)
- 203 Hà Nội - Bắc Ninh - Bắc Giang[43]
- 204 Hà Nội - Thị trấn Hồ (Huyện Thuận Thành)[43]
- Hà Nội (Long Biên)- Gia bình - Lương Tài
- Bắc Ninh - Quế Võ - TX. Chí Linh (Hải Dương)
- 217 Bắc Ninh - Cầu Hồ - TP. Hải Dương[44]
Trong tỉnh
Bắc Ninh - Cầu Hồ - Lương Tài[45]
Bắc Ninh - Sao Đỏ (Hải Dương)[46]
Bắc Ninh - Yên Phong[47].
Bắc Ninh - Cầu Hồ - Kênh Vàng[48]
- Bắc Ninh - Đông Xuyên (Yên Phong) - TX. Từ Sơn[49]
- Đền Đô - Phật Tích - Thị trấn Lim[50]
- Từ Sơn - Thị trấn Chờ - Bến đò Đông Xuyên[49]
Về đường sắt,Bắc Ninh có tuyến đường sắt Hà Nội - Đồng Đăng chạy qua và tuyến đường sắt Hà Nội - Bắc Ninh - Hạ Long (Quảng Ninh) đang được xây dựng.
Về đường thủy, Bắc Ninh có hệ thống sông Cầu, sông Thái Bình và sông Đuống nối ra sông Hồng; các sông nhỏ như sông Ngũ Huyện Khê, sông Dâu, sông Đông Côi, sông Bùi, ngòi Tào Khê (đang được nâng cấp để thoát nước cho thành phố), sông Đồng Khởi, sông Đại Quảng Bình.
Về đường hàng không, Bắc Ninh nằm liền kề với Sân bay Quốc tế Nội Bài. Từ trung tâm Tp.Bắc Ninh đến Sân bay Quốc tế Nội Bài khoảng 30 km được nối bằng QL 18[51].
Giáo dục
Bắc Ninh là "Vùng đất Văn hiến - Vùng đất địa linh nhân kiệt" được mệnh danh là vùng đất khoa bảng với " Một giỏ ông Đồ - Một bồ ông Cống - Một đống ông Nghè - Một bè Tiến sỹ - Một bị Trạng nguyên - Một thuyền Bảng nhãn”. Bắc Ninh là tỉnh có nhiều trạng nguyên nhất Việt Nam: 16 trong tổng số 55 người:
- Lê Văn Thịnh (1075 - Trạng nguyên đầu tiên trong lịch sử phong kiến Việt Nam[53]
- Nguyễn Quan Quang (1234)
- Lý Đạo Tái (1272) - Tổ thứ ba (Huyền Quang) của thiền phái Trúc Lâm Yên Tử
- Lưu Thúc Kiệm (1400)
- Nguyễn Nghiêu Tư (1448) - Trạng Lợn, Lưỡng quốc trạng nguyên.
- Vũ Kiệt (1472)
- Nguyễn Quang Bật (1484)
- Nghiêm Hoản (1496)
- Nguyễn Giản Thanh (1508) - Trạng Me
- Ngô Miễn Thiệu (1518)
- Hoàng Văn Tán (1523)
- Nguyễn Lượng Thái (1553)
- Phạm Quang Tiến (1565)
- Vũ Giới (1577)
- Nguyễn Xuân Chính (1637)
- Nguyễn Đăng Đạo (1683) - Trạng Bịu, Lưỡng quốc Trạng nguyên
Riêng Bảng nhãn, thám hoa, tiến sỹ có rất nhiều. Đặc biệt Làng Kim Đôi riêng họ Nguyễn đã có 18 vị (Theo Trạng nguyên, Bảng nhãn, thám hoa Việt Nam).
Đại học - Cao đẳng - THCN
Tỉnh Bắc Ninh đã và đang quy hoạch 3 làng Đại học với Làng Đại học I có diện tích khoảng 200 ha tại Võ Cường (thành phố Bắc Ninh) và xã Liên Bão (Tiên Du), Làng Đại học II quy hoạch theo hướng “Công viên các trường Đại học” với diện tích tổng thể khoảng 1.300 ha tại các phường Hạp Lĩnh (TP. Bắc Ninh), xã Lạc Vệ, Việt Đoàn, Minh Đạo, Tân Chi (Tiên Du). Hiện tỉnh Bắc Ninh đang xúc tiến quy hoạch và lập dự án đầu tư khu Làng Đại học III quy mô 1000 ha[54].
Trung học phổ thông
Năm 2008, toàn tỉnh có 18.293 học sinh tốt nghiệp Trung học phổ thông, thì có 19.380 lượt học sinh dự thi ĐH, với tổng điểm bình quân 3 môn thi ĐH là 12,85. Bắc Ninh xếp thứ 6 toàn quốc về tổng điểm bình quân 3 môn thi[55]
- Văn hóa xã hội
- Bắc Ninh có một nền văn hoá nhân văn đặc sắc, một vùng quê văn hiến có nhiều di tích lịch sử văn hoá, lễ hội dân gian, làng nghề truyền thống. Những dấu ấn lịch sử sống động truyền thống văn hoá Việt Nam, đậm đà bản sắc Kinh Bắc, được kết tinh trong những di sản văn hoá, các lễ hội dân gian. Bắc Ninh là địa phương thứ 3 xây dựng văn miếu có tầm cỡ, qui mô, trang trọng. Văn miếu Bắc Ninh nổi tiếng với 677 vị đại khoa, chiếm 1/3 tổng số vị đại khoa của cả nước đã được vinh danh[56]. Văn miếu Bắc Ninh với những trang lịch sử văn hóa, giáo dục còn lưu giữ được cho đến ngày nay là những cứ liệu vô cùng giá trị của nền văn minh ở vùng Kinh Bắc, nơi có Luy Lâu cổ, nơi Sỹ Nhiếp lần đầu dạy người Việt học chữ.Chùa Dâu, Chùa Phật Tích là những nơi phát tích của Phật giáo Việt Nam, Chùa Dận. Bắc Ninh nổi tiếng với các làn điệu quan họ, các làng nghề như làng tranh Đông Hồ, làng gốm Phù Lãng, gỗ mỹ nghệ Đồng Kỵ, rèn sắt Đa Hội, đúc đồng Đại Bái, dệt Hồi Quan. Các di tích lịch sử đáng kể cóđền Đô - thờ tám vị vua triều Lý, đền Phụ Quốc, đình làng Đình Bảng, đình Tam Tảo v.v. Bắc Ninh có nhiều đặc sản Bắc Ninh như bánh phu thê Đình Bảng, bánh tẻ làng Chờ, bánh khúc làng Diềm, bánh đúc Đình Tổ, nem Bùi (bùi xá), rượu nếp làng Cẩm,[57], cháo cá Bắc Ninh[58], tương Đình Tổ, bánh tro, bánh gai tươi, bánh gio Phủ Từ. Con người Bắc Ninh mang trong mình truyền thống văn hoá, hiếu khách, cần cù và sáng tạo, với những bàn tay khéo léo mang đậm nét dân gian của vùng trăm nghề như tơ tằm, gốm sứ, đúc đồng, trạm bạc, khắc gỗ, làm giấy, tranh vẽ dân gian.
Lễ hội
Hàng năm, trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh diễn ra hơn 300 lễ hội lớn nhỏ khác nhau. Một số lễ hội tiêu biểu được liệt kê dưới đây (Theo âm lịch):- Lễ hội Lim (thị trấn Lim, huyện Tiên Du) được tổ chức vào 13 - 15 tháng giêng.
- Lễ hội làng Tam Tảo, xã Phú Lâm, huyện Tiên Du; được tổ chức vào mồng 10 tháng 02 hàng năm.
- Lễ hội làng Kim Chân (làng Tiến sỹ). Được tổ chức vào ngày 26 đến 28 tháng 2.
- Lễ hội Đền Đô (Đình Bảng, thị xã Từ Sơn) để kỷ niệm ngày đăng quang của vua Lý Thái Tổ - 15 tháng 3 năm Canh Tuất 1010, và tưởng niệm các vị vua nhà Lý.
- Lễ hội Phù Đổng (của bốn xã trong đó có xã Phù Đổng huyện Tiên Du) ngày 9- tháng 4 để kỷ niệm vị anh hùng dân tộc Phù Đổng Thiên Vương.
- Lễ hội Thập Đình (của mười làng thuộc hai huyện Quế Võ và Gia Bình) để kỷ niệm trạng nguyên đầu tiên của Việt Nam tức Thái sư Lê Văn Thịnh và Doãn Công (Cao Doãn Công).
- Lễ hội Cao Lỗ Vương ngày 10 - tháng 3 ở làng Tiểu Than(làng Dựng) xã Vạn Ninh và làng Đại Than (làng Lớ) ở xã Cao Đức, huyện Gia
Bình[59].- Có câu[60]:
- Mùng bảy hội Khám, mùng tám hội Dâu
- Mùng chín đâu đâu cũng về hội Gióng
- Lễ hội làng Diềm - Từ ngày mồng 5 đến ngày mồng 7 tháng 2 âm lich hằng năm - Tại làng Viêm Xá (còn gọi là làng Diềm), thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh.
Di tích, di sản văn hóa
Bắc Ninh có 1.259 di tích lịch sử văn hoá, trong đó có 495 di tích được nhà nước công nhận xếp hạng (trong đó có 194 di tích xếp hạng cấp Quốc gia, 301 di tích xếp hạng cấp tỉnh)[61].[62] Quan họ Bắc Ninh[63] đã được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hiệp Quốc xếp vào Kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể nhân loại[64]Làng nghề truyền thống
Bắc Ninh từ lâu đã nổi tiếng cả nước với nhiều làng nghề truyền thống có tuổi đời hàng trăm năm, làm ra những sản phẩm thủ công tinh xảo, độc đáo[65]. Hiện nay, Bắc Ninh có 62 làng nghề, chủ yếu trong các lĩnh vực như đồ gỗ mỹ nghệ xuất khẩu, sản xuất giấy, gốm, sắt, thép tái chế, đúc đồng. Các làng nghề đã góp phần rất lớn trong việc giải quyết công ăn việc làm cho nhân dân trong tỉnh (trên 72.000 lao động thường xuyên và trên 10.000 lao động thời vụ)[66].Môi trường
Ô nhiễm môi trường làng nghề ở Bắc Ninh đang ở mức độ nghiêm trọng đặc biệt ở 4 làng nghề trọng điểm là giấy Phong Khê, sắt thép Đa Hội, nhôm Văn Môn, đồng Đại Bái[67].Ngoài ra, một số công ty trong các khu công nghiệp cũng gây ô nhiễm như công ty Kingmo New Materials (Khu công nghiệp Tiên Sơn)[68]. Ô nhiễm đang ảnh hưởng lớn tới tới đời sống, sức khỏe của người dân và công nhân.mong các bạn đọc và cảm nhận
Nguồn: Wiki
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét