Thứ Bảy, 8 tháng 10, 2022

Hồ Tây… thời khổ

Nhà tôi nhiều đời gốc Hà Nội, nguyên quán ở làng Hoàng Mai, anh em họ hàng sống trong làng và trong các phố Bạch Mai, Trương Định nơi có Chợ Mơ một thời vang bóng. Những năm 1960 và 1970 mỗi lần được đi tầu điện lên Công viên Bách Thảo và Hồ Tây chơi là một lần tôi vô cùng sung sướng. Thế nên năm 2000 khi có tiền, tôi đã mua một mảnh đất gần Hồ Tây và xây một ngôi nhà 5 tầng khá to, có tới hơn chục phòng và sân rộng, tính sau này cả nhà sống ở đó để hưởng thụ không khí trong lành của Hồ Tây. Tiếc rằng người tính không bằng trời tính. Vợ và các con tôi quyết định định cư hẳn ở nước ngoài và không về nữa. Ngôi nhà quá rộng nên tôi cũng không thể ở. Bây giờ tôi sống trong căn hộ tầng 22, cũng gần Hồ Tây và các phòng đều có cửa sổ trông ra Hồ Tây. Chỉ tiếc bây giờ Hồ Tây không còn giống Hồ Tây khi xưa nữa. Hồ Tây bây giờ thối hoắc và bẩn thỉu quanh năm; ở đâu cũng thấy mùi nước hồ, mùi nước cống và mùi tôm cá chết hôi hám. Đường ven hồ chật hẹp, hàng quán bán khắp nơi. Người câu cá trộm, người tham gia giao thông, người sống ven hồ, thực khách của các nhà hàng, nhân viên trông xe và bảo vệ các nhà hàng... rất đông và sẵn sàng cãi lộn, chửi bới và đánh nhau. Thế nên dù đang sống gần Hồ Tây, dù đã từng mơ ước mỗi ngày được thể dục đi bộ quanh Hồ Tây,... nhưng từ ngày chuyển lên đây sống, tôi rất hiếm khi đi bộ hay đi xe máy quanh Hồ Tây. Rất là buồn khi tận mắt chứng kiến Hà Nội, nhất là Hồ Tây, từ một địa danh sạch sẽ, thanh bình, nên thơ,... đã hàng ngày hàng giờ trong suốt 3 thập kỷ đổi mới vừa qua liên tục xuống cấp, trở thành một địa danh vào loại bẩn thỉu, hôi thối và vô văn hóa nhất trong số hàng trăm, hàng nghìn đô thị trên thế giới mà tôi đã đến. Bài dưới đây viết về Hồ Tây khi xưa: Nghèo nhưng mà sạch, mà trong lành. Tôi vô cùng căm ghét các cao ốc 20-40 tầng xây ở bán đảo giữa lòng Hồ Tây; trông giống như những thằng Tây khổng lồ và hôi hám đang ngày và đêm công khai hãm hiếp cô gái Tây Hồ.
Hồ Tây… thời khổ 
01/10/2022 - Nghe tranh cãi chuyện xây nhà hát opera - thôi thì dành cho các nhà quản lý, quy hoạch, kiến trúc và các nhà chuyên môn liên quan. Tôi chỉ muốn “những ai đó” nghe chuyện của kẻ từng là “dân Hồ Tây”, đã vào Sài Gòn, xa nó gần 40 năm.

Hồ Tây không chỉ là cái hồ, nó còn là 
nơi dung chứa ký ức một thời… Ảnh: TL
Nhà tôi ở phố Thụy Khê, nhưng hầu như tôi không bao giờ có cảm giác mình ở ven hồ, dù sống được cái thời nghèo đó có lẽ do… thở bằng phóng khoáng gió. Là bởi khu tập thể chen chúc, muốn thấy mặt hồ phải đi vòng sau cả khu, nhà cửa xây bít đi sâu hun hút vào nơi tôi có căn phòng 9 mét vuông, ngăn đôi bên kia bằng tấm gỗ nên mọi trao đổi nói gì hai bên nghe hết cả.

Trẻ con bên nhà kia học bài, mẹ la mắng. Ông bố trẻ lính chiến trường được rẽ thăm nhà, hỏi thẽ thọt cô vợ, có ý phàn nàn sao vợ… cứ cảm tình hoài chưa được kết nạp? (chúng tôi là nhà báo thân nhau nên biết cô ấy cũng lính thẳng tính hay trêu đùa bốp chát, bướng bỉnh - chắc đang… cười). Về với vợ, tưởng… hỏi gì!

Ngày ấy thời bao cấp, chưa thống nhất đất nước, thời tem phiếu xếp hàng, một năm mấy mét vải phiếu cũng đem bán. Chủ nhật nào cũng ngồi vá gấu quần vì xe đạp quấn rách tua như xơ mướp: “xe tôi không chuông, không phanh, không gạc - đờ - bu…”. Mà chỉ có hai quần thay đổi.

Khu tập thể nên lâu lâu cơ quan sửa chữa xây cất gì đó, đào một hố vôi to ngoài cổng. Các nhà cũng tranh thủ “lấy tý” quét tường mấy chỗ “vẩy thêm”, “cơi nới” cho sáng sủa chút. Ông xã tôi - người bố trẻ đang bế đứa con đầu lòng bỗng thấy “đoàn đại biểu” đi vào hỏi tội: “Sao chú lấy vôi của tập thể?”. Anh tỉnh bơ: “Đâu, em đâu có lấy?”. Bà chánh văn phòng sát sao đáo để chỉ xuống đất: “Cái gì đây? Dấu chân chú xách vôi rải… như lông ngỗng Mỵ Châu, Trọng Thủy, từ hố vôi vào đến tận cửa còn chối hả?”.

Nghe tiếng cười phá của hàng xóm rình nấp xem. Bây giờ ông bố đã là vị giám đốc ở Sài Gòn, thằng cu con ông bế hôm đó - nay đã là ông bố hai con - vẫn cười nhắc chuyện đói nghèo xưa ấy.

Hàng ngày tôi đạp xe “xuyên thành phố “ từ Hồ Tây, qua quảng trường Ba Đình để lên cơ quan gần chợ Hôm - nếu không nhảy tàu điện đường Bưởi - Bạch Mai, ngồi dập dềnh nghe hát xẩm: “Ngày xưa thời - có anh - mà Trương Chi”. Nghèo đói bủa vây khắp nơi. Tiếng hát người mù não nề in vào tâm khảm tới hôm nay.

Một hôm trời chiều lạnh và đói, tôi đạp xe về nhà. Đến đoạn sắp rẽ ra Hồ Tây gió rất lộng thì nghe còi công an chặn đường. Tôi cùng dòng người xuống dắt xe nép vào một bên. Nhưng lạ, thấy anh cảnh sát cứ tiến tới ra hiệu với tôi mãi... Thì ra đang đón đoàn xe Chủ tịch Arafat của Palestine rẽ vào Chủ tịch phủ. Mới giật mình thấy nón rách quá, cái vành sa xuống ngang mặt. Anh cảnh sát ra hiệu tôi cất cái nón rách đi, trông thảm quá khi phố đón khách quốc tế.

Đấy, chỉ vài nét cho thấy chân dung “dân ven bờ Hồ Tây” nghèo đói ra sao. Chỉ thấy hồ vĩ đại, đầy quyền uy. Mưa lớn còn sợ nước ngập lên cái “chuồng chim” bé xíu, còn thấy lũ trẻ chặn cống bắt được cá cho bữa ăn vui vẻ là mừng. Cảm ơn hồ.

Thậm chí khi vào sống ở Sài Gòn, hát nhạc Trịnh “bầy sâm cầm nhỏ vỗ cánh mặt trời”, tôi cứ tự hỏi: “Có bao giờ mình thấy nó đâu nhỉ? Hay là mình khổ quá cắm mặt xuống đất, có bao giờ thong thả ngắm hồ đâu mà thấy? Chả biết sâm cầm là con gì”.

Ngày ấy Hồ Tây mênh mông trong xanh, bờ xa tít tắp. Nó “rộng như biển” mới có thể nổi gió lốc dìm chết một đoàn văn công nước ngoài như lời đồn đoán một “điềm báo”. Dưới hồ có khá nhiều mộ cổ linh thiêng. Chưa có mấy ai “dám” tìm cách “xẻ thịt” nó như sau này nhiều nhà đóng cọc thả rác xuống cơi nới ra làm quán cà phê, nhà hàng… ăn trộm mặt hồ.

Tôi còn ân hận sao ngày ấy mình không nghĩ ra đi tìm “bác hàng xóm” Phùng Quán. Ông có cái chòi ngắm sóng làm nhô cao trên căn phòng 6 mét vuông ngay gần nhà tôi và đứa con trai nhỏ của tôi hàng ngày học ở ngay trường Chu Văn An - trường Bưởi nổi tiếng thời xưa - ngay trước cửa “nhà” Phùng Quán?

Tất cả làm nên một ký ức vô địch đời khổ của “dân Hồ Tây” nay sẽ xa nó mãi. Sống ở Sài Gòn - TP.HCM hôm nay, qua Facebook, tôi thấy các bạn văn - nhà thơ Phan Thị Thanh Nhàn, Nguyễn Thị Hồng Ngát hay đưa tin các cuộc đi chơi Hồ Tây. Rủ nhau mua sen ướp trà, dạo phố đi bộ Trịnh Công Sơn. Đạp xe quanh hồ. Tôi hỏi chỗ đó chỗ nào mà có cả thung lũng hoa Hồ Tây. Họ bảo “đi đường ra công viên nước nữa á chị”. Tôi lại lơ ngơ hỏi: “Công viên nước là ở chỗ nào?”. Những tên phố mới quá, ngày tôi ở đó chưa có. Mọi người cười tôi… ngớ ngẩn.

Đâu rồi những làng cổ Nhật Tân, Quảng Bá, quất Nghi Tàm, giấy Yên Thái… Nay có người lo sợ “trâu ơi ta bảo trâu này, làng đô thị hóa thì mày… lên mâm”.

Tôi gõ Google tìm “khách sạn Thắng Lợi” có kỷ niệm ngày cuối năm 1976 - nơi ở của đoàn đại biểu miền Nam ra dự Đại hội Đảng lần thứ IV - Đại hội thống nhất đầu tiên của Tổ quốc không còn chia cắt.

Lúc đó tôi là phóng viên viết về Đại hội, lo sốt vó làm sao lọt được vào khách sạn canh gác nghiêm ngặt. Vì với bạn đọc miền Bắc, họ muốn nghe chuyện về những tên tuổi vang trên sách báo suốt cuộc chiến như vợ anh Trỗi, các bà mẹ miền Nam hay các tên tuổi bà luật sư Ngô Bá Thành, các anh Lê Quang Vịnh, Huỳnh Tấn Mẫm, các chiến sĩ tù Côn Đảo…

May cho tôi quen người bạn có em làm tiếp phẩm của khách sạn, nên tôi bám theo xe rau lọt vào. Đang phỏng vấn người mẹ liệt sĩ Việt Hồng - bà đang kể đoạn cô ấy vật nhau tay đôi với tên Mỹ to kềnh - đang hồi hộp gay cấn thì… bất ngờ ông Xuân Thủy xuất hiện “bắt quả tang phóng viên” vượt rào.

Bây giờ ở Thảo Điền, hàng ngày đi đường Xuân Thủy tôi vẫn nhớ vẻ mặt ông làm nghiêm cố nén cười với ngón tay chỉ chỉ: “Báo nào, báo nào vô kỷ luật?”.

Tôi tìm để xem lại khách sạn ấy. Nhưng gõ ra bây giờ bao nhiêu khách sạn 5 sao tên Tây lạ lẫm nằm bên nó... Đã biết bao đổi thay.

Thôi mình thuộc về lớp người biết Hồ Tây qua những huyền thoại lịch sử. Làng ven hồ ghi dấu những bà chúa thơ Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quan… Những chùa và đền thờ cổ kính. Công chúa Quỳnh Hoa dệt lụa ở Nghi Tàm. Những công trình đẹp khi triều Lý dời đô đến Thăng Long.

Từ bao giờ có buổi ngâm thơ bên hồ dưới trăng giữa bà chúa Liễu Hạnh với trạng nguyên Phùng Khắc Khoan. Hồ Tây với chùa Trấn Quốc hơn 1.500 tuổi được báo Anh chọn là một trong 16 chùa đẹp nhất thế giới…

Và ai ở Tây hồ bán chiếu gon…

Bây giờ thì người dân có thể trượt ống đu dây nhào lộn công viên nước. Chèo thuyền thể thao. Đi chơi “bến Hàn Quốc”… Không nghi ngờ gì, cùng Hà Nội, Hồ Tây sẽ thành trung tâm giao dịch, du lịch, văn hóa, thể thao của Hà Nội và quốc tế. Nhưng cũng không nghi ngờ gì khi có nhà nghiên cứu nào đó bảo rằng nếu biết cách giữ gìn thì Hồ Tây đã và sẽ là trung tâm văn hóa linh thiêng, độc đáo của Hà Nội mà không cần phải xây thêm những công trình làm hẹp mặt nước hồ, che khuất không gian vời xa, bát ngát của hồ.

Nhưng mỗi khi có cuộc tranh luận xây dựng công trình lớn - như đang sôi nổi về nhà hát opera trên Đầm Trị ở Hồ Tây… tôi không là nhà chuyên môn, chỉ là một “dân Hồ Tây thời khổ”, yêu nó và lo lắng. Muốn kể chuyện một khoảnh đời sống bên nó dù đã xa rồi.

Thời đại đã thay đổi. Người đi xa mỗi thời nhớ về Hà Nội mỗi kiểu. Vậy mà đều một nỗi chung hồi hộp lẫn lo âu.

Dù là kiểu nhớ xưa “Hà Nội ơi, nào biết ra sao bây giờ… Ai đứng trông ai ven hồ…” hay là “Ai về thủ đô tôi gửi vài lời - Tây hồ mờ xa là nhà tôi đó…”.

Muốn khóc một nỗi thương nhớ xa xăm.

Cứ coi như họ muốn nói gì đó không thành lời với những người sống, gìn giữ và có trách nhiệm với Hồ Tây và Hà Nội hôm nay…

Nó không chỉ là cái hồ.

Nó là nơi ghi dấu bao cuộc đời không phai.

Nguyễn Thị Ngọc Hải

https://nguoidothi.net.vn/ho-tay-thoi-kho-36691.html

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét