Các đặc khu kinh tế có cần thiết cho kinh tế Việt Nam?
Đinh Trường Hinh
Có nhiều người (kể cả ông Bộ Trưởng Kế Hoạch Đầu Tư) đã cho rằng nhất thiết nên lập ra các đặc khu kinh tế để thử nghiệm các ý tưởng cải cách kinh tế trước khi đưa ra thực hành cho toàn nền kinh tế. Điều này phát xuất từ nhiều ngộ nhận.
Ngộ nhận thứ nhất là nước láng giềng Trung Quốc (TQ) đã làm vậy và đã thành công. Điều ngộ nhận thứ hai là Việt Nam đang cần thêm đầu tư càng nhiều càng tốt. Và điều ngộ nhận thứ ba là các đặc khu kinh tế này sẽ đem lại lợi ích về kinh tế như tăng trưởng GDP, tạo công ăn việc làm cho người dân, vv…Bài viết nầy nhằm tóm tắt những điểm sai trong lập luận này.
Ngộ nhận thứ nhất : Các đặc khu kinh tế đã làm cho Trung Quốc phát triển kinh tế.
Trong cuốn sách Tales from the Development Frontier[i], tôi đã có giải thích rõ ràng là lúc vừa bắt đầu cải tổ kinh tế, TQ đã lập ra 4 đặc khu vào năm 1979 để làm thí điểm: Shantou, Xiamen, Shenzhen, and Zhuhai trước khi đem ra áp dụng những cái cách kinh tế này vào toàn trong cả nước và đã thành công. Nhưng những đặc khu này chỉ được dùng vào trong thời kỳ mới bắt đầu cái cách kinh tế (1979-1989). Sau thời kỳ này, những cải cách chính sách kinh tế thường bắt đầu từ các địa phương và sau khi thành công, được đưa vào trung ương để biến thành chính sách quốc gia. Do đó, các đặc khu này không có vài trò gì đáng kể trong hai thập niên vừa qua khi Trung Quốc bắt đầu tiến vào các lĩnh vực kinh tế kỹ thuật. Việt Nam ta đã đi qua giai đoạn thí nghiệm những cải cách này vào cuối thập niên 1980s và trong thập niên 1990s cho nên cũng như TQ, hiện không cần những đặc khu này nữa.
Ngộ nhận thứ hai: Việtnam đang cần thêm càng nhiều đầu tư càng tốt và những đặc khu này sẽ đem lại các đầu tư nước ngoài ở những lãnh vực hiện đang cần.
Đây là một hiểu lầm tai hại vì vấn đề Việtnam đang gặp không phải là thiếu vốn đầu tư mà là thiếu kém về chất lượng đầu tư và thiếu đầu tư vào những lãnh vực đặc biệt mà Việtnam đang cần để thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình. Những lãnh vực này là những nghành công kỹ nghệ cao có thể đem giá trị sản xuất cao hơn và tận dụng trí tuệ của dân Việt Nam. Muốn như vậy, điều quan trọng hơn hết là Việt Nam cần phải rà soát lại những đầu tư nước ngoài để chú trọng hơn về chất lượng và phải làm sao giúp các công ty nội địa (Việt Nam) nối kết với các công ty ngoại quốc hầu có thể thu nhập kỹ thuật và học hỏi để tiến lên. Phải cần xét lại mô hình đầu tư ở Việt Nam vì hiện nay, đầu tư ngoại quốc đang biến Việt Nam thành một nước với nền kinh tế “gia công”. Theo nội dung của dự luật về các đặc khu kinh tế, hoàn toàn không có những khuyến khích gì đặc biệt cho các công ty đang hoạt động trong nước mà chỉ chú trọng đến các công ty ngoại quốc mới. Điều này dẫn tới ngộ nhận thứ ba.
Ngộ nhận thứ ba: Những đặc khu kinh tế sẽ giúp tăng trưởng kinh tế hoặc tạo công ăn việc làm cho lao động Việt Nam về lâu về dài.
Tăng trưởng GDP khi chất lượng đầu tư kém (và với tỷ lệ sản lượng vốn gia tăng—ICOR quá cao) thì hoàn toàn không giúp phát triển chiều sâu của nền kinh tế, mà lại làm tăng thêm nền kinh tế gia công. Như tôi đã giải thích trong cuốn sách Light Manufacturing in Vietnam[ii], vấn đề chính ở Việt Nam là phải nâng cấp (upgrade) các công ty nhỏ và vừa hoặc các công ty gia đình Việt Nam trong nước (không phải các công ty ngoại quốc) để gia nhập thị trường thế giới. Muốn như vậy, những cải tổ (dù là cải tổ hành chính hay cải tổ tài chính hay thương mại) cần được thử nghiệm với các công ty trong nước để coi kết quả như thế nào trước khi áp dụng cho cả nước.
Kết luận. Cho đến nay, dự luật về các đặc khu kinh tế cho thấy hoạt động trong các đặc khu kinh tế mới sẽ theo y như mô hình cũ, và còn có khả năng tệ hại hơn nữa, trong trường hợp nước láng giềng đem những đoàn xe tải (rồi xây đường xe lửa) chở nhân công, kỹ sư, nhân viên quản lý của họ qua các cửa khẩu trực chỉ các đặc khu kinh tế mục đích chỉ là để khai thác tài nguyên của Việt Nam và sức chịu đựng cùng sự cần cù của người dân Việt.
Thay vì lập những đặc khu kinh tế này, chính phủ nên thí nghiệm các cải cách muốn làm ở các khu công nghiệp hiện có (thay vì sẽ có). Có thể lập ra 3 khu kinh tế đã hoạt động dựa trên những công ty đã ghi danh trước với chính phủ (vào cuối năm 2017 chẳng hạn) và đem những cải cách đó thử trong một thời gian. Nếu chỉ dùng những công ty hiện hữu thì cũng tránh được những lời ra tiếng vào về đầu tư của một nước láng giềng làm ảnh hưởng đến nền độc lập và tự chủ của nước ta.
Tác giả: Đinh Trường Hinh hiện là Chủ Tịch Công Ty EGAT (www.EGATCO.COM) tại Hoa Kỳ. Ông nguyên là Chuyên gia kinh tế chính, Văn phòng Phó chủ tịch và Chuyên gia kinh tế trưởng, Ngân hàng Thế giới ở Washington, D.C. (1978-2014). Ông có bằng Tiến sĩ kinh tế tại trường Tổng hợp Pittsburgh (1978). Nghiên cứu của ông tập trung vào các lĩnh vực tài chính công, tài chính quốc tế, công nghiệp hóa, và phát triển kinh tế. Các tác phẩm gần đây nhất của ông gồm Công nghiệp Nhẹ Châu Phi (2012), Các Câu Chuyện Kể Từ Mặt Trận Phát Triển Kinh Tế (2013), Phát Triển Công Nghiệp Nhẹ tại Việt Nam (2013), và Công Việc Làm, Kỹ Nghệ Hoá, và Toàn Cầu Hoá (2017).
[i] Dinh, H. T., Rawski, T. G., Zafar, A., Wang, L., & Mavroeidi, E. (2013). Tales from the development frontier: How China and other countries harness light manufacturing to create jobs and prosperity. Washington, DC: World Bank.
[ii] Dinh, H. T. (2013). Light manufacturing in Vietnam: Creating jobs and prosperity in a middle-income economy. Washington, DC: World Bank.
http://www.viet-studies.net/kinhte/DinhTruongHinh_DacKhuCoCanThiet.html
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét