Thứ Sáu, 10 tháng 2, 2023

Món nợ với miền Tây

Món nợ với miền Tây
10/2/2023, Câu chuyện bên bàn trà của ông Hai Nghĩa với nhóm bạn già thường xoay quanh dòng xe cộ rồng rắn nhích từng chút một trên đường. Nhà ông Hai Nghĩa nằm ngay cạnh Quốc lộ 1, đoạn "thắt cổ chai" của Tiền Giang, một trong hai tỉnh miền Tây nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, nối kết với TP HCM và miền Đông Nam Bộ. Từ thềm nhà mình, ngày nào ông Hai cũng thấy cảnh xe cộ húc vào đuôi nhau, nghe tiếng xe din dỉn chờ thoát nghẽn.

Trần Hữu Hiệp, Tiến sĩ Kinh tế, Thạc sĩ Luật học
Hơn 20 năm trước, khi tuổi ngoài 60, ông Hai đã lặn lội sang Vĩnh Long, chứng kiến sự kiện lịch sử - khánh thành cầu Mỹ Thuận - cây cầu dây văng đầu tiên vượt sông Tiền. Hơn 10 năm trước, ông cùng mấy bạn già lại qua Cần Thơ xem khánh thành cây cầu thứ hai vượt sông Hậu.

Nay tuổi đã ngoài 80, ông Hai Nghĩa đọc báo, xem đài, nghe các lãnh đạo Trung ương, địa phương hứa làm đường, xây cầu cho xứ này mà phấn khởi. Nhưng mấy ông già vẫn lo, chưa biết cầu, đường có chịu "chạy theo kế hoạch" như lời lãnh đạo, hay sẽ ì ạch như tiến độ cao tốc Trung Lương - Mỹ Thuận, 13 năm mới hoàn thành. Liệu giấc mơ ngó một bức tranh giao thông đẹp hơn của người cao tuổi như ông Hai có thành xa xỉ?

Giao thông là huyết mạch để phát triển miền Tây. Đầu vào qua đây, từ thu hút đầu tư, phát triển giao thương, văn hóa, du lịch, mà đầu ra cũng là đây. Phát triển hạ tầng giao thông chính là mệnh lệnh phát triển vùng. Nhưng ĐBSCL vẫn đang đói cao tốc, khát đường giao thông, lòng thòng các nút thắt cổ chai. Chưa giải quyết được những cơn đói khát đó, thì vùng trọng điểm nông nghiệp, thủy sản lớn nhất nước vẫn là vùng trũng.

Không phải đến bây giờ vấn đề này mới được nhận diện. Cách đây 20 năm, cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt từng nêu ra "ba điểm nghẽn phát triển vùng" là giao thông, thủy lợi và nguồn nhân lực. Cố Thủ tướng Phan Văn Khải đã chỉ đạo "ba khâu đột phá" phát triển, trong đó có Quyết định 344/2005 phê duyệt kế hoạch phát triển giao thông vận tải vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020.

Những năm gần đây, nhiều công trình trọng điểm đã được đầu tư. Hệ thống đường bộ, đường thủy, hàng hải và hàng không, các trục dọc, đường ngang, cầu vượt sông lớn như Mỹ Thuận, Cần Thơ, Rạch Miễu, Vàm Cống, Cao Lãnh, Đầm Cùng, Năm Căn... đã tạo ra mạng lưới giao thông tốt hơn. Nhưng nhìn tổng thể, so với yêu cầu "giao thông đi trước mở đường" thì hạ tầng vùng này vẫn đang yếu kém.

Chính phủ qua nhiều nhiệm kỳ vẫn mang một "món nợ" với dân đồng bằng.

Làm gì để vượt qua điểm nghẽn; nguồn vốn, chương trình, dự án nào cần ưu tiên và triển khai ra sao... là những câu hỏi lớn cần lời đáp thuyết phục. Phát triển giao thông ĐBSCL cần giải quyết được ba nút thắt là thiếu vốn, thi công chậm tiến độ và đầu tư không đồng bộ theo kiểu "ngắt khúc".

Vốn là vấn đề lớn nhất và ảnh hưởng chi phối tới tiến độ thi công. Với diện tích tự nhiên 40.000 km2, bao gồm 13 tỉnh, ĐBSCL chiếm gần 12% tổng diện tích của Việt Nam. Có vị trí chiến lược quan trọng khi nằm liền kề TP HCM và vùng Đông Nam Bộ, khu vực này đóng góp một nửa sản lượng lúa, 95% lượng gạo xuất khẩu, 65% sản lượng thủy sản nuôi trồng, 70% các loại trái cây của cả nước. Nhưng cả vùng chỉ có khoảng 90 km đường cao tốc, tức là chưa bằng một nửa số km đường cao tốc của riêng tỉnh Quảng Ninh, và chỉ chiếm khoảng 7% của cả nước (1.239 km).

Theo báo cáo của Bộ Giao thông Vận tải, giai đoạn 2011-2015, tổng số vốn đầu tư cho hạ tầng giao thông ở ĐBSCL bằng 12,5% vốn đầu tư của cả nước. Giai đoạn 2016-2020, cả vùng nhận được 65.000 tỷ đồng (tương đương trên 15% của cả nước).

Giai đoạn 2021-2025, vốn ngân sách trung ương đầu tư cho ĐBSCL là 86.000 tỷ đồng, chiếm 14% so với cả nước. Con số cho thấy phần nào ưu tiên của chính phủ dành cho miền Tây. Nhưng các dự án giao thông trọng điểm sử dụng nguồn vốn đầu tư lớn diễn ra trên địa bàn rộng, liên quan giải phóng mặt bằng, đòi hỏi thời gian triển khai dài. Trong khi vật giá, vật tư, xăng dầu tăng đột biến có thể đẩy tổng mức đầu tư dự kiến lên cao, lặp lại vấn đề chậm tiến độ như trước. Do vậy, ngoài nguồn vốn của Trung ương, cần phải lồng ghép các nguồn vốn đầu tư công khác cũng như tạo lực thu hút vốn đầu tư xã hội.

Đồng bằng hiện chưa có tuyến đường sắt nào trong khi hệ thống đường bộ và đường thủy manh mún, thiếu liền mạch. Đây là hệ quả của quá trình đầu tư không đồng bộ. Vì vậy, trong quá trình triển khai giai đoạn 2021-2025 cần dựa trên cơ chế điều phối liên kết vùng về giao thông, ưu tiên các dự án liên tỉnh, liên kết nội vùng và liên vùng, đặc biệt với TP HCM và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam.

Để làm được điều này, vai trò và hiệu quả hoạt động thực chất của Hội đồng điều phối vùng là yếu tố rất quan trọng. Hội đồng, nếu đảm nhận đúng chức năng, sẽ đảm bảo để nguồn vốn không bị "rải mành mành" và chia cắt bởi ranh giới hành chính tỉnh, đồng thời có cơ chế kiểm soát để đảm bảo chất lượng và tính minh bạch.

Bài học về các dự án giao thông trọng điểm chậm tiến độ như cao tốc Trung Lương - Mỹ Thuận, Bến Lức - Long Thành vẫn còn nguyên giá trị. Bài học về lời hứa và "món nợ" dân đồng bằng của các chính phủ tiền nhiệm vẫn cần được nhắc lại để nhiệm vụ nâng cấp hạ tầng cho miền Tây không dừng lại ở quyết tâm và hứa hẹn.

Trong số các công trình hạ tầng trọng điểm, ông Hai Nghĩa quan tâm đến hai dự án quan trọng là Cao tốc Bắc - Nam phía Đông đoạn Cần Thơ - Hậu Giang - Cà Mau, khởi công đầu năm nay và Cao tốc Châu Đốc - Cần Thơ - Sóc Trăng, khởi công trong 2023.

Những dự án này sẽ góp phần mở ra những không gian kinh tế mới, giảm tải giao thông cho quốc lộ 1A trước nhà ông. Tuổi ngoài 80, ông Hai không hy vọng còn đủ sức để lặn lội đi coi cao tốc khi nó hoàn thành như hai đận trước. Nhưng ông mong, tới lúc đó, từ thềm nhà mình, ông không còn phải chứng kiến cảnh xe cộ ùn ùn tắc nghẽn như bấy nay.

Trần Hữu Hiệp
https://vnexpress.net/mon-no-voi-mien-tay-4568052.html
--------------------

Miền Tây muốn thoát nghèo
3/11/2022, Anh Toàn, ở Kiên Giang, có hai con đều là sinh viên một trường đại học tư thục. Một cháu chọn cơ sở TP HCM theo sở thích, với định hướng ra trường làm việc tại trung tâm kinh tế lớn nhất nước.

Cháu còn lại chọn campus Cần Thơ vì muốn học gần nhà, ra trường sẽ ở lại Cần Thơ, làm việc tại Phú Quốc hoặc một tỉnh đồng bằng.

Làm bài toán đơn giản, anh chỉ tốn 50% mức đầu tư khi cho con học tại Cần Thơ, nhờ phí sinh hoạt rẻ hơn và chính sách giảm 40% học phí cho cơ sở Cần Thơ trong hệ thống giáo dục này.

Hiện nay, người học có thể chọn lựa bất kỳ đại học nào ở miền Tây thay vì mất 4-6 năm khăn gói lên TP HCM. Các trường ở ĐBSCL đào tạo đủ chuyên ngành, từ nông nghiệp, thủy sản, kinh tế, luật đến y dược, kiến trúc, bách khoa, công nghệ thông tin; thậm chí là những chuyên ngành hiếm như trí tuệ nhân tạo, ngôn ngữ, văn hóa Khmer, ngôn ngữ Nhật, Hàn. Một hệ sinh thái đại học đồng bằng đang hình thành ở vùng trũng giáo dục và đào tạo của cả nước nhiều năm qua.

Trong lịch sử 300 năm mở cõi ở vùng đất mới phương Nam, mãi đến 1966, cơ sở đào tạo đại học đầu tiên mới được thành lập là Viện Đại học Cần Thơ. Nếu như đến đầu năm 2000, toàn vùng chỉ có Đại học Cần Thơ, thì nay đã có 19 trường, 5 phân hiệu đại học phủ gần hết các địa phương trong vùng. Mới đây, bốn trường: Bách khoa, Kinh tế, Nông nghiệp, Khoa học Xã hội và Nhân văn thuộc Đại học Cần Thơ được thành lập theo mô hình đại học có các trường thành viên. Chỉ riêng TP Cần Thơ đã có sáu trường đại học công lập, hai trường tư thục và hai phân hiệu đại học; Vĩnh Long và Long An mỗi địa phương hai trường.

Tuy nhiên, so với các vùng, miền khác, ĐBSCL vẫn "còn trũng" về nhân lực. Chỉ số thống kê cho thấy, toàn vùng chỉ có hơn 160,6 nghìn sinh viên, chiếm 8,4% cả nước, đạt khoảng 9,2 sinh viên/1.000 dân, thấp hơn nhiều so bình quân chung cả nước (19,4/1.000 dân). Con số này ở Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Hồng lần lượt là 35,6 và 33,4.

"Độ trũng" về chất lượng nhân lực vùng ĐBSCL đã được nhận diện từ lâu, nhưng chưa được cải thiện trong bảng xếp hạng các vùng miền, nguy cơ sẽ bị bỏ xa hơn. "Vựa lúa gạo, trái cây, thủy sản" này có tỷ lệ lao động đã qua đào tạo thấp nhất trong sáu vùng kinh tế xã hội của cả nước, chỉ chiếm 14,1%, so với bình quân cả nước là 26,1%. Trong khi tỷ lệ lao động thất nghiệp chiếm 4,05% và thiếu việc làm 4,33%, cao hơn bình quân chung cả nước là 3,2% và 3,1%.

Đó có thể là hệ quả của số lượng doanh nghiệp vùng ĐBSCL thấp, mới đạt 3,6 doanh nghiệp/1.000 dân, chỉ cao hơn vùng Trung du và miền núi phía Bắc (2,8); thấp hơn cả Tây Nguyên (3,9), kém xa so bình quân chung cả nước (8,7) và vùng Đông Nam Bộ (19,3).

Báo cáo Kinh tế thường niên ĐBSCL năm 2022 nêu ra "ba vòng xoáy đi xuống" của vùng đất giàu tiềm năng, nhiều thách thức này là: vòng xoáy ngân sách, vòng xoáy lao động và vòng xoáy cấu trúc kinh tế vùng.

Vòng xoáy ngân sách chính là thiếu đầu tư tương xứng của Nhà nước thời gian dài cho các khâu then chốt trong phát triển vùng, đặc biệt là hạ tầng giao thông, logistics. Vòng xoáy lao động là tình trạng thiếu việc làm tại chỗ, người trẻ tuổi bị "đẩy" ra khỏi vùng, lên TP HCM và các tỉnh Đông Nam Bộ, dẫn đến sự suy giảm trầm trọng số lượng lẫn chất lượng lao động. Kết quả Tổng điều tra dân số, nhà ở năm 2019 chỉ ra, trong 10 năm đã có hơn 1,3 triệu người ĐBSCL xuất cư. Và vòng xoáy cơ cấu kinh tế vùng được cho là sự "thiên lệch" trong việc thực thi "sứ mệnh an ninh lương thực". Cả ba vòng xoáy này đều liên quan đến chất lượng nguồn nhân lực.

Sự chuyển đổi kinh tế ở các địa phương thời gian qua chưa tạo được nhiều việc làm cho đại bộ phận người dân. Thiếu việc làm nông thôn, thu nhập thấp, thiếu đất sản xuất, lao động chưa qua đào tạo và sinh kế khan hiếm là nguyên nhân "đẩy" lao động nông thôn ra khỏi khu vực truyền thống một cách chông chênh, khiến nhiều người bấp bênh nơi đô thị

Đường lên nào trước "ba vòng xoáy đi xuống"?

Theo tôi, cần sự "chuyển hướng chiến lược" trong tư duy phát triển vùng, từ "khai thác tối đa tiềm năng, thế mạnh" sang "thích ứng thuận thiên", phục hồi và tăng cường "sức khỏe" cho đồng bằng; lấy con người làm trung tâm, coi tài nguyên nước là cốt lõi trong suốt quá trình phát triển. Cùng với vấn đề phát triển cốt lõi của vùng ĐBSCL là định vị vùng, bố trí không gian và huy động các nguồn lực, phải có những ưu tiên đột phá cho nguồn nhân lực.

Những điểm sáng về một hệ sinh thái đại học ở đồng bằng nêu ở đầu bài cần được phát huy. Nhưng đại học chỉ là một cánh cửa vào đời cho người học. Bên cạnh giáo dục đại học, cần tăng tốc đào tạo nghề đáp ứng nhu cầu xã hội và xây nền về giáo dục phổ thông, mẫu giáo, mầm non.

Con đường thoát nghèo căn cơ của mỗi người, mỗi nhà, mỗi địa phương chắc chắn liên quan chặt chẽ với cơ chế, chính sách thu hút đầu tư, phát triển kinh tế, giải quyết việc làm.

Cuộc chiến chống lại sức hút vào vùng trũng nhân lực của miền Tây Nam Bộ rất cần được tăng tốc với cách làm hiệu quả hơn. ĐBSCL phải được kiến tạo lại mạnh mẽ bằng chính những con người của mảnh đất này, nhưng đã được trao thêm sức mạnh của tri thức và kỹ năng.

Trần Hữu Hiệp
https://vnexpress.net/mien-tay-muon-thoat-ngheo-4530774.html

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét