Thứ Hai, 7 tháng 11, 2011

Việt Nam khai quốc - the birth of Vietnam (8)

Việt Nam khai quốc - the birth of Vietnam (8)
Việt Nam khai quốc: kiểm tra dân số (chương 5, phần 2)
Trong thời kỳ đô hộ An Nam Đô Hộ Phủ, nhà Đường đã tiến hành kiểm tra dân số tất cả 5 lần với các con số được lưu lại trong thư tịch theo Bảng 5. Theo bảng thống kê dân số này thì số dân kiểm tra lần đầu tiên là theo “số liệu cũ”, có lẽ vào khoảng đầu thế kỷ 8. Lần kiểm tra dân số thứ nhì, vào thời Khai Nguyên (713-741) có thể được thực hiện vào năm 726. Thống kê dân số cho năm 740 và chỉ hai năm sau đó, nhân dịp Trung Quốc lấy niên hiệu mới vào năm 742, thì chẳng khác nhau với một chỗ sai biệt rõ ràng là do “tam sao thất bổn”.
Lần kiểm tra dân số An Nam Đô Hộ Phủ cuối cùng của nhà Đường là vào năm 807. Trong lần kiểm tra này dân số châu Hoan và châu Ái đã giảm xuống rõ rệt vì hậu quả chiến tranh trong các năm 803-809 với Hoàn Vương (Lâm Ấp). Phần nữa, vì được tách thành một châu riêng, nên Châu Diên đã chia bớt dân số của châu Hoan.

Bảng 5. THỐNG KÊ DÂN SỐ TẠI AN NAM ĐÔ HỘ PHỦ THỜI NHÀ ĐƯỜNG
Năm
Số Liệu Cũ
726
740
742
807
Châu
Nhân Khẩu
Hộ
Hộ
Hộ
Nhân Khẩu
Hộ
Nhân Khẩu
Hộ
Giao
88.788
17.523
25.690
24.730
99.660
24.230
99.652
27.135
Phong
6.435
5.444*
3.561*
1.920
5.119
1.920
…….
1.483
Ái
36.519
9.08
14.056
40.700*
135.030*
14.700
…….
5.379
Hoan
16.689
6.579
6.649
9.629
53.818
9.619
50.818
3.843
Lục
…….
…….
1.934*
490
2.710
494
2.674
231
Trường
…….
…….

630
3.040
…….
…….
648
Diên



(gộp trong châu Hoan)



1.450
Phúc Lộc
…….
…….
…….
…….
…….
…….
…….
317

Tổng Cộng

148.431



40.963

40.486


















* Rõ ràng là con số nhầm lẫn
Tài liệu: Cựu Đường Thư 41, 42b-46b; Tân Đường Thư 43a, 9b-11a
Nguyên Hoà Quận Huyện Chí, Thượng Hải, 1935-37
Thông Điển 174, 50a – 51a Thượng Hải 1902
Thái Bình Hoàn Vũ Chí. 171, 11b, Taipei 1963
Từ những ô bỏ trống và những con số sai biệt rõ ràng trong Bảng 6 chúng ta chỉ có thể so sánh dân số trong “số liệu cũ” với dân số năm 742 đối với châu Giao và châu Hoan, 2 châu duy nhất có số thống kê đầy đủ. Qua so sánh cho thấy sự gia tăng bất bình thường về số dân đăng ký vào thế kỷ 8. Không giống những thời kỳ ổn định trước đời Đường, việc di cư của người Trung Quốc vào Việt Nam đã tạo ra những thay đổi cơ bản đối với một vài khu vực trong xã hội Việt Nam. Ảnh hưởng của những người di cư đến Giao Châu được thấy rõ qua số hộ dân đã tăng lên 3 lần mau hơn số dân, nghĩa là số nhân khẩu bình quân trong mỗi hộ đã giảm đáng kể.
Ngược lại phần châu Hoan thuộc phía nam của An Nam Đô Hộ Phủ thì số dân tăng 4 lần mau hơn số hộ nghĩa là số nhân khẩu bình quân trong mỗi hộ đã tăng quá gấp đôi. Nguyên nhân của sự khác biệt giữa châu Giao và châu Hoan trong vấn đề dân số là vì dân chúng di cư đến châu Hoan từ nhiều vùng khác nhau, trong khi phần lớn người di cư đến châu Giao là từ Trung Quốc như đã trình bày ở trên.
Di dân Trung Quốc nhập cư Việt Nam với tư cách cá nhân hay từng hộ nhỏ. Phần lớn họ là binh sĩ hay thương nhân Trung Quốc di cư đến Việt Nam, lập gia đình với phụ nữ địa phương, rồi quyết định ở lại đó. Cũng có một số khá đông là những người bị Trung Quốc lưu đầy nên thường chỉ đến một mình hoặc với một vài người trong gia đình. Ngoài ra, lại có một số quan chức ở lâu, thích cảnh vật và quyết định ở lại. Các loại người di cư này đã khiến số nhân khẩu bình quân trong mỗi hộ dân ở Giao Châu đi xuống. Ngược lại, ở châu Hoan, do người di cư đến thành từng nhóm đông với họ hàng thân thuộc, phe phái, thị tộc nên số nhân khẩu trung bình trong mỗi hộ đi lên. Nói vắn tắt, những người từ Trung Quốc di cư làm thay đổi xã hội Việt Nam ở phía Bắc và những người di cư từ nhiều nơi khác làm thay đổi xã hội Việt Nam ở phía Nam.
Thế kỷ thứ 8 là thời kỳ có rất nhiều bất ổn đặc biệt ở vùng biên giới phía nam. Năm 722, như sẽ được trình bày chi tiết sau, có một lãnh đạo địa phương ở châu Hoan đã tập hợp được một đạo quân lớn gồm đủ mọi sắc dân và tạm thời đuổi được nhà Đường ra khỏi An Nam Đô Hộ Phủ. Đạo quân gồm đủ mọi sắc dân này đến từ nhiều vùng ở Đông Nam Á theo sau một loạt các cuộc di cư mà đến nay các nhà sử học vẫn chưa tìm hiểu được rõ lý do và nguồn gốc của họ.
Đầu năm 758, tài liệu của Trung Quốc có nhắc đến danh hiệu Hoàn Vương thay vì Lâm Ấp và năm 877 lại nói đến Chiêm Thành hay Champapura. Thời Hoàn Vương, vương quốc Chàm nằm phụ cận Nha Trang và Phan Rang bây giờ, và ở quá phía Nam Lâm Ấp. Đầu năm 875, lại có một triều đại mới khác xuất hiện ở vùng phụ cận Đà Nẵng ngày nay. Các mối bất ổn và nổi dậy như thế ở phía Nam đã tạo ra sự thay đổi mạnh mẽ về dân số ở châu Hoan vì nhiều phe phái và các thị tộc sau khi vượt qua biên giới vào năm 722 có lẽ đã ở lại và định cư ở châu Hoan. Khi vương quốc Chàm mở rộng về phía Nam, rồi lại ngược bờ biển tiến lên phía bắc thì nhiều nhóm dân chắc chắn đã trú ngụ lại châu Hoan nơi đang chịu ách đô hộ của nhà Đường. Cũng sau biến cố năm 722 rất có thể đã có nhiều binh sĩ nhà Đường quyết định ở lại Giao Châu như được thấy trong bản thống kê dân số.
Khi so sánh bảng 4 với bảng 5, ta thấy số dân được kiểm tra của nhà Tùy phần nào cao hơn nhà Đường. Có thể một phần là vì những phương pháp tính toán khác nhau nhưng lý do cơ bản là nhà Tùy đã chiếm được Việt Nam mà không phải đánh một trận nào và kiểm soát ngay được một xã hội đã và đang phát triển một cách tự chủ trên một nửa thế kỷ rồi. Mặc dù nhà Tùy sau này phải đương đầu với những làn sóng nổi dậy mạnh mẽ ở Việt Nam đến nỗi phải sai Khâu Hoà xuống bình trị nhưng cần hiểu rằng những con số thống kê này nhà Tùy đã thu thập trước khi những rối loạn đó có thể gây ra những tác động về dân số.
Bảng 6. So Sánh Kiểm Tra Dân Số từ “Số Liệu Cũ” và Kiểm Tra Năm 742 tại Châu Giao và Châu Hoan
Châu
% Gia Tăng Số Dân và Số Hộ
Số nhân khẩu tính bình quân trên mỗi hộ dân
Nhân khẩu bình quân tăng/giảm trên mỗi hộ dân


Số Dân
Số Hộ
“Số liệu cũ”
742

Giao
38%
12%
5,1
4,1
-1
Hoan
46%
204%
2,5
5,3
+2,8
Kiểm tra dân số của nhà Đường lại có từ sau khi những vụ nổi loạn lớn, năm 687 và 722; sau một thời kỳ hỗn loạn và hầu như độc lập của Việt Nam vào cuối thế kỷ 8. Chúng ta có thể nghĩ rằng những con số kiểm tra dân số thấp của nhà Đường phản ánh ảnh hưởng của các cuộc bạo động chính trị đối với dân số.
Rập khuôn các bắc triều trước đó, những con số thống kê về dân số của nhà Đường tại Việt Nam chỉ bao gồm phần dân chúng mà họ kiểm soát được. Trong một thế kỷ rưỡi đầu tiên khi nhà Đường đô hộ Việt Nam, thì chỉ có 3 trong số 6 loại người phải đóng thuế được gồm trong bản kiểm tra. Do đó không thể biết chính xác bao nhiêu phần trăm số dân trong bản kiểm tra tính trên tổng số dân thực sự mà chỉ ước chừng vào khoảng từ 10% đến 30% của tổng số dân thực sự sinh sống tại An Nam Đô Hộ Phủ mà thôi.
Các hồ sơ của nhà Đường thì cho rằng Giao Châu chiếm phân nửa tổng số dân đăng ký trong toàn An Nam Đô Hộ Phủ. So sánh với kiểm tra dân số cũ, Giao Châu chiếm 64,2% tổng số dân đăng ký; năm 742 chiếm 47,5% tổng số hộ dân đăng ký. Đến năm 807, con số này đã tăng lên 67%, mặc dù số tăng này có thể do một phần những chiến cuộc ở Ái và Hoan. Trong tất cả các châu thuộc An Nam Đô Hộ Phủ, bốn châu Giao, Phong, Ái và Hoan chiếm gần như toàn bộ số dân đăng ký thì đều ở vùng đất thấp, gồm những cộng đồng nông nghiệp đã định cư. Số kiểm tra ở các châu khác có thể tiêu biểu cho những khu canh tác khác trong vùng núi hay vùng đất duyên hải nơi mà cuộc sống nay đây mai đó rất khó kiểm soát. Tất cả những điều kể trên dường như xác nhận ý kiến cho rằng đời sống kinh tế và xã hội của Đô Hộ Phủ không dựa vào buôn bán, mà căn bản hơn là vào tầng lớp dân chúng chính thức làm nông nghiệp theo thời vụ.
Cũng cần nói thêm rằng số dân đăng ký trong các bảng kiểm tra dân số ấy không thể phản ánh toàn cảnh xã hội Việt Nam vì chưa tính đến một số khá lớn người Việt tìm đến sống ở những vùng cao hay những khu xa xôi ở ven vùng đất thấp, nơi áp lực của bắc triều không đủ mạnh. Tổ tiên của người Mường sống ở các vùng đất cao giữa sông Hồng và sông Cả không chịu ảnh hưởng văn hoá, ngôn ngữ của nhà Đường như những đồng bào của họ ở vùng đất thấp. Hơn nữa họ cũng chẳng bao giờ được tính đến trong bất cứ một cuộc kiểm tra dân số nào của nhà Đường cả.
Khi so sánh số dân được kiểm tra trong thời gian Việt Nam bị đô hộ từ thời nhà Hán đến nhà Đường, ta sẽ lần ra đầu mối để tìm hiểu gốc gác của người Mường. Thống kê dân số thời nhà Hán sai biệt quá nhiều so với những thế kỷ đô hộ về sau. Thí dụ như cuộc kiểm tra thực hiện năm 2 SCN thời Hán cho thấy có tới 950.000 người Việt Nam, trong khi theo nhà Đường thì dân số lại chưa đến 150.000, nghĩa là dân số hơn 8 thế kỷ sau mà lại giảm đi hơn 80%! Cũng không thể cho rằng thống kê của nhà Hán đã được thổi phồng lên vì các quan chức phải nộp cuống biên lai thu thuế bằng với số dân đã kiểm tra trong địa hạt do đó họ thường báo cáo số dân ít hơn số dân thực sự chứ không đời nào lại báo nhiều hơn để bị khép vào tội lấy thuế dân làm của riêng.
Có một số ý kiến cho rằng dân số Trung Quốc nói chung sụt giảm nhiều từ thời Hán đến thời Đường là hậu quả của các cuộc nổi loạn và chiến tranh thời Hán và cả sau khi nhà Hán lụi tàn. Nhưng điều giải thích cơ bản hơn là việc có thêm nhiều đại gia đình địa chủ khiến những nông dân trước kia từng được đăng ký độc lập như một cá thể nay trở thành tá điền hay “nông nô” nên không còn được tính trong số dân phải nộp thuế nữa.
Riêng tại Việt Nam, vì hậu quả hoặc nhân cơ hội những cuộc binh biến giữa Lâm Ấp và các địa hạt của Việt Nam thời bị trị, nhiều người Việt đã chạy trốn xuống Lâm Ấp để tránh sự cai trị hà khắc của Trung Quốc hoặc đến định cư tại những vùng núi cao tại Việt Nam nơi mà sự cai trị của Trung Quốc lỏng lẻo hơn nhờ địa lý hiểm trở ít quan lại lui tới hay các điều kiện xã hội, kinh tế ở đó. Điều này cắt nghĩa gốc gác của người Mường, một sắc tộc sống ở vùng cao nguyên nam sông Hồng và có ngôn ngữ và văn hoá rất giống với người Việt Nam. Các học giả Việt Nam ngày nay tin rằng ngôn ngữ Mường và Việt chỉ bắt đầu phân nhánh khi họ bị nhà Đường đô hộ hoặc sau khi Việt Nam không còn chịu ách đô hộ của Trung Quốc nữa. Trước đó các giao lưu văn hóa giữa đồng bằng và các vùng núi ở Việt Nam rất dễ dàng theo kiểu xã hội bộ lạc và không có những khuôn mẫu trí tuệ định chế theo kiểu Trung Quốc dưới các triều đại Việt Nam trong thời kỳ độc lập sau này.
Dân số Mường gia tăng trong thời nhà Đường đô hộ đã giải thích tại sao lại có sự giảm bớt số dân tại An Nam Đô Hộ Phủ trong bảng kiểm tra dân số so với thời nhà Hán đô hộ vì những người sống trong vùng cao nguyên chẳng mấy khi chịu đăng ký hộ khẩu. Người Tày và người Nùng ở các vùng núi phía bắc Việt Nam, gần biên giới Trung Quốc cũng đóng vai trò quan trọng trong lịch sử Việt Nam thời thượng cổ. Chưa kể đến người các người Việt thiểu số như Mon Khmer, người Malai Pôlinisi và một số rất lớn dân chúng sống nổi trôi dưới vùng đồng bằng, ngoài các con đê, sống bằng nghề biển hay hàng hải ngoài biển xa nơi mà việc kiểm soát trực tiếp của nhà Đường chẳng bao giờ đến được.
Việc đô hộ và thu thuế của Trung Quốc tại Việt Nam lấy trọng tâm là tầng lớp nông dân định cư ở các vùng đất thấp. Tuy phải đăng ký và chịu sưu cao thuế nặng cho các quan lại Trung Quốc, người Việt Nam vẫn luôn gìn giữ bản sắc của họ. Họ không bao giờ đánh mất ngôn ngữ và vẫn diễn tả những cảm xúc hay tư tưởng của họ một cách rõ rệt. Họ không bao giờ mất lòng tin ở quá khứ và luôn trân trọng các di sản văn hóa. Bằng cách bảo tồn di sản ấy, họ đã để lại dấu ấn của họ, không những qua các con số trong các bảng kiểm tra dân số còn lưu lại đến nay mà cả trong thực tế kế thừa của một nước Việt Nam độc lập.
Các thống kê dân số từ thời Hán đến thời Đường tại các vùng bị trị Quảng Đông, Quảng Tây, và Việt Nam ngày nay cho thấy rằng, so với Việt Nam, khu vực Quảng Đông, Quảng Tây đã có nhiều thay đổi về dân số do dân nhập cư từ Trung Quốc. Kiểm tra dân số vào năm 2 SCN thời nhà Hán đô hộ cho thấy 67% các hộ dân đăng ký ở ba vùng ấy là người Việt Nam nhưng đến thời Đường theo “số liệu thống kê cũ” thì con số này đã giảm xuống chỉ còn 13%. Nếu tính theo số hộ dân thì thống kê vào năm 2 SCN cho thấy có 71.805 hộ ở Lưỡng Quảng và sau đó tăng lên 274.696 hộ theo “số liệu cũ” thời Đường, tức là gia tăng gần 400%. Ngược lại, số hộ dân đăng ký ở các vùng thuộc Việt Nam ngày nay là 143.643 trong kỳ thống kê năm 2 SCN và xuống còn chưa đến 40.000 hộ theo “số liệu cũ” đời Đường.
Những thống kê này cho thấy rằng khuôn mẫu di cư vào các vùng thuộc Việt Nam ngày nay rất khác biệt với những gì xảy ra ở Lưỡng Quảng. Điều này cũng chứng tỏ sự đối kháng mạnh mẽ của dân chúng tại những vùng thuộc Việt Nam ngày nay đối với ách thống trị của Trung Quốc đối với việc đăng ký dân số và thu thuế. Áp lực thống trị của Trung Quốc bị giảm thiểu ấy có lẽ bắt nguồn từ những gia đình địa phương có thế lực cũng như thế phòng thủ đầy ngõ ngách của miền biên giới cao nguyên Việt Nam.
Việt Nam khai quốc: NHỮNG NGƯỜI ĐI HÀNH HƯƠNG VÀ NHỮNG THƯƠNG NHÂN (chương 5, phần 3)
Trong thế kỷ 7 và đầu thế kỷ 8, vì đế quốc Đường củng cố được sự cai trị trên phần lớn châu Á Châu khiến nhiều Phật tử ở Đông Á có dịp đi hành hương đất Phật ở Ấn Độ và Tích Lan. An Nam Đô Hộ Phủ là địa điểm quan trọng vì các chuyến hành hương bằng đường biển xuất phát từ đây theo. Các Phật tử Việt Nam cũng nhân cơ hội này tham dự các chuyến hành hương cho thoả lòng mong ước.
Các thông tin về vài chuyến hành hương như vậy của Trung Quốc vào thời đó còn được lưu giữ đến ngày nay. Minh Viễn, quê ở Tứ Xuyên, đã xuống tàu từ An Nam Đô Hộ Phủ. Đến Java thì nghỉ chân, rồi thẳng tới Tích Lan và Ấn Độ. Một người khác, quê ở Hồ Bắc là Vô Hành, cũng đã xuống tàu ở An Nam Đô Hộ Phủ để đi Ấn Độ; trên đường ông dừng chân ở Sumatra và trở thành bạn đồng hành của một người có tên tuổi là Nghiã Tịnh (635-713). Lại có một khách hành hương nữa ở Hồ Bắc tên là Huệ Minh, nhưng ông này không may mắn bị gặp bão ngoài khơi Lâm Ấp và phải quay về Trung Quốc qua đường An Nam.
Phần đông người Trung Quốc đi hành hương Ấn Độ chỉ ghé qua An Nam như một trạm dừng chân, có những người đã ở lại An Nam khá lâu và góp sức vào các hoạt động Phật Giáo ở đây. Trí Hoằng, người Lạc Dương, đã ở lại An Nam một năm trời trước khi tiếp tục lên đường đi Ấn Độ qua ngả Sumatra. Đàm Nhuận, cũng người Lạc Dương, đã tá túc ở An Nam để tránh một đợt gió mùa và được dân địa phương rất quý trọng vì tính tình thẳng thắn của ông. Khi ông tiếp tục cuộc hành hương sang Ấn Độ thì có một người Giao Chỉ là Văn Ký đi theo.
Nhưng không may Đàm Nhuận chết ở dọc đường, tại một nơi gần đảo Java, còn Văn Kỳ quyết định ở lại. Trong thời gian ở đó Văn Kỳ đã đọc thông viết thạo tiếng Phạn và tiếng Mã Lai (K’un Lun). Về sau, một người Trung Quốc hành hương khác là Hội Ninh ở Java và một nhà sư ở Java tên Jnanabhadra cũng dịch một ít kinh Phật sang tiếng Trung Quốc và Văn Kỳ được giao nhiệm vụ đem những bản dịch ấy về Trung Quốc.
Về lại Giao Chỉ khoảng những năm 670, Văn Kỳ đi thẳng lên kinh đô để trình những bộ kinh Phật đã được dịch lên vua Đường. Trên đường sang Java một lần nữa để chuyển lại thông điệp của triều đình nhà Đường cảm ơn các dịch giả, Văn Ký đã nán lại An Nam Đô Hộ Phủ để thuyết pháp trong cộng đồng Phật Giáo và trong dân chúng địa phương nên khi đến Java thì Huệ Ninh đã khởi hành đi Ấn Độ rồi thế là Văn Kỳ đành ở lại Sumatra.
Cũng vào cuối thế kỷ 7, một người quê quán ở Trung Á tên là Sanghavarma đã hành hương sang tận Ấn Độ và sau đó được triều Đường phái xuống Giao Châu để làm thuốc. Vì những hoạt động từ thiện nhân một nạn đói ở đó khiến Sanghavarma được dân chúng tôn thờ và coi như một vị Bồ Tát.
Gương đức hạnh và lòng sùng đạo của những người đi hành hương từ Trung Quốc đã được nhiều Phật Tử Việt Nam noi theo. Một người quê ở Giao Châu là Mộc Xoa Đề cũng đi theo con đường ấy qua các đảo ở Nam Á để tới Ấn Độ. Khuy Sung, một người hành hương nữa cũng ở Giao Châu, đi theo Minh Viễn tới Java, Tích Lan rồi đến Ấn Độ. Người thứ ba, cũng quê ở Giao Châu, là Huệ Diễm, theo sư phụ của ông đến Tích Lan. Một người ở châu Ái là Trí Hạnh, đi qua các vùng đảo ở phía nam biển Đông để tới Ấn Độ. Đại Thắng Đặng cũng từ Ái Châu đi Thái Lan lúc còn niên thiếu và sau đó đã sống ở kinh đô Đường trước khi theo con đường hành hương qua các đảo ở Nam Hải và Tích Lan để đến Ấn Độ, nơi đó, ông gặp và kết bạn với Nghĩa Tịnh.
Những người hành hương theo chân các thương nhân xuống tàu sang Java và Ấn Độ từ các cảng ở An Nam Đô Hộ Phủ. Không thể có một kỷ nguyên mà các chuyến hành hương lại dễ dàng và tấp nập như thế nếu không có một nền giao thương hàng hải quốc tế sinh động, vì những người hành hương chỉ việc đi theo các hải lộ của các thương thuyền. Xét về mặt tôn giáo đây là thời kỳ hành hương tấp nập nhưng phải hiểu rằng đó là nhờ giao thương hàng hải đã phát triển trên quy mô rộng rãi.
Một lần nữa, người đọc hiểu rằng người Việt Nam đã gắn kết chặt chẽ với thế giới biển ở Đông Nam Á như thế nào. Ranh giới văn hoá giữa Ấn Độ và Trung Quốc đã được cải thiện nhờ di sản chung là Phật Giáo, nhất là trong thời đại thế giới chủ nghĩa của nhà Đường. Những Phật tử Trung Quốc và Việt Nam du hành đến những tiểu quốc trên các đảo ở Đông Nam Á để trau dồi tiếng Phạn trước khi đặt chân lên đất Phật. Những chiếc tàu chở đầy hàng hoá mà họ tháp tùng là do những thương nhân làm chủ.
Thời đại của những người đi hành hương và thương nhân đã là một chủ đề nổi bật của lịch sử vùng Đông Nam Á mà trong đó có Việt Nam: chủ đề về giao thương và tiếp xúc hàng hải luôn được coi là nguồn gốc của nền văn minh.
 NHỮNG NGƯỜI BỊ LƯU ĐẦY
Tuy nhiên, ở miền Nam những tiếp xúc chặt chẽ nhất vẫn là từ phương Bắc với làn sóng các binh sĩ, quan lại, hoàng thân và cả những quan chức bị lưu đầy từ phương Bắc tiếp tục kéo xuống miền Nam. Một trong những đô đốc đầu tiên của Giao Châu là một người trong hoàng tộc nhà Đường tên là Lý Thọ. Đường Thái Tôn lên ngôi năm 627 với nhiều cải cách khiến Lý Thọ bị sa thải về tội tham nhũng. Sau đó Đường Thái Tôn cho đòi Lữ Tổ Thượng, một quan chức có tài và có danh tiếng đến và bảo: “Giao Châu là một vùng biên giới rộng lớn, cần phải có quan chức tốt trông coi nhưng cho đến bây giờ chưa có một đô đốc nào làm đầy đủ nhiệm vụ cả. Xét thấy ngươi có khả năng, vậy hãy đi và phòng thủ Giao Châu cho trẫm. Không được viện lẽ xa xôi mà từ chối.”
Lữ Tổ Thượng vâng vâng dạ dạ nhưng về sau lại viện cớ bịnh hoạn và chẳng chịu đi xuống miền Nam nhậm chức mới. Sau nhiều lần sai sứ giả đến giục ông lên đường nhưng không được, Đường Thái Tôn sai chính anh rể của Lữ Tổ Thượng đến để phân giải cho ông nghe. Sau khi nghe anh rể nói hết lời về danh dự và bổn phận, Lữ Tổ Thượng trả lời: “… miền Nam có nhiều bệnh sốt rét hoành hành; nếu đệ đi đến đó thì sẽ chẳng có ngày về.”
Thái độ ngoan cố của Tổ Thượng khiến Đường Thái Tôn nổi giận và thét đao phủ đem ông ra chém đầu vì tội bất tuân. Việc này cho thấy sự lựa chọn giữa nhát chém của đao phủ và khả năng mất mạng khi vướng phải sơn lam chướng khí dẫn đến việc nhiều quan chức bị giáng cấp và lưu đầy biệt xứ đã trở thành một phương cách để bố trí các quan lại nhà Đường xuống miền Nam làm việc. Ví dụ như năm 635, Lý Đạo Hưng, một người trong hoàng tộc nhà Đường bị đổi xuống làm Đô Đốc Giao Châu như một cách trừng phạt về một tội phạm không được ghi vào hồ sơ; và ông này đã chết vì bịnh hoạn trong vòng chưa tới một năm sau khi nhận nhiệm sở.
Danh sách những người Trung Quốc bị lưu đày xuống Nam rất dài và gồm nhiều người có tên tuổi như Đỗ Chính Luân đã được Đường Thái Tôn bổ làm phụ tá cho Hoàng Thái Tử; nhưng khi Thái Tử âm mưu cướp ngôi vua năm 643 thì Đỗ Chính Luân bị giáng chức xuống làm Đô Đốc Giao Châu.
Tương tự như thế, sau âm mưu phản nghịch của Phòng Di Ái năm 652 bị bại lộ lại có thêm những kẻ bị lưu đày mới. Anh của Văn Bi và em của Sài Triết Uy vì can dự vào âm mưu này nên cả hai đều bị nghi ngờ và bị đày xuống miền Nam. Về sau, Triết Uy được vua khoan hồng với cơ hội chuộc tội là chịu đi làm Đô Đốc Giao Châu.
Sau năm 655, Lý Nghĩa Phủ, một quan đại thần có thế lực trong triều và Đỗ Chính Luân được phục hồi chức vị dưới sự bảo trợ của Võ Hoàng Hậu (Võ Tắc Thiên). Hai ông này sau đó lại cho rằng nhà thư pháp danh tiếng, Chử Toại Lương, là trở ngại lớn cho kế hoạch của họ nên ghép Chử Toại Lương vào tội bất trung và giáng xuống làm Đô Đốc một châu trong tỉnh Hồ Nam ngày nay. Đầu năm 657, Chử Toại Lương lại bị giáng chức xuống nữa, làm Đô Đốc Quế Châu, ở Quảng Tây. Bốn tháng sau, Lý Nghĩa Phủ lại buộc tội Chử Toại Lương đã mưu toan dùng Quế Châu làm căn cứ ly khai và giáng xuống chức Đô Đốc châu Ái. Chử Toại Lương sau khi đến Ái Châu thì thảo ngay một tờ biểu về triều để tâu trình ngọn ngành là mình vô tội, nhưng chẳng đạt được kết quả gì. Khi ông chết vào cuối năm 658; hai người con trai của ông, cũng bị đi đày với ông, đều bị ám hại chết.
Chưa hết, vì nhà Đường thay đổi chính sách liên miên nên năm 658, đến lượt Nghĩa Phụ và Chính Luân bị buộc tội mưu phản và bị đày xuống Quảng Tây. Trớ trêu rằng chỉ vài tháng trước đó, Chính Luân còn khuyến cáo rằng có quá nhiều người bị lưu đày thì nay đã xảy ra chuyện như thế. Mặc dầu Nghĩa Phụ sau đó thoát nạn trở về Bắc và có gây dựng được thanh thế trở lại, nhưng Chính Luân phải chịu để nắm xương tàn ở miền Nam.
Thông thường, một người càng bị tội nặng bao nhiêu, càng bị đày xa xuống miền Nam bấy nhiêu cho nên Lý Thọ, một thân quyến của Lý Nghĩa Phụ và bộ hạ của Chính Luân bị đày xuống châu Hoan. Trước năm 628, Bùi Thiện Thông, một hầu cận của Dương Hoàng đế nhà Tùy, cũng bị tống xuống châu Hoan vì bị triều đình nghi kỵ. Sau này có Lý Càn Hữu, một Thứ sử ở Hồ Bắc bây giờ, bị đày xuống châu Hoan vì đã viết những bài văn châm biếm chính sách triều đình. Đến cuối thế kỷ 7, Nghiêm Thiên Tư, một quan ngự sử có uy tín, nhưng bị khép tội tham nhũng và cũng bị đày xuống châu Hoan
Không thể thích ứng được với lề thói săm soi của Ngự sử đài, một cơ quan rất nhạy cảm của nhà Đường, nên nhiều quan chức chính trực phải chịu đi đày xuống miền Nam. Lăng Dư Khánh bị đổi xuống làm Thứ Sử Giao Châu vì đã tỏ ra sốt sắng thái quá với công việc Ngự Sử. Lại một quan Ngự Sử đáng tôn kính khác là Lý Sao bị đày xuống làm thư ký giữ sổ sách ở Long Biên, Giao Châu, sau khi dám tranh luận với vua. Rồi lại có Hàn Tư Ngạn, một quan Ngự Sử rất có uy tín dám cả gan cảnh cáo Cao Hoàng Đế về thế lực ngày mỗi mạnh của Võ Tắc Thiên Hoàng Hậu. Kết quả là ông phải từ quan bỏ về dưới áp lực của Lý Nghĩa Phủ. Năm 675, một thời gian lâu sau khi Nghĩa Phủ chết, Cao Hoàng Đế nhớ đến Hàn Tư Ngạn và gọi ông về triều với ý định phong chức cho ông nhưng vì đã xa công việc triều chính đã lâu, nên ông quên hết cả nghi lễ và tập tục ở trong triều. Khi đến trước mặt Hoàng Đế, ông quên cả những thủ tục phải thi hành trong một dịp như thế, và kết quả là ông bị đày xuống làm một Lịnh Quan ở châu Diên, Giao Châu, rồi chết ở đó.
Nhiều người bị đày xuống miền Nam là những danh sĩ rất có ảnh hưởng trong việc phát triển văn hoá ở vùng biên giới. Tiêu biểu là Vương Phúc Thời, xuất thân từ một gia đình danh sĩ ở Sơn Tây. Dưới thời Cao Hoàng Đế nhà Đường, ông bị đày xuống làm Lịnh Quan ở Giao Chỉ sau khi một người con trai của ông bị cách chức. Người con khác của ông là Vương Bột, rất nổi tiếng về thi pháp nhưng khi đi thuyền xuống Giao Chỉ thăm ông thì, không may, thuyền bị đắm và chết đuối. Sử chép Vương Phúc Thời cho xây nhiều trường học và được các gia đình quý tộc địa phương rất quý trọng.
Năm 705, sau khi Võ Tắc Thiên bị buộc phải thoái vị, có hai quan chức học giả bị tạm thời đày xuống An Nam Đô Hộ Phủ. Đỗ Thẩm Ngôn bị đày xuống châu Phong và Thẩm Toàn Kỳ xuống châu Hoan. Hai ông này đều để lại những bài thơ cảm thán trong thời gian bị đi đày ở miền Nam. Dưới đây là một trong những bài thơ của Toàn Kỳ:
Ta được nghe nói nhiều về Giao Chỉ
Rằng những tục lệ miền Nam đi sâu vào lòng người
Mùa đông thì ngắn
Còn ba mùa còn lại thì mặt trời luôn toả sáng
Ở đó quan Úy Tô từng có cả một vương quốc
Và Sĩ Nhiếp vẫn lảng vảng từ thế giới bên kia
Nhà cửa trong làng truyền từ đời này sang đời nọ
Cá và muối đã có từ thuở xa xưa
Từ thời thượng cổ, người Việt triều cống chim bạch trĩ
Tướng quân Hán trầm tư vì con chim bồ cắt
Chòm sao Đại Hùng treo lơ lửng trên non Chung
Ngọn gió Nam thổi trên biển Trang
Từ khi ta rời quê nhà, năm tháng qua lại qua
Mái tóc bạc báo tin nay ta đã già
Các huynh đệ ta ai cũng chào thua định mệnh
Vợ con ta cũng đã ra người thiên cổ
Kìa con đường hiu quạnh, kìa bức tường đổ nát
và những giọt lệ rơi
Trái tim ta chẳng còn âm vang ý muốn của Trời nữa
Câu nói “người Việt triều cống chim bạch trĩ” là nhắc lại theo huyền sử Trung Quốc, khi Trang Vương của nhà Châu (1115-1078 TCN) nhận được chim trĩ do người từ bộ tộc Việt Thường đem triều cống vào năm 1110 TCN. Đây là lời ghi lại xưa cũ nhất về sự tiếp xúc giữa Trung Quốc thời cổ và người Việt nên sự kiện này đã trở thành cái mốc đánh dấu thuở sơ khai của lịch sử Việt Nam. Trong trí óc của người Trung Quốc thì thời kỳ cổ đại này cho thấy sự qui phục của người Việt khi phải đem đồ triều cống Trung Quốc. Đối với các học giả Việt Nam về sau này thì thời kỳ đó là bằng chứng đất nước họ đã tồn tại từ đời thượng cổ. Lẽ tất nhiên, như Chương I đã nói, người Việt Thường năm 1110 TCN không có gì dính dáng đến người Việt Nam cổ đại cả.
Câu thơ “Tướng quân Hán trầm tư vì con chim bồ cắt” là nhắc đến lời của Mã Viện khi đem quân Hán chinh phạt miền Nam vào năm 42-43. Khi phải tạm dừng quân trong đồng bằng sông Hồng vào mùa gió Nồm và nhìn thấy một con chim bồ cắt rơi xuống sông và chết vì cố bay trong cơn mưa, Mã Viện ngẫm nghĩ đến lẽ sống ở đời và tự hỏi lý do gì khiến ông phải lăn lộn lo toan mọi việc như thế. Tứ thơ nhắc đến con chim bồ cắt là có ý gợi lên phút trầm tư mặc tưởng của tác giả vì đang phải sống xa nhà trong một môi trường xa lạ với nhiều hiểm hoạ khó lường. Chung Sơn là ngọn núi cao ở phía Nam tỉnh Hồ Nam. Cảnh chòm sao Đại Hùng trên bầu trời phía Bắc toả chiếu trên một ngọn núi ở miền Nam xa xôi đã vượt ra ngoài cái tư duy và tâm thức thông thường về thế giới của một người Trung Quốc có học thức vào thời Đường. Biển Trang là vịnh Bắc Bộ bây giờ. Trong bài thơ này, tác giả pha trộn lời tán thưởng cái di sản đặc biệt của phương Nam với tâm trạng u hoài về bi kịch của cuộc đời. Cảm tưởng bị lạc lõng, mất phương hướng, không muốn tin vào hiện trạng, cộng với sự hoang mang là nỗi niềm chung của những kẻ bị lưu đầy. Tuy nhiên, không phải là tất cả các quan đời Đường đều bị ép buộc hay phải miễn cưỡng xuống Nam, và cũng không phải là tất cả đều coi nơi họ lưu trú là niềm bất hạnh mà họ phải cam chịu để chuộc tội. Ngược lại, nhiều người lại thấy thích thú khi sống ở miền Nam nên quyết định ở lại đây vĩnh viễn. Sau này chúng ta sẽ thấy một Tiết Độ Sứ vào thế kỷ 9 đã quyết định ở lại miền Nam và gây dựng nên một gia đình mà những thế kỷ sau này đã đạt được nhiều danh tiếng trong chính quyền Việt Nam.
Việt nam khai quốc: cuộc nổi dậy năm 687 (chương 5, phần 4)
Đền thờ Mai Hắc Đế, thị trấn Nam Đàn, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An
Trong thời gian đô hộ An Nam không ít các quan chức nhà Đường đã lợi dụng danh nghĩa văn hoá bản xứ nhằm phục vụ việc chính thống hoá quyền hành của họ đối với dân chúng địa phương. Theo truyền thuyết, thời Ưng Huệ Vương (650-655), có một vị Đô Đốc nhà Đường tên là Lý Thường Minh nhận thấy iao Châu đang được thanh bình thịnh trị, bèn lập ở Phong Châu một ngôi đền thờ một vị thần “bảo vệ đất nước” có vẽ chân dung hẳn hoi.
Sau khi đốt nhang, Thường Minh lâm râm khấn rằng: “Xin các vị thần linh đất nước hãy hiển linh giống chân dung này để chứng giám lòng thành.” Theo Lý Thường Minh kể lại, đêm hôm đó, có hai vị thần hiện về trong giấc mơ của ông; cả hai đều trông giống hệt ảnh thờ! Một vị xưng mình là “Đại Vương”, còn vị kia xưng là “Thành Hoàng” nghĩa là thần linh địa phương.
Lý Thường Minh đề nghị hai vị thần hãy thi thố pháp thuật thần thông để xem ai hơn ai. Vị Đại Vương nói ông sẽ nhảy một bước qua sông Hồng. Nhưng khi ông vừa nhảy sang tới bên kia, đã thấy vị Thành Hoàng đứng đợi ông ở đó rồi! Khi Đại Vương nhảy trở về thì cũng lại thấy như thế cho nên vị thần Thành Hoàng được công nhận là thần thông và cao tay ấn hơn.
Cảnh tượng Đô Đốc Lý Thường Minh chủ toạ việc so tài giữa hai vị thần của đất nước để xem thần nào là thần chủ tể cai quản địa phương nói lên mối tương quan giữa vương quyền Bắc triều và văn hoá bản địa. Việc thần Thành Hoàng thắng thế thần Đại Vương ngụ ý rằng lớp cầm quyền địa phương có vị thế ưu việt hơn đối với tầng lớp dân chúng.
Truyền thuyết này có vào thời mà nền thống trị của nhà Đường đang ở vào thời kỳ trăng mật, tức là lúc mà “phúc lành” của vương triều chưa bị phai mờ bởi những tham quyền nhũng lạm không tránh khỏi sau này.
Trước khi thành lập Đô Hộ Phủ năm 679, rối loạn duy nhất được ghi lại là vụ các bộ tộc người Lao nổi dậy ở châu Minh vào năm 638 nhưng bị Đô Đốc Lý Đạo Ngạn dẹp yên và không bao lâu sau, châu Minh được sát nhập vào châu Hoan. Tuy nhiên, khi nhà Đường tái lập được trật tự ở vùng biên giới thì lập tức một chính sách độc đoán và thẳng tay áp bức lại tái diễn. Và dĩ nhiên khi bị áp bức và bóc lột quá mức thì dân chúng sẵn sàng nổi lên chống lại ngay.
Năm 676, một lệnh mới được ban ra cho Đô Đốc các châu Quảng (Quảng Đông), châu Quế (Quảng Tây), và châu Giao phải lên phương án tuyển mộ người địa phương vào các chúc vụ hành chánh. Cứ bốn năm một lần, phải tuyển các lãnh tụ địa phương vào các chức vụ từ ngũ phẩm trở lên vì tổng số những người được bổ nhiệm chính thức từ Bắc xuống cùng những người bị biếm chức hay bị lưu đầy không đủ để bố trí vào guồng máy hành chánh ngày càng lớn.
Chế độ quan liêu hành chánh càng phát triển bao nhiêu thì đạo đức công cộng càng suy sụp bấy nhiêu. Lúc đó thì Hoàng Hậu Võ Tắc Thiên đang thao túng Đường triều với những phát động và âm mưu chính trị khiến các cảm tưởng bất an trong các quận, các châu ngày càng gia tăng. Đô Đốc Quảng Châu xin rút lui khỏi chính quyền vì không thể nhắm mắt làm ngơ trước cảnh các quan tham thi nhau vơ vét đầy túi. Năm 684 xảy ra việc Đô Đốc Quảng Châu ra lệnh bắt giữ một tàu buôn của một thương nhân Mã Lai nhưng các thủy thủ dưới tàu đã vùng lên giết được viên Đô Đốc Quảng Châu rồi trốn ra khơi. Cũng vào năm ấy, một cuộc nổi dậy lớn khác bùng lên ở phía Đông Trung Quốc dưới sự lãnh đạo của Lý Kính Nghiệp, cháu nội và là thừa kế của quan đại thần Lý Tích. Khi Lý Kính Nghiệp bị đánh bại, tất cả những quan chức nào đã được thăng quan tiến chức dưới sự bao che của họ Lý đều bị xử tử hay lưu đầy. Một trong những người bị lưu đầy này là Lưu Duyên Hữu.
Khi mới tập tễnh bước vào đường quan lại năm 668, Lưu Duyên Hữu đã khắc cốt ghi tâm lời khuyên của Lý Tích nhắn nhủ ông rằng: “Nhà ngươi tuy còn trẻ mà đã nổi danh, vậy phải hết sức thận trọng, đừng làm gì qua mặt cấp trên.” Sau này vì theo cháu nội của Lý Tích là Lý Kính Nghiệp làm phản nên họ Lưu bị biếm chức làm Đốc Hộ An Nam. Có lẽ trước đó Lý Tích đã nhìn thấy được phần số của chàng trai trẻ Duyên Hữu, người mà sau này đã phải bạc mệnh ở An Nam chỉ vì một việc thiếu thận trọng. Trước khi họ Lưu đến làm Đốc Hộ Sứ, thuế má ở An Nam được thu một cách ôn hoà, chỉ bằng phân nửa tiêu chuẩn ở chính quốc. Sự khác biệt này là một sự thừa nhận rằng có các vấn đề khó khăn chính trị liên quan đến việc cai trị một dân tộc phi Trung Quốc. Vì những lý do nào đó mà đến nay cũng chưa được rõ, sau khi nhậm chức Đô Hộ Sứ An Nam, Duyên Hữu quyết định phải thu cho đầy đủ tiêu chuẩn như chính quốc bằng cách ra lệnh tăng số thu thuế các vụ mùa lên gấp đôi số hiện hành.
Bất mãn vì thuế gia tăng gấp đôi nên dân chúng, dưới sự lãnh đạo của Lý Tự Tiến, nổi lên chống lại Lưu Duyên Hữu. Thay vì tìm cách giải quyết một cách êm thắm, Duyên Hữu lại đổ thêm dầu vào lửa khi hạ lệnh giết Lý Tự Tiến. Một đồng bào của Tự Tiến là Đinh Kiên cầm đầu dân chống lại Duyên Hữu và bao vây ông trong Tử Thành. Vì binh sĩ đồn trú của Đường triều ở đó quá ít nên chỉ đủ sức cố thủ để chờ quân cứu viện.
Đô Đốc Quảng Châu bấy giờ là Phùng Nguyên Thường, một kẻ trí trá nên từng bị Đường Cao Hoàng rất ghét, được lệnh đi cứu viện Duyên Hữu. Phùng Nguyên Thường cho quân xuống thuyền ở Quảng Đông rồi thuận buồm xuôi xuống An Nam. Hạ trại đâu đó xong xuôi Nguyên Thường cho binh sĩ đến kêu gọi và trấn an quân nổi dậy với hy vọng tạo được ảnh hưởng và thanh thế ở An Nam sau này vì sai lầm của Duyên Hữu. Nguyên Thường còn khuyên dân chúng hãy giết người cầm đầu rồi theo ông trong khi chẳng đả động gì đến việc cứu nguy cho Duyên Hữu. Cuối cùng, vào cuối mùa hè 687, loạn quân hạ được Tử Thành và giết chết Duyên Hữu. Phùng Nguyên Thường vội bỏ trốn về châu Quảng, nhưng tướng giữ Quế Châu là Tào Huyền Tĩnh đã kéo quân xuống, dẹp được cuộc nổi dậy của dân chúng và bắt Đinh Kiên đem ra xử chém.
Vì thiếu sử liệu nên không thể xác minh và đánh giá được tầm mức của việc nổi dậy này. Chỉ biết rằng đó là một cuộc nổi dậy của nông dân được lãnh đạo bởi những người tuyệt đối không ai biết là ai ngoại trừ tên gọi của họ. Cuộc nổi dậy không do giới thượng lưu lãnh đạo để bảo vệ các đặc quyền đặc lợi của họ hay là mưu tìm quyền hành tối cao, như đã từng diễn ra trong những thế kỷ trước mà là dân chúng đã nổi dậy một cách tự phát để phản đối chính sách độc đoán và hà khắc của Đường triều. Nói chung, một biện pháp hành chánh không thể gây ra một phản ứng mạnh mẽ như thế trừ phi nó đe doạ nghiêm trọng lên đời sống người dân. Cuộc nổi dậy tuy ngắn ngủi nhưng là bằng chứng hùng hồn về sự phản kháng của dân chúng đối với ách cai trị mà nhà Đường đã áp đặt lên dân chúng Việt Nam. Sau hơn 60 năm dưới sự thống trị của Nhà Đường, người Việt Nam đã nổi dậy và bao vây được người Trung Quốc trong một thời gian khá lâu trước khi hạ được thành trì và giết chết các quan chức.
Cũng cần nói thêm rằng việc nổi dậy lần này không phải được phát động bởi một cuộc xâm lăng từ bên ngoài hay là được hỗ trợ bởi sự cộng tác với những bộ tộc miền núi mà là một phong trào nông dân dựa trên hành động của họ để phản ứng đơn thuần đối với một biện pháp hành chánh hà khắc. Sự việc này cũng cho thấy nông dân Việt Nam sẵn sàng đi theo các lãnh tụ có khả năng giúp họ chống lại một chính quyền áp bức. Điều này cho thấy sức mạnh, sự đoàn kết và tinh thần quả cảm của xã hội Việt Nam bất chấp ách cai trị tàn bạo của nhà Đường. Có thể nói rằng Lý Tư Hiến và Đinh Kiên là con cháu của những gia đình địa phương có thế lực, và cuộc nổi dậy năm 687 là một cuộc đọ sức giữa những địa chủ địa phương và những quan chức thu thuế. Nhưng theo hồi ký của Lưu Duyên Hữu, những kẻ nổi dậy chỉ tầng lớp dân chúng hạ lưu. Việc các nông dân nổi dậy trơ trơ trước những lời đe doạ hay vỗ về thuyết phục của Nguyên Thường, một quan chức nhà Đường, cho thấy rõ ràng rằng dân chúng không còn tin tưởng các giá trị và hãi sợ thế lực của Đường triều nữa.
Có thể giả thiết rằng, trong trường hợp bất bình đối với các hành động và cách đối xử của các quan chức Đường, những gia đình có thế lực ở địa phương sẽ có những phương cách, không nhất thiết phải đi đến nổi dậy, mà là tìm cách thoả hiệp với nhà cầm quyền. Việc tăng thuế lên gấp đôi rất có thể không phải là lý do chính dẫn đến nổi dậy vì các gia đình địa chủ lớn chỉ cần tống các gánh nặng thuế lên đầu các tá điền và nông dân, thậm chí về phe với tầng lớp thống trị. Từ những phân tích và nhận định trên chúng ta có thể thấy rằng những đại gia đình có thế lực ở Việt Nam đã bị phần nào cuốn hút vào hệ thống cai trị bất kể đồng bào của họ phải chịu những búa rìu áp bức và bóc lột qua các chính sách thâm độc và cửa quyền của Đường triều.
 MAI THÚC LOAN
Có rất ít sử liệu được xem khả tín về những gì đã xảy ra ở An Nam 35 năm sau đó. Năm 693, một cuộc nổi dậy không rõ nguyên nhân bùng nổ ở phương Nam, nhưng phần lớn chỉ tập trung châu Quảng và dường như không ảnh hưởng gì đến An Nam. Năm sau đó, những bộ tộc Lao ở vùng Quảng Tây ngày nay cũng nổi dậy. Mặc dù cả hai cuộc nổi dậy đều bị dập tắt từ trong trứng nước, nhưng điều này chứng tỏ rằng thế lực của Đường triều đã bị suy yếu ở phương Nam.
Năm 690, Võ Tắc Thiên tuyên bố lập triều đại “Chu”, nghĩa là trên lý thuyết, bà ta đã kết liễu triều đại nhà Đường. Phải mãi đến năm 705, khi Trung Quốc rơi vào cảnh sống dở chết dở, thì Võ Tắc Thiên mới bị buộc thoái vị. Viên Đô Hộ Sứ Giao Châu duy nhất được ghi trong sử liệu thời đó được biết dưới tên là Lưu Hữu. Sách chép rằng Lưu Hữu có gốc từ một gia đình giàu có và “ăn trọn một con gà mỗi bữa cơm.” Sách còn kể rằng “cứ mỗi khi làm thịt một con gà, lão ta lại ra lệnh cho gia nhân nuôi thêm haiu con khác vì lúc nào lão ta cũng thích ăn ngon.” Nếu cái cảnh một vị Đô Hộ Sứ An Nam thích ăn thịt gà và ăn nhiều như thế là đúng thì chúng ta có thể suy ra rằng sau khi dẹp tan được cuộc nổi dậy năm 687 thì giới cai trị Bắc triều càng áp bức trắng trợn hơn nữa vì có lẽ họ tin rằng đó là cách duy nhất để giữ cho người nông dân không dám mảy may manh động. Đạo đức của đám quan tham thời đó suy đồi đến nỗi dưới thời Ching Tsung Hoàng Đế (705-707), quan Đô Hộ Phúc Lâm bị một thuộc hạ giết chết chỉ vì không kham nổi tính tham ô và tàn ác của hắn.
Vào cuối triều đại Ching Lung Hoàng Đế (707-709), Đỗ Minh Cử được bổ làm Đô Hộ Sứ của An Nam. Đỗ Minh Cử dường như đã tạo được thiện cảm trong dân chúng vì tương truyền rằng việc bổ nhiệm ấy được thần nhân, là một người dân An Nam, báo cho ông qua một giấc mộng.
Tuy nhiên trong những năm ấy, quyền hành của nhà Đường dường như ngày càng đi đến chỗ áp bức và bóc lột hơn nữa khiến đại đa số dân chúng ngày càng trở nên bất mãn và tìm cách xa lánh các quan chức. Tình hình đen tối này lại được châm ngòi thêm bởi những biến cố xảy ra ở những nơi khác tại Đông Nam Á đã nhanh chóng dẫn đến một cuộc khủng khoảng mới.
Phần trước chúng ta đã nói đến những người hành hương và những thương nhân thường đi du hành khắp các vùng biển giữa Trung Quốc và Ấn Độ vào thế kỷ 7 và 8. Khi ấy, đời sống chính trị ở các vùng ven biển đang bước vào một kỷ nguyên mới. Những trung tâm chính trị dọc theo hạ lưu sông Cửu Long, mà nhiều thế kỷ trước đó đã là những vị trí quan trọng trên các hải lộ giữa Trung Quốc và Ấn Độ, thì nay không còn nữa. Thay vào đó, Java và Sumatra, những tiểu quốc mới mọc lên sau này đang chen vai tìm thế thượng phong.
Vào đầu thế kỷ 8, vương quốc Srivijaya trên đảo Sumatra kiểm soát được các đường hàng hải đi khắp Đông Nam Á. Hạ lưu sông Cửu Long trở thành miếng mồi bị tranh giành và phân chia hết sức hỗn loạn. Cùng lúc đó thì Lâm Ấp cũng trải qua một thời kỳ thay đổi chính trị với trọng tâm quyền lực dần chuyển xuống quá phía Nam. Tình trạng lỏng lẻo ở biên giới kết hợp với tình hình phản kháng âm ỉ ở bên trong An Nam đã châm ngòi cho một mưu toan ngoạn mục nhằm tống khứ quyền lực Trung Quốc ra khỏi miền Nam.
Mai Thúc Loan sinh ra và lớn lên ở một làng ven biển, chuyên sản xuất muối từ đời thượng cổ, ở phía Nam châu Hoan thuộc phía đông nam tỉnh Hà Tĩnh ngày nay. Với địa thế núi non trùng điệp và thung lũng ở kế bên, rải rác có những phần mộ của cha mẹ và những người thân của Mai Thúc Loan và cả một cái thành do ông xây đắp. Được ghi khắc trong một đền thờ ở giữa vùng đất này là những hàng chữ trong câu đối sau đây:
Đế quốc Đường thịnh rồi lại suy.
Núi sông Hoan Diên hiên ngang với thời gian
Mặc dầu câu đối này chắc đã được làm trong thời kỳ Việt Nam giành được độc lập sau này, nhưng nó cũng nói lên khí thế sôi sục của một vùng biên thùy đứng đằng sau một phong trào nổi dậy rộng khắp do Mai Thúc Loan lãnh đạo.
Quyền hành của nhà Đường ở châu Hoan vẫn chưa bị lung lay cho mãi đến cuối các năm 705-706, khi Thẩm Toàn Kỳ, người có bài thơ chúng ta đã đọc trong phần đầu của Chương V, bị lưu đầy xuống miền Nam. Nhưng chỉ 15 năm sau đó, chính quyền Đường bắt đầu tan rã song song với những biến động chính trị ở biên giới qua việc Mai Thúc Loan xây được một thành trì và trực tiếp thách thức Bắc triều. Năm 722, Thúc Loan đã đứng ra tập hợp được dân chúng trong 32 châu và những nhóm người Lâm Ấp, Chân Lạp ở hạ lưu sông Cửu Long, và một vương quốc chưa từng được biết đến là Chin Li (Kim Lân) cộng với số một tiểu quốc vô danh nữa. Tự xưng là Hắc Đế, tương truyền là vì nước da ngăm đen của ông, Mai Thúc Loan đã lãnh đạo một đội quân lên tới 400.000 người và đánh chiếm toàn bộ An Nam.
Con số 32 châu ghi trong sử chắc là tính cả những “cơ mi châu” tức là những bộ lạc ở núi đã từng phải chấp nhận ách đô hộ của nhà Đường. Như đã nhắc đến trước đây, có một thời gian 27 châu ấy nằm trong địa hạt châu Phong và nhiều châu nữa nằm trong châu Hoan. Sự đoàn kết lạ lùng của những người vừa là người nước ngoài, vừa là những bộ tộc ở núi, và những nông dân ở đồng bằng, dưới quyền lãnh đạo của một người gốc xuất thân từ vùng duyên hải, đã đặt ra nhiều câu hỏi mà đến nay vẫn chưa có câu trả lời thỏa đáng.
Vậy thì lời hiệu triệu của Mai Thúc Loan là gì? Đối với những người nước ngoài và những người sống ở vùng núi non, ổn định việc cướp bóc có lẽ là động lực chính. Còn đối với nông dân có thể họ đã tụ tập dưới trướng Mai Hắc Đế để tìm cách thoát khỏi ách cai trị hà khắc và bóc lột của nhà Đường. Tuy nhiên nếu vì chán ngán sự cướp bóc và áp bức đã tập hợp được những người tạm gọi là đồng minh của nhau nhưng nếu họ không biết tự chế thì kết cuộc cũng sẽ dẫn đến thất bại và đau khổ chẳng kém những lúc họ phải sống dưới một chính quyền tham ô hoặc còn tệ hơn thế nữa.
Rõ ràng 400.000 người dưới trướng của Mai Hắc Đế là một con số khá lớn nhưng không phải là một đạo quân chính quy có kỷ luật, mà là các băng nhóm hỗn tạp gồm cả những thành phần du thủ du thực. Họ tìm cách lật đổ tất cả những quyền lực đang tại vị; nhưng cũng chẳng có một phương sách để bảo đảm được hoà bình an ninh lâu dài cho dân chúng. Có lẽ nông dân là những người đầu tiên đi theo Mai Hắc Đế; nhưng cái cảnh một người ở mãi tận miền Nam xa xôi cầm đầu một đám những người nước ngoài chắc là rất khó được nhìn với những con mắt thiện cảm đối với một dân tộc đã từng tạo lập được một cốt cách mạnh mẽ và nét đặc thù trước đó rồi.
Vậy Mai Hắc Đế có tự xác nhận là ông theo cái truyền thống của Giao Châu không, hay là ông chỉ đơn giản cầm đầu những kẻ lang thang, nổi trôi qua biên giới để tập hợp thành một lực lượng khá lớn nhưng ô hợp thiếu tổ chức? Không có câu trả lời rõ ràng cho câu hỏi này; nhưng rõ ràng Mai Hắc Đế đã không đạt được địa vị tột cùng theo truyền thống của người Việt. Không biết có phải vì quyền lực của ông quá phù du để gây được một ấn tượng lâu bền hay là vì ông chỉ được coi như một thứ anh hùng tô điểm nhất thời?
Khi Mai Hắc Đế tấn công thì Đô Hộ Sứ Quang Sở Khánh đã nhanh chân chạy thoát được lên phía Bắc kéo theo cả viên chỉ huy kỵ binh và viên thị thần Dương Tư Húc. Quê quán ở Lô Châu, bây giờ thuộc tỉnh Quảng Đông, Dương Tư Húc sau đó đã tập hợp tàn quân cùng họ hàng thân thích và hằng hà sa số dân chúng của những bộ tộc ở núi vẫn còn trung thành với nhà Đường để thành lập được một đạo quân lên đến 100.000 người. Không để mất thời gian, Tư Húc vội kéo quân xuôi theo bờ biển, dọc con đường mà Mã Viện ngày xưa đã dùng để tiến chiếm miền Nam. Quân của Tư Húc xuất hiện quá bất ngờ nên Mai Hắc Đế trở tay không kịp và bị đè bẹp. Tương truyền thi thể của Mai Thúc Loan và những người theo ông chất cao như núi!
Không còn dám khinh thường khả năng của các lãnh tụ bản xứ qua bài học rút ra từ cuộc nổi dậy bùng phát rất nhanh của Mai Hắc Đế nên những năm sau đó Bắc triều, dưới quyền cai trị của Dương Tư Húc, đã ra lệnh cho binh sĩ toàn quyền đàn áp dã man các vụ nổi dậy. Năm 724, Dương Tư Húc dẹp được cuộc nổi dậy ở Quế Châu và sau đó phải mất cả năm 726 để bình định một một cuộc nổi dậy khác do lãnh tụ người Lao nổi lên ở Quảng Tây bây giờ, mà trong đó trên 30.000 quân nổi dậy bị bắt và đem chem đầu. Năm 728, 3 lãnh tụ người Lao khác ở Quảng Đông bây giờ nổi lên, chiếm được hơn 40 thành lũy. Một trong 3 người tự xưng là Hoàng Đế; một người nữa tự xưng là Nam Việt Vương. Dương Tư Húc đã chém đầu khoảng 60.000 quân nổi dậy trước khi hoàn toàn dẹp tan được cuộc nổi dậy. Nhờ đó dưới thời Đường Minh Hoàng trị vì (713-755), Đường triều đã phần nào ổn định và củng cố thế lực ở miền Nam.
Trái với cuộc nổi dậy năm 687 bắt nguồn từ vấn đề nội bộ của người nông dân Việt Nam đối với sưu cao thuế nặng, cuộc nổi dậy của Mai Thúc Loan dựa trên làn sóng những người nước ngoài tràn qua biên giới. Vì thế, cuộc nổi dậy này có thể được so sánh với cuộc tấn công bằng đường biển của phe nổi dậy Mã Lai và She-pô (767) mà chúng ta sẽ bàn đến trong phần sau. Cuộc nổi dậy của Mai Thúc Loan đã làm nổi bật sự quan tâm về chiến lược căn bản của Đường triều tại Việt Nam.
Từ giữa thế kỷ 8 cho đến cuối triều đại, nhà Đường đã phải thường xuyên đối đầu với sự đe dọa của vương quốc Nam Chiếu ở Vân Nam. Trong Chương VI kế tiếp, chúng ta sẽ thấy rằng các quan chức Đường ở Việt Nam vào thế kỷ 9 đã tìm mọi cách cấm cản việc buôn bán ngựa và khí giới với những người Khơ Me. Đường biên giới giữa Việt Nam với phần còn lại của Đông Nam Á cũng chính là đường phòng thủ quân sự được duy trì rất tốn kém, cả về vật chất lẫn nhân lực, đối với nhà Đường kể từ sau cuộc viễn chinh của Mã Viện gần bảy thế kỷ trước đó cho đến khi Mai Thúc Loan đem quân Bắc tiến. Hơn nữa, dưới ách đô hộ của Trung Quốc nhiều thế kỷ trước đó, người Việt Nam cũng đã nhiều lần phải giao chiến với nước láng giềng Lâm Ấp.
Đường phòng thủ nói trên là để duy trì và củng cố quyền lợi của Bắc triều do đó nó đóng vai trò quan trọng trong việc định hình quan điểm chính trị của người Việt Nam đối với phần còn lại của Đông Nam Á. Như sẽ được trình bày sau này, các mưu toan đầy hứa hẹn của Việt Nam nhằm liên minh với các láng giềng phía Nam để chống lại Trung Quốc đã thất bại nhiều lần, có lẽ một phần vì lúc đó người Việt đã nhận thức được rằng họ có thể dễ dàng chịu đựng được bản chất tham ô của những chủ nhân ông Trung Quốc hơn là phải đương đầu vớ bản tính hung dữ và khó tin cậy được của những đồng minh phi Trung Quốc ở phía Nam.
Việt Nam khai quốc: Biến động chính trị thời nhà Đường (Chương 5, phần 5)
Thời kỳ Đường Huyền Tôn (Đường Minh Hoàng) trị vì được gọi là “thời đại vàng son” của toàn nhà Đường. Văn học nghệ thuật đua nhau nở rộ và quân đội bắc triều liên tiếp bành trướng ra mọi ngả. Ngoài những thống kê dân số mà chúng ta đã xem qua, tài liệu duy nhất còn tồn tại về thời kỳ nhà Đường đô hộ Việt Nam giữa những năm 722 và 751 là một câu chuyện lưu truyền ở Việt Nam về một Đô Hộ Sứ có tên là Lư Ngư. Lư Ngư ngụ ở àng An Viễn cách Tử Thành một quãng đường ngắn về phía Tây. Hài lòng với phong cảnh của An Viễn nên Lư Ngư đã cho dọn toàn bộ bản dinh về một ấp ở trong làng. Ngay trung tâm bản dinh, ông cho xây một ngôi đền thờ sống Đường Huyền Tôn và kỷ nguyên Khai Nguyên (713-741) với tấm bia ghi khắc công đức của ” Khai Nguyên Thiên Tử “. Ngôi đền và bia công đức được lập ra để tôn thờ và cũng nhân đó quảng bá đến toàn thể dân chúng bản địa về quyền lực và sự thịnh vượng của đất nước Trung Quốc dưới thời Huyền Tông. Cạnh đó Lưu Ngư cũng cho dựng một bức tượng thờ thần địa phương với một bài thơ để ca tụng cảnh đẹp làng An Viễn. Sử chép những người đến đền thờ này lễ tế đều được toại nguyện về những gì họ cầu xin nên hương khói chẳng bao giờ tắt!
Việc kết hợp một danh lam thắng cảnh của An Nam Đô Hộ Phủ với một vị hoàng đế của nước đô hộ như thế phản ánh một cố gắng nhằm thay đổi truyền thống thờ cúng từ xưa đến giờ của dân chúng địa phương. Ngôi đền của Lư Ngư trở thành một trung tâm thờ cúng lễ bái một mặt để củng cố uy tín của triều đại Huyền Tông, mặt khác là là nhằm đánh lạc hướng những ý thức tôn giáo bản địa khiến dân An Nam bị ru ngủ và quên đi những anh hùng nữ lưu dân tộc mà thay vào đó là nhớ đến vương triều đang đô hộ họ.
Câu chuyện Lư Ngư và ngôi đền là một trong những bằng chứng về việc tìm cách tạo ảnh hưởng của nhà Đường đối với xã hội Việt Nam dưới thời Đường Minh Hoàng. Nó cũng cho thấy rằng các Tổng Quản nhà Đường cảm thấy nhu cầu cần phải lấy được lòng tin của dân chúng sau khi chứng kiến hai cuộc nổi loạn của dân chúng vào năm 687 và cuộc nổi dậy bất thành của Mai Thúc Loan vào năm 722. Đưa Huyền Tôn Hoàng Đế lên ngang hàng với các anh hùng và thần thánh địa phương lộ rõ ý định nhồi nhét các ý thức hệ bắc phương vào văn hóa Việt Nam đồng thời cho thấy thái độ sẵn sàng của Đường triều để có những biện pháp tích cực hơn đưa xã hội Việt Nam vào vòng kiềm tỏa của họ. Chúng ta sẽ thấy ở gần cuối chương này những chứng cứ ở giữa thế kỷ 8 về những đạo luật nhằm áp đặt hệ thống gia đình theo kiểu Trung Quốc tại An Nam Đô Hộ Phủ nhằm đồng hóa Việt Nam. Rõ ràng một trung tâm thờ cúng vừa thờ thổ thần địa phương, vừa thờ vị hoàng đế đô hộ chính là nằm trong kế sách đồng hóa ấy.
Trong một thế kỷ rưỡi đầu của triều đại Đường, người Việt Nam đã có vẻ hơi thụ động. Ngoài cuộc nổi loạn của nông dân vào năm 687 và của nổi dậy bất thành của Mai Thúc Loan năm 722, không còn sử liệu nào cả nói đến các hoạt động chính trị của địa phương . Nhưng vào thế kỷ rưỡi cuối triều Đường thì lại khác hẳn vì các cuộc khủng khoảng lớn xảy ra vào giữa thế kỷ 8 làm cho Đường triều mất hẳn cái động lực chiến lược của mình. Những thất bại quân sự của Đường triều ở Vân Nam báo hiệu một thời cơ mới cho Việt Nam.
Trong 25 năm thứ nhì của thế kỷ 8, các quan chức Đường dự định mở một con đường chiến lược thông suốt từ Bắc Trung Quốc xuống tới An Nam xuyên qua Tứ Xuyên và Vân Nam. Chỉ trong một thời gian ngắn phần lớn dọc con đường dự định đã có các binh sĩ đồn trú. Sự ra đời của nước Nam Chiếu ở Vân Nam một phần là kết quả của dự án này, bởi vì Đường triều vun trồng quyền lực cho Nam Chiếu với hy vọng sẽ có được một đồng minh có thể giúp họ bình định những bộ tộc trên các vùng núi ở dọc phần Nam của con đường. Nhưng khi Nam Chiếu mạnh lên thì quan hệ của họ với nhà Đường lại xấu đi và kết quả là chiến tranh lại xảy ra.
Năm 751, Đô Hộ Sứ An Nam là một người gốc ở Quế Châu tên là Hà Lý Quang, đem một đạo quân tiến vào Vân Nam. Ông đánh chiếm được thành An Ninh, một pháo đài nằm ở vùng trung đông của Vân Nam và dựng lên ở đấy một đôi cột đồng để đánh dấu biên giới theo kiểu Mã Viện ngày xưa. Nhưng đây chỉ là một phần của chiến dịch lớn hơn của nhà Đường nhằm tiến đánh Nam Chiếu nhưng đại quân của Đường bị thảm bại khi tiến tới gần trung tâm Nam Chiếu ở vào khoảng 200 dậm phía Tây thành An Ninh. Hai năm sau, Hà Lý Quang lại chỉ huy tất cả các đạo quân lấy ở khắp miền Nam để tiến đánh Nam Chiếu lần thứ nhì nhưng lại bị quân Nam Chiếu đánh cho tan tành vào năm 754.
Thất bại này là một trong những thất bại liên tiếp của quân Đường trên khắp các mặt trận biên thùy. Năm 751, các bộ tộc du mục đánh bại quân Đường ở Nam Mông Cổ; cũng năm ấy, quân Đường ở Trung Á bị thua một trận ở Samarkand mà trong đó liên minh Ả Rập với Thổ Nhĩ Kỳ đã xua tan được làn sóng quân Đường.
Đằng sau những thất bại ấy là một chính quyền trung ương bị suy yếu hẳn đi vì uy quyền ngày càng lớn của các ông Tiết Độ Sứ (chỉ huy quân sự) kiểm soát hết phần Bắc của phần biên giới phía tây Trung Quốc. Năm 755 một trong những Tiết Độ Sứ ở biên giới Mãn Châu là An Lộc Sơn làm phản. An Lộc Sơn đã giáng cho Đường triều một đòn chí tử mà từ đó họ không thể vực dậy được nữa.
Cái chết của An Lộc Sơn năm 757 vẫn không chấm dứt được các cuộc nổi loạn vì những rối loạn mà An Lộc Sơn gây ra khắp nơi trước đó đã có một tầm ảnh hưởng sâu xa hơn là những tham vọng riêng của chính An Lộc Sơn. Trong nửa thế kỷ sau đó, miền Hoa Bắc liên miên bị tàn phá khi Tây Tạng và Uighurs đem quân xâm nhập biên giới phía Tây Trung Quốc. Mãi đến gần cuối thế kỷ thứ 8 nhà Đường mới phục hồi được lại được một chút nhờ thi hành một chính sách mới về xã hội và kinh tế.
Quyền lực khập khiễng của vương triều được nhận thấy rõ ràng ở phía Nam. Giữa cơn khủng hoảng đang lên cao thì hàng loạt các Tiết Độ Sứ lại bị thay thế. Năm 756, một Tiết Độ Sứ được bổ đến Hồ Nam. Ông lập tức Bắc tiến để đánh An Lộc Sơn với một đạo quân 50.000 người. Cũng năm ấy, Hà Lý Quang được bổ Tiết Độ Sứ Lĩnh Nam, một địa hạt gồm Lưỡng Quảng bây giờ. Nhân cơ hội các quân đồn trú được rút cả về Bắc nên các bộ tộc ở vùng núi ở các châu Quế, Ung và Dung tràn xuống đánh chiếm các trung tâm dân cư và tuyên cáo thành lập ít nhất 7 tiểu quốc độc lập. Họ đuổi hết các ông Tổng Quản Đường ra khỏi bờ cõi và đóng chặn tất cả mọi con đường bộ liên lạc giữa An Nam và Trung Quốc. Mãi hai năm sau đến năm 758, nhà Đường mới tổng phản công nhưng cũng chỉ thành công được một phần và tạm thời mà thôi. Trong năm ấy, danh hiệu “An Nam” được đổi ra là “Trấn Nam” và viên Đô Hộ Sứ ở đấy được phong chức Tiết Độ Sứ.
Các châu giáp ranh phía Bắc với Đô Hộ Phủ vẫn không được ổn định trong suốt những năm 760. Lưỡng Quảng bây giờ được chia ra thành 4 Tổng Quản Phủ là Quảng, Quế, Ung và Dung. Năm 760 và 762, bộ tộc Lao làm loạn ở Quế nhưng bị dẹp yên. Đến năm 767, họ lại đuổi đánh tất cả quân Đường ra khỏi xứ. Châu Ung và phần lớn châu Dung nằm dưới quyền kiểm soát của quân nổi dậy cả chục năm trời. Năm 763, một quan chức ở châu Quảng làm phản và tống cổ Tiết Độ Sứ. Cuối cùng, mãi đến năm 769, nhà Đường mới dẹp yên được các cuộc nổi dậy ở châu Quảng và Quế, và mãi đến khoảng 771, các quan chức đô hộ mới dám quay lại châu Dung.
Đô Hộ Phủ vẫn được ổn định trước những rối loạn ở các châu kế cận đó. Năm 761, môt người Nhật tên là Abe No Nakamaro, tên Trung Quốc là Triệu Hanh, được bổ làm Đô Hộ Sứ An Nam. Đến Trung Quốc năm 717, vào lúc 19 tuổi để du học rồi sau được giữ lại làm quan tại triều. Năm 753, Abe định quay về Nhật, nhưng thuyền của ông bị bão thổi trôi mãi xuống Nam và dạt vào bờ biển châu Hoan. Abe tìm cách trở lại kinh đô Trung Quốc ngay, nhưng vì không hy vọng trở về Nhật nữa nên vài năm sau, ông được bổ xuống An Nam làm Đô Hộ Sứ.
Trong thời cai trị An Nam, rối loạn duy nhất là những vụ xảy ra với bộ lạc ở vùng biên giới Vân Nam. Năm 766, vì có công dẹp yên được cuộc nổi dậy này nên Nakamaro được Đường triều khen thưởng. Thời ấy, châu Diên được tách ra khỏi châu Hoan, có lẽ là để đối phó có hiệu quả hơn với các bộ tộc bất tuân khác ở vùng núi.
Năm 767, Abe No Nakamaro được thay thế bởi Trương Bá Nghi, là con của một cựu Đô Hộ Sứ. Trái với các đồng nghiệp của ông ở miền Bắc là những quan chức luôn phải bận tâm với những đe doạ từ vùng núi xuống, Bá Nghi lại phải đối phó với những thử thách từ biển vào. Năm 767, An Nam Đô Hộ Phủ bị tràn ngập bởi giặc Côn Lôn và giặc Sa Bà từ biển tấn công vào. Côn Lôn là tên Trung Quốc dùng để chỉ những dân ở các miền bờ biển và các đảo ở Đông Nam Á nói chung, và Sa Bà là đặc biệt chỉ đảo Java ở Indonesia ngày nay.
Vào thời đó, sách Trung Quốc có nói đến Hoàn Vương thay vì Lâm Ấp. Hoàn Vương ở quá về phía Nam Lâm Ấp trước kia, nơi phụ cận các thành phố Phan Rang và Nha Trang bây giờ. Năm 774 và 778, cũng như ở Đô Hộ Phủ, Hoàn Vương bị giặc biển tràn vào. Các học giả ngày nay đều tin rằng những biến cố này có liên hệ đến triều đại Sailendra mới hình thành sau này ở Java.
Giặc Côn Lôn và Sa Bà đánh chiếm được Tử Thành và tự do cướp phá vùng đồng bằng. Trương Bá Nghi kêu cứu, và Cao Chính Bình, một tướng quân đóng ở xa mãi trên miền Bắc vội gửi quân xuống tiếp viện và đẩy lui được giặc biển. Sau đó Trương Bá Nghi bỏ Tử Thành và xây một thành mới ở gần đó, xung quanh có hào sâu. Thời Đường, thành kiểu ấy được gọi là “lô cheng”, và vì thế, thành mới của Trương Bá Nghi được gọi là “La Thành”. Tử Thành bị giặc tràn ngập 3 lần vào những năm 687, 722 và 767. Việc xây những pháo lũy ở vòng ngoài thành có mục đích ngăn ngừa những tai hoạ như thế về sau.
Việc xây La Thành được nối tiếp bằng một cố gắng phục hồi quy chế chính thức của Đô Hộ Phủ đã có trước khi xảy ra cuộc nổi loạn An Lộc Sơn. Năm 768, danh hiệu Đô Hộ Phủ lại được gọi trở lại là An Nam và chức Đô Hộ Sứ từ đó lại kiêm luôn chức Kinh Lược Sứ thay cho Tiết Độ Sứ.
Chế độ Tiết Độ Sứ tuy nhiên đã được áp đặt ở phần lớn miền Bắc, nơi mà các vụ loạn lạc lớn vẫn tiếp tục xảy ra trong suốt thập niên 780. Như thế nghĩa là chính phủ trung ương và quân đội hoàng triều cũng chỉ là một trong số những trung tâm quyền lực kình chống nhau và triều đình phải tùy thuộc vào những cuộc liên minh thay đổi giữa các trung tâm ấy. Võ đài chính là Hoa Bắc, còn miền Nam, bề ngoài vẫn trung thành với triều đình, hoặc là nếu có nổi loạn, cũng không liên quan gì đến các cuộc xung đột ở miền Bắc. Tuy nhiên, miền Nam không thể không bị ảnh hưởng bởi các lực lượng có thế lực mạnh nhất. Năm 773, một Thứ Sử châu Quảng giết viên Tiết Độ Sứ ở Quảng Châu, và thống nhất các khu vực rộng lớn ở phía Nam lại dưới quyền ông ta. Cuộc nổi loạn này bị dẹp tan năm 776, nhưng điều đó cho thấy sự bất ổn định luôn có ở phía Nam.
Kể từ khi có loạn An Lộc Sơn, quyền lực nhà Đường ở miền Nam sa sút rõ rệt. Khi các binh sĩ đồn trú ở đó được lệnh rút về Bắc thì các bộ tộc vùng núi lại tràn xuống cướp bóc và xúi dục nổi dậy. Tuy thế suốt 12 năm sau đó, Đô Hộ Phủ vẫn giữ được ổn định về chính trị và hưởng thái bình cho dù các đường bộ liên lạc với triều đình bị cắt đứt. Nhưng đến khi bị giặc biển tràn vào năm 767, Đô Hộ Phủ mới trở thành sân khấu loạn ly.
Sự ổn định lâu dài ấy có lẽ là do tài lãnh đạo của những người xuất thân từ nhứng gia đình tích cực và năng động ở miền Nam từ hơn một thế hệ trước đó như Hạ Lý Quang, làm Đô Hộ Sứ trong thời gian chiến tranh với Nam Chiếu những năm 780, và sau đó làm Tiết Độ Sứ ở Quảng Châu, là người sanh đẻ ở miền Nam, cũng như Dương Tư Húc, người đã đánh bại Mai Thúc Loan năm 722. Trương Bá Nghi dường như cũng sanh đẻ ở Nam, vì phụ thân ông là Đốc Hộ xưa kia. Cao Chính Bình, người đến cứu viện Trương Bá Nghi, năm 767 đã lập sự nghiệp ở miền Nam mà về sau này cũng được phong làm Đô Hộ Sứ. Người duy nhất trong thời gian này rõ ràng không phải sanh đẻ ở miền Nam là người Nhật Abe No Nakamaro nhưng lại là người tài năng phi thường.
Khó mà đánh giá được mức độ của cuộc nổi dậy vào năm 767 bởi vì có quá ít tài liệu còn giữ được đến nay nhưng chắc là phải có thiệt hại lớn vì trị sở của Tiết Độ Sứ phải bỏ để xây cái mới. Hơn nữa việc phải gọi quân từ ngoài đến cứu viện cho thấy là Đô Hộ Phủ đã bất lực. Mặc dầu thời gian của cuộc nổi dậy không dài, nhưng phần tư thế kỷ kế tiếp đó đã cho thấy việc cai trị của nhà Đường ở Việt Nam bị gián đoạn. Việc gián đoạn này, đầu tiên là nguyên do từ những vụ binh biến, phản loạn của binh sĩ, tức là những biến cố năm 767 ấy đã giáng một đòn nặng vào cơ cấu hành chánh làm nẩy sinh các cuộc phiêu lưu quyền lực trong giới quân sự. Những tham vọng cá nhân của các sĩ quan Đường, tuy nhiên, lại bị mau chóng thay thế bởi những cuộc nổi dậy của các lãnh tụ địa phương đang dần dần mọc rễ trong nền chính trị làng xã của xã hội Việt Nam.
PHÙNG HƯNG
Khi chế độ Tiết Độ Sứ bắt đầu được củng cố thì uy tín và hiệu năng của hành chánh dân sự lại suy tàn dần dần ở khắp Trung Quốc và các vùng bị trị. Tại An Nam, bắt đầu từ thời kỳ Hoàng Đế Ta Ly (766-78), giới quân sự bắt đầu lên giọng qua những thái độ bất phục tùng hoặc công khai phản loạn.
Một tài liệu đặc biệt kể rằng, vào năm 782, một chỉ huy quân sự ở Châu Diên là Lý Mạnh Thu và Thứ Sử châu Phong là Bi An đã nổi lên làm phản. Lý Mạnh Thu tự xưng là An Nam Tiết Độ Sứ, nhưng cả 2 đều bị bắt và bị Đô Hộ Sứ Phụ Lương Giao giết chết. Ít lâu sau, nhân lúc An Nam Kinh Lược Sứ Trương Ứng qua đời khi đang tại chức thì phụ tá của ông là Lý Nguyên Do đã cầm đầu quân sĩ và “tập hợp các châu, huyện, trở thành một tên phản loạn.” Tướng nhà Đường là Lý Phục “cảnh cáo và bắt được Nguyên Do” và “miền biên giới Nam sau đó được tôn trọng”. Từ những biến cố đó, ta thấy là quyền lực của Trung Quốc ở An Nam đã giảm xuống rõ rệt. Cá nhân các quan chức thì hành động theo ý riêng của mình mỗi khi chụp được thời cơ. Thay vì cai trị, các quan chỉ chỉ dám nhắc nhở dân chúng hãy tôn trọng đừng làm thái quá là xong. Chính trong những năm nhiễu nhương này một lãnh tụ Việt Nam có tên là Phùng Hưng đã xuất hiện.
Phùng Hưng xuất thân từ một gia đình giàu có và uy thế ở bờ Nam sông Hồng gần núi Tản Viên, phía Tây Hà Nội thuộc châu Phong. Hai Bà Trưng xưa kia cũng quê ở đó và các vua Hùng xưa cũng đã ngự trị ở đấy. Họ Phùng đã giữ chức “quan Lang” cha truyền con nối mà theo truyền thuyết Việt Nam đó là chức tước toàn do các con vua Hùng xưa kia nắm giữ. Trong thời độc lập, chức này được dùng trong giới những người Mường ở trên miền núi, tức là những người anh em họ với dân Việt Nam ở đồng bằng. Chức Quan Lang còn được dùng mãi cho đến thế kỷ 20 đến nỗi một nhà ngữ học Việt Nam đã có ý kiến rằng danh từ này là danh từ gốc Việt Nam nhưng sau người Trung Quốc du nhập vào tiếng của họ. Dù sao đi nữa, danh từ “Quan Lang” cũng tượng trưng cho một quyền hành cổ truyền liên quan đến các vua Hùng xưa khiến họ Phùng cho rằng ông ta có quyền lãnh đạo chính trị dựa trên một uy thế cha truyền con nối có từ trước thời Trung Quốc đặt ra các chế độ châu, huyện.
Theo ngôn ngữ hành chánh của Trung Quốc, Phùng Hưng được coi là “một lãnh tụ man di của một đơn vị biên phòng.” Coi như vậy là ngụ ý thừa nhận chính thức họ Phùng để đổi lấy sự trợ giúp ngõ hầu giữ được an toàn miền đồng bằng trước những sự xâm nhập từ miền núi xuống. Phùng Hưng nổi tiếng vì sức khoẻ và lòng dũng cảm của ông. Người ta đồn ông đã có lần tay không ông đánh chết một con cọp và vật ngã một con bò. Em trai ông là Phùng Hải cũng có tiếng là một đại lực sĩ. Phùng Hải có thể nhấc được một tảng đá nặng ngàn cân và vác đi xa nhiều dặm. Những người Lao ở trong núi đều phải nể sợ cái sức khoẻ của anh em họ Phùng.
Khi chính quyền dân sự bắt đầu phải nhượng bộ trước những tham vọng của giới quân sự trong những năm 770, Phùng Hưng và Phùng Hải đi từ làng này qua làng khác; đi đến đâu thiết lập quyền hành của mình đến đấy. Cuộc nổi dậy của Lý Mạnh Thu và Bi An năm 782 và của Lý Nguyên Do sau đó đã mở đường thêm cho thanh thế của an hem họ Phùng. Trong khi những quan chức Đường đầy tham vọng chỉ lo tranh chấp và bè cánh để hòng giữ được chính quyền trung ương thì các làng xã bị bỏ ngỏ không ai quản trị và anh em họ Phùng đã tiến vào một cách dễ dàng.
Sử chép rằng sau khi Phùng Hưng “thành tựu được nguyện vọng” của mình, ông đổi tên là “Đại Vương” và em ông là “Đại Lực”. Hai danh hiệu này nói lên sự cộng tác giữa khối óc và cơ bắp để mô tả mối quan hệ hỗ tương giữa hai anh em. Ý kiến này lại được tán rộng thêm trong các tài liệu về sau nói rằng Phùng Hưng tự coi mình là một “Đô Quản”, và Phùng Hải là một “Đô Báo”. Hai chức danh này được các sử gia cảm hứng văn chương thêm vào. Đô Quản là tước hiệu ở trong sách giáo khoa để gọi Vua Thuấn khôn ngoan và hiếu thảo trong huyền thoại Trung Quốc. Còn Đô Báo là một chức tước quân sự được Vương An Thạch của Trung Quốc đặt ra trong thời kỳ có những cải cách ở thời nhà Tống, thế kỷ 11.
Mặc dầu Phùng Hưng có thể đã “thành tựu được nguyện vọng của mình” nhưng ông bị đưa vào tình trạng không thể tránh được là phải mở rộng quyền hành ra trong khi nhà Đường đang co cụm lại trong Đô Hộ Phủ. Là một tướng quân cũng ở chung một quận quê của họ Phùng, khi được Phùng Hưng phong làm cố vấn quân sự, Đỗ Anh Hàn tập hợp quân và bắt đầu đi tuần tra một vùng đất ngày càng mở rộng lan sang phần nửa phía Tây của đồng bằng sông Hồng, từ châu Phong đến châu Trương. Vì dân chúng quy thuận rất đông nên uy danh Phùng Hưng vang dội khắp cả Đô Hộ Phủ và sau đó ông thông báo ý định tiến vào La Thành nơi Quan Đô Hộ lúc ấy là Cao Chính Bình, người đã đem quân xuống dẹp bọn giặc biển năm 767, đang đồn trú. Khi quân Việt Nam dưới quyền Đỗ Anh Hàn tiến tới trước La Thành, Cao Chính Bình xông ra nghênh địch nhưng bị thua, phải rút vào trong thành. Sử chép rằng, vì quá phẫn khích, buồn phiền vì việc bị bao vây này nên sau đó Cao Chính Bình bị ung nhọt trong người phát ra rồi chết.
Sau khi Cao Chính Bình chết rồi, cổng thành được mở ra và Phùng Hưng cùng mọi người ung dung tiến vào thành và sau đó lên nắm quyền kiểm soát toàn bộ Đô Hộ Phủ. Các nguồn tài liệu Việt Nam cho rằng Phùng Hưng lên làm vua được 7 năm và người kế vị ông cai trị được thêm 2 năm cho đến 791. Tính tổng cộng như thế là 9 năm từ khi triều đại Phùng Hưng bắt đầu từ năm 782, năm mà cuộc bạo loạn quân sự bị dẹp yên bởi Đô Hộ Phủ tướng quân trước khi Phùng Hưng vào La Thành. Con số 7 năm trị vì là một thành quả to tát đối với sự nghiệp của một lãnh tụ nông thôn kể từ khi ông “thành tựu mọi nguyện vọng”.
Sau khi Phùng Hưng qua đời vào năm 789, dân chúng thấy có nhiều chuyện linh thiêng xảy ra và tin rằng đó là vong linh của Phùng. Tất cả dân gian đều tin rằng Phùng Hưng thường hiện về trong những giấc mơ của họ để đặc biệt loan báo cho họ biết trước những chuyện vui mừng. Họ xây một ngôi đền thờ ông ở phía Tây La Thành và nơi đó, ai cầu mưa là có mưa ngay. Mỗi khi có thiên tai đại họa thì sử chép
mọi người đều đến đền thờ ông cúng lễ cầu ông về che chở. Dân chúng lại thường hay đến đây thề nguyện và thường được ngay một dấu hiệu báo cho thái độ phải cư xử ra sao về sau. Lại cũng chép rằng những thương nhân đến cầu xin ông cho buôn bán có lời, đều được thoả mãn cả và ngày nào cũng có người đem đồ cúng đến lễ tạ. Tương truyền rằng con đường dẫn vào đền luôn luôn đông người ra vào tấp nập và trong đền, hương khói lúc nào cũng nghi ngút. Việc sùng kính Phùng Hưng sau khi ông mất như thế chứng tỏ ấn tượng tốt đẹp Phùng Hưng đã để lại trong tâm khảm người Việt như thế nào.
Một nhà phê bình vào thế kỷ 18 đã viết: ” Phùng Đại Vương là một người khác thường; một người khác thường phải có những trường hợp khác thường; và những trường hợp khác thường phải có tay một người khác thường. Hãy để ý đến sức mạnh của ông tay không đánh cọp, và tinh thần của ông, khi đói có thể ăn hết được một con bò. Ông chỉ đơn giản được người ta phục lòng vì khiếp sợ sức khoẻ của ông. Nếu ông không có tài vượt lên trên người tầm thường, làm sao ông có thể thành tựu được những gì ông đã thành tựu? Khi cái chết của Cao Chính Bình được loan báo, ông thong thả kéo vào thành như đi chơi. Ông tập hợp cờ xí của 70 pháo lũy và vượt qua cả ngàn dặm đường một cách oai nghi hùng dũng. Ông có vẻ mặt hiên ngang và một lòng tự tin vô bờ bến. Ông nắm vận mệnh ông trong tay và vùng lên giống như Triệu và Lý. So với Phùng Hưng thì Mai Hắc Đế chỉ là một thứ thủ lãnh nửa vời, lấy được có một châu, làm sao mà sánh với ông được?”
Không cần biết đến mức chính xác lịch sử của lời phê phán này ra sao; hãy biết nó đem lại một ít hiểu biết là Phùng Hưng đã được coi trọng như thế nào trong con mắt của những nhà viết sử Việt Nam sau này khi họ so sánh ông với các lãnh tụ khác trong thời gian Trung Quốc cai trị. Việc nhắc đến Triệu và Lý, là nhắc đến Triệu Quang Phục và Lý Phật Tử. Cả hai cũng như Phùng Hưng, đều quê ở đồng bằng sông Hồng. Ý kiến cho rằng 3 người ấy đều giống nhau là ý muốn nói đến cái tiêu chí của thế kỷ 18 về sự lãnh đạo quốc gia mà mỗi ông đều có. Cả ba đều quen thuộc với những truyền thống chính trị của xã hội Lạc Việt từ thời tiền Bắc Thuộc: Triệu Quang Phục và Lý Phật Tử với huyền thoại cái móng rồng, Phùng Hưng với danh hiệu quan Lang. Còn Mai Thúc Loan hay Mai Hắc Đế không có liên hệ gì đến những truyền thống đó cả. Ông đến từ một huyện biên thùy xa xôi, lãnh đạo một đám người hỗn loạn từ nước ngoài đến.
Phùng Hưng được các sử gia Việt sau này công nhận như một anh hùng chính thống trong hùng sử Việt Nam. Phùng Hưng không thể được đánh giá đơn thuần là một người nổi dậy gặp thời trong trò chơi chính trị cơ hội mà thật ra ông đã xuất thân từ con nhà võ và biết sử dụng tài năng quân sự của các thuộc hạ. Họ mang tước hiệu cha truyền con nối liên quan đến truyền thống xa xưa của dân tộc. Họ đạt được thành công là do khéo hướng được trọng tâm của văn hoá bản xứ vào vũ đài chính trị. Phùng Hưng thành công ở những nơi mà các quan chức Đường triều bị cô lập hay các chỉ huy quân sự bị thất bại. Sự thành công của Phùng Hưng được căn cứ trên một phong trào nông dân rộng rãi mọc lên từ tư duy chính trị làng xã thay vì là mưu lược của những người mạo hiểm quân sự. Phùng Hưng và em ông, Phùng Hải đều nổi tiếng về sức khoẻ vô địch, một phẩm chất mà các nông dân đều nể phục. Việc thờ cúng ông về sau là nhân chứng cho cái hình ảnh đầy quyền lực mà sự nghiệp ông để lại trong thâm tâm dân chúng.
Sau cái chết của Phùng Hưng, dân muốn đưa em ông là Phùng Hải lên kế vị nhưng Bồ Phá Lạc, một phụ tá của Phùng Hưng trước đó phản đối. Cùng quê quán với anh em Phùng Hưng, Bồ Phá Lạc cũng là người dũng cảm và có sức khoẻ phi thường. Bồ Phá Lạc ủng hộ việc đưa con trai của Phùng Hưng là Phùng An lên kế vị và kêu gọi dân chúng nổi lên chống lại khiến Phùng Hải phải bỏ trốn vào núi rồi mất tung tích.
Lên kế vị cha, Phùng An tôn vinh và truy tặng Phùng Hưng tước hiệu “Bố Cái Đại Vương”. Thế kỷ 8 ở Việt Nam, theo Việt Điện U Linh Tập, Bố nghĩa là cha, Cái là mẹ – Bố Cái Đại Vương là “Vị Vua Cha Mẹ của Dân”. Tư duy về một người cai trị giỏi được coi như cha và mẹ của dân là lấy từ sách của Mạnh Tử, nhà đại hiền triết Trung Quốc thời cổ. Những người Việt Nam có học ở thời Đường đều biết tiếng Mạnh Tử. Ở Mạnh Tử, họ rút ra những bài học luân thường đạo lý lên án những điều cai trị sai trái mà họ đã phải trải nghiệm dưới ách thống trị của Trung Quốc. Ví dụ như có lần Mạnh Tử hỏi vua: ” Có gì khác biệt không giữa việc giết chết một người bằng một luỡi gươm với một việc cai trị sai trái ?” Khi nhà vua trả lời là không có sự khác biệt nào, Mạnh Tử nói tiếp :” Có thịt ngon ở trong bếp và có ngựa béo ở trong chuồng của bệ hạ, nhưng thần dân của bệ hạ lại bị nạn đói, và ở ngoài đồng có người chết đói làm mồi cho thú vật. Nếu bệ hạ là cha mẹ dân mà lại để cho thú vật ăn thịt thần dân thì bệ hạ có còn đáng được coi là cha mẹ dân chăng ?”
Nhiều người Việt Nam có thể đã cảm thấy rằng dưới ách đô hộ của nhà Đường, họ đang bị “giết lần biết mòn bởi chế độ cai trị sai trái”. Có lẽ vì thấm nhuần những lời dạy của thày Mạnh Tử nên việc một người cai trị giỏi là “cha mẹ dân” nhiên hậu là điều hấp dẫn đối với họ trên hết.
Ta hãy đọc một đoạn văn khác của Mạnh Tử : ” Khi một người cai trị được gọi là “cha mẹ dân” mà khiến cho dân phải mang bộ mặt đau khổ ưu phiền vì họ phải cực khổ quanh năm mà không thể nuôi dưỡng được cha mẹ, hoặc phải đi vay mượn để sống qua ngày, và kết cục là cha mẹ già và con trẻ dại bị bỏ chết ngoài cống, ngoài đê, thì làm sao có thể gọi được người ấy là cha mẹ dân ?”
Đoạn văn như thế có ý nghĩa rất sát với hoàn cảnh của người Việt Nam khi thói tham ô và sự cai trị hà khắc của các quan chức Trung Quốc đang ảnh hưởng trực tiếp trên đời sống của dân chúng Việt Nam. Lời dạy sâu sắc của thày Mạnh Tử đã cho họ thấy nỗi bất bình của họ là có lý theo đúng ý nghĩa của bài học luân lý giáo khoa ấy.
Một đoạn thứ 3 nữa của Mạnh Tử viết: ” Kể từ khi có nhân loại, chưa ai từng thành công trong việc xui con cái đánh lại cha mẹ. Xét như thế, người nào được dân coi như cha mẹ mình sẽ không có kẻ thù; người nào đã không có kẻ thù, ở trong quốc gia đó chính là người thừa hành mệnh trời. Trong trường hợp một người xứng đáng như thế nhất định phải làm vua.”
Những lời giáo huấn về một người cai trị giỏi mang một ý nghĩa đặc biệt đối với người Việt Nam trong thời kỳ Trung Quốc cai trị. Chúng ta đã thấy khi Đào Hoàng, một Thứ Sử nhân từ và tài năng ở cuối thế kỷ 3 qua đời, người Việt đã để tang ông như “để tang cha mẹ mình”. Tước hiệu truy phong cho Phùng Hưng khiến ta nghĩ rằng lý thuyết về cái ân tình vua đối với dân như cha mẹ đối với con cái đều được mọi người hiểu rõ cả bởi vì “bố” và “cái” là những từ bản xứ của Việt Nam được viết bằng chữ Hán thích hợp. Đấy là thí dụ xưa nhất của chữ Việt cổ, tức là chữ Nôm.
Từ “Nôm” được kết hợp bằng hai chữ Hán, chữ “Nam” và chữ “mồm”, tức là phương pháp có từ ngày xưa cũ còn tồn tại đến đó để chuyển tiếng Việt ra thành chữ viết: “Nôm”. Áng văn bằng chữ “Nôm” cổ nhất còn giữ lại được đến này là vào thế kỷ 13. Rõ ràng là cho đến khi đó, chữ Nôm đã được trải qua nhiều thế kỷ cải tiến. Trong phần 7, chúng ta sẽ thấy một thí dụ chữ Nôm viết ở thế kỷ 10 và ta thấy có lý khi nghĩ rằng chữ Hán được dùng để phiên âm tiếng Việt có từ đầu thế kỷ 8, và những chữ Hán tượng trưng cho “bố” và “cái” không có liên quan gì về nghĩa với tiếng Việt, nhưng mà là chữ phiên âm rất đúng. “Bố” và “Cái” nay không còn dùng trong tiếng Việt hiện đại nữa. Đó là từ ngữ cũ rất hiện hành ở thế kỷ 8. Từ “Bố” ngày nay có thể vẫn còn được dùng với nghĩa là “Cha”, nhưng “Cái” đã tiến hoá đến nay chỉ còn dùng như mạo từ chỉ giống cái. Rất có thể đó là kết quả của sự xói mòn chế độ mậu hệ của Việt Nam qua bao thế kỷ sau này dưới ảnh hưởng phụ hệ của Trung Quốc.
Dân chúng Việt Nam đã không gọi Phùng Hưng là “Phụ Mẫu Đại Vương”, với Phụ tiếng Hán là Cha, và Mẫu là Mẹ nhưng thay vào đó ông được nhớ đến bằng một từ ngữ đã ăn sâu vào tiếng mẹ đẻ Việt Nam vẫn được sử dụng đó là “Bố Cái Đại Vương”. Như thế có nghĩa là những lời dạy của Mạnh Tử, một người Trung Quốc, được phổ biến giữa những người Việt có học nhưng nó đã được xác định rõ thêm bằng những điều thuộc về di sản văn hoá riêng của Việt Nam.
Tiếng Việt Nam “Vua” có nghĩa là một nhà cai trị hành động theo những phong tục và truyền thống đã có sẵn của dân chúng. Đó là một từ mang một ý nghĩa thân mật diễn tả quan hệ sâu xa giữa người cai trị với những thần dân trong nước. Trong khi đó, dưới con mắt của người Việt thì từ “Vương” hay “Đế” của Trung Quốc ngụ ý một thứ lễ nghi trịnh trọng, một nhiệm vụ được ủy thác quyền cai trị từ trên thiên đình mà chẳng có chút liên hệ tình cảm nào với dân chúng.
Đúng ra tước hiệu truy phong cho Phùng Hưng có danh từ “Vương” vì từ “Vua” chưa xuất hiện cho mãi tới thời kỳ độc lập sau này. Từ ngữ “bố cái” trong một bối cảnh chính trị, tuy nhiên, đã phản ánh một giai đoạn trong sự phát triển của quan niệm “vua” mà chỉ thấy ở nhiều thế kỷ sau. Ta thấy rõ điều này trong tiếng Nôm, từ “vua” là kết hợp của chữ Hán “vương” với chữ nôm “bố” thành “vua bố”.
Năm 1329, khi một quan đại thần khuyên vua Trần Minh Tông của Việt Nam không nên đem quân đi chinh phạt những bộ tộc miền núi vì họa cướp bóc, mà nên tấn công Champa, vì ông quan đại thần ấy tin rằng sẽ ít rủi ro hơn và có lợi nhiều hơn, thì vua Trần Minh Tông trả lời như sau: “Trẫm là cha mẹ của dân. Nếu dân đau khổ, Trẫm có bổn phận phải giúp đỡ chứ làm sao Trẫm có thể đem so sánh cái dễ với cái khó, cái lợi với cái bất lợi được ?”
Vua Trần Minh Tông đã gạt bỏ sang bên những điều phàm tục, thắng thua lợi hại, khi gợi ra những lý tưởng của một vị vua có trách nhiệm như một bậc cha mẹ có trách nhiệm bảo vệ con cái. Lý tưởng này được diễn đạt như một nguyên tắc chính thống để chứng minh cho uy quyền của vua. Cũng lý tưởng ấy đã được lấy làm căn bản khi truy phong tước hiệu “Bố Cái Đại Vương” cho Phùng Hưng. Đó cũng chính là sự đáp ứng và kết hợp hài hòa văn hóa Việt Nam đối với những kinh nghiệm mà họ gặt hái được dưới ách đô hộ của Trung Quốc.
Năm 791, Hoàng Đế Tề Tông nhà Đường ra lệnh lập một đạo quân lấy tên là “Nhu Viễn Quân” (Quân để Chinh Phạt những nơi xa bằng sự Hoà Nhã) và bổ nhiệm Triệu Xương làm An Nam Đô Hộ Sứ. Khi Triệu Xương đem quân vượt qua biên giới An Nam, ông sai sứ giả mang phẩm vật đến Phùng An để báo trước là ông đến. Phùng An bèn sắp đặt để chuyển giao quyền hành êm thấm và sau đó họ Phùng giải tán. Kỷ nguyên Phùng Hưng là một bước ngoặt của lịch sử Việt Nam dưới thời Đường. Việc được xem quyền hành của vương triều mờ dần và hình ảnh của một anh hùng quê hương là điều sẽ không bao giờ phai nhòa trong trí óc của người Việt Nam. Các quan Đường sẽ không bao giờ có thể tiếp tục được nữa những chính sách bóc lột mà không bị phản đối. Từ đó người Việt Nam không còn e sợ sức mạnh của Bắc triều, và sau đó họ còn đòi được thừa nhận như một dân tộc riêng biệt nhiều hơn nữa. Các quan chức Đường, nói chung, đều sẵn sàng thừa nhận điều đó bởi vì vương triều sẽ không còn đủ mạnh nữa để làm khác đi được. Trong suốt thế kỷ 9, rất nhiều lần các quan lại nhà Đường đã được dịp lựa chọn hoặc là thích nghi với địa phương hoặc là bỏ trốn về Bắc cho an toàn.
Trong hai thế kỷ 7 và 8, người Việt Nam đã chứng kiến các cuộc phô trương quyền hành và sức mạnh quân sự của Trung Quốc. Năm 687, quyền lực và sức mạnh quân sự ấy của Đường triều đã giúp dẹp tan được một cuộc nổi loạn của nông dân; năm 722 lại đối phó thành công được với một lực lượng lơn vượt qua biên giới đến khuấy rối. Tuy nhiên, sự suy yếu của Đường trong phần 2 của thế kỷ 8 mở đường cho cuộc đấu tranh văn hoá bản xứ và một lần nữa, quyền hành ấy lại mờ nhạt để từ đó những quan niệm địa phương được dịp nổi lên.
Năm 792, sau khi tái lập được quyền hành của nhà Đường tại An Nam, Tiết Độ Sứ ở Quảng Châu tâu về Bắc triều như sau: “Gần đây, những tầu buôn chở những đồ hàng quý hiếm đã đổi bến xuống các chợ ở An Nam. Tâu xin bệ hạ ra chiếu chỉ đóng cửa các chợ ấy và gửi một sứ giả xuống giải quyết việc này”.
Triều đình sắp chuẩn tâu thì một quan đại thần tâu: “Những thương nhân ở các vương quốc xa xôi chỉ đi tìm lợi. Nếu được đối đãi tử tế, họ sẽ tìm đến; nếu bị quấy rối, họ sẽ bỏ đi. Trước kia châu Quảng là nơi tụ hội của các tàu buôn ấy; nay bỗng nhiên họ lại đổi bến xuống An Nam. Nếu xoá bỏ được những chuyện cưỡng đoạt hàng hoá, v.v. như đã xảy ra rất lâu trước đây thì những thương buôn đã đi nơi khác hà tất lại tìm về. Đấy không phải là vấn đề kiện cáo, mà là vấn đề thay đổi thái độ của các quan chức của ta”.
Đến đầu thế kỷ 9, Quảng Châu lấy lại được địa vị của nó là một cảng phồn thịnh ở miền Nam. Tuy nhiên, cần hiểu rằng An Nam đã thu hút được một phần lớn thị trường hàng hải là vì bán buôn tự do không bị vương triều khống chế, và đó cũng là một dấu hiệu tốt và có ý nghĩa đối với vai trò của Việt Nam trong vùng Đông Nam Á. Sự tiếp xúc giữa người Việt với các vùng biển Nam Hải trong một khung cảnh hoạt động tự nhiên, tự nó đã mạnh lên khi quyền hành vương triều suy yếu. Xét như vây, ta hiểu ngay tại sao các thương nhân lại đến cầu khẩn Bố Cái Đại Vương xin được lời lãi nhiều mà không bị thất vọng bao giờ. Kỷ nguyên Phùng Hưng là một kỷ nguyên thịnh vượng cho người Việt Nam.
Khác hẳn với Dạ Trạch Vương Triệu Quang Phục của thế kỷ 6, Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng không nêu lên những biểu tượng cũ hay không khuấy động các thần linh xưa. Thay vào đó, ông được tôn trọng do sức mạnh đáng nể phục của ông; quan hệ giữa ông và các thuộc hạ được lý tưởng hoá như thể giữa cha và con. Sau khi trải qua một thế kỷ dưới ách thống trị của Đường, người Việt Nam không còn cảm hứng để hành động theo những lời kêu gọi đến các truyền thống huyền thoại. Tất cả điều họ muốn là một người cha và một người mẹ luôn sẵn sàng săn sóc và bảo vệ họ. Những gì trong văn hoá Việt Nam mà không trực tiếp củng cố công cuộc đấu tranh giành độc lập của họ khỏi gọng kềm đô hộ phương Bắc đều trở nên không cần thiết chút nào nữa vào cuối đời Đường. Đồng thời, khía cạnh văn minh nào của Trung Quốc mà giúp người Việt Nam tăng cường được cảm nghĩ bén nhạy đều được họ du nhập và phát huy. Vì thế, như chúng ta đã thấy, huyền tích móng rồng đã được thay thế bằng những giáo huấn của Mạnh Tử về một nền cai trị giỏi.
Kỷ nguyên Phùng Hưng lại chứng kiến sự bành trướng mới từ các tiếp xúc thương mại hàng hải ở An Nam. Địa vị của Quảng Châu từng là hải cảng quan trọng trên biền Đông đã bị An Nam làm lu mờ vào giữa thế kỷ 8. Lý do là những chính sách thuế má quá tham lam của các quan chức ở Quảng Châu đối với những thương nhân nước ngoài đến buôn bán tại đó. Khi sự kiểm soát của bắc triều suy yếu thì những người có uy tín ở địa phương sẽ nhanh chóng chụp lấy cơ hội bằng vàng có được trong nền thương mại quốc tế ấy. Năm 758, Quảng Châu bị cướp phá bởi một cộng đồng lớn người Ả Rập và người Ba Tư để trả thù thói nhũng lạm tồi tệ của các quan chức Trung Quốc.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét