Việt Nam khai quốc - the birth of Vietnam (3)
NAM VIỆT VÀ VIỆT NAM
Cuộc viễn chinh của Mã Viện là một biến cố quan trọng trong lịch sử Việt Nam. Thời kỳ văn hóa Đông Sơn chấm dứt, và những Lạc hầu đã làm giàu qua văn hóa Đông Sơn không còn được nói đến nữa. Người Việt phải học những phương pháp làm việc mới từ những viên chức ngoại bang. Trước đó, họ đã quen với người Trung Quốc lâu rồi; nhưng bỗng nhiên nền thống trị được áp dụng một cách trực tiếp hơn trong khi những rào cản của tinh thần chống quyền lực Trung Quốc bị gỡ bỏ. Người dân Việt Nam bị mất nền tảng lãnh đạo cũ của mình và sự tranh đấu để bảo tồn văn hóa đi đôi với vấn đề sống còn dưới một chế độ bóc lột và xa lạ. Khác với văn hóa Nhật Bản đã trưởng thành và vượt ngoài tầm những đe dọa từ bên ngoài, văn hóa Việt giữ được rất ít điều không trực tiếp liên hệ đến sự tồn tại của quốc gia.
Người Trung Quốc cho rằng những dân tộc "man di" nào may mắn được họ chinh phục về sau sẽ được “văn minh hóa,” nghĩa là sẽ hoá thành Trung Quốc. Bất cứ danh xưng nào tượng trưng một dân tộc riêng biệt, như Lạc chẳng hạn, đều bị những danh từ mang ý nghĩa rộng rãi khác phá loãng đi, như từ Việt (Yueh) chẳng hạn, được dùng cùng nghĩa với "man di." Những sử gia Trung Quốc viết về cuộc viễn chinh của Mã Viện đã nói đến người Việt cổ với tên gọi Lạc Việt hay đơn giản là Việt. Một học giả Trung Quốc khác, khi phê bình tiểu sử của Mã Viện, đã nhìn nhận "Lạc là một tên khác của Việt".
Vì thế Việt đã trở thành một cách nhận thức của Trung Quốc khi nói về hằng hà sa số những dân tộc phi Hoa ở miền Nam. Nhận xét này bắt đầu với văn hóa Việt ở Chiết Giang và Bồ Kiên với di sản truyền lại cho những giang sơn ở dọc miền duyên hải Đông Nam Trung Quốc. Đó là di sản chính trị; đem truyền thống vương quyền đến miền biên thùy phía Nam của Trung Quốc. Tên "Âu" chỉ phản ảnh một lực lượng quân sự của dòng Việt. Tuy văn hóa Việt không bành trướng tới phía Nam Bồ Kiên, nhưng thành tố của di sản ấy đã đến miền Bắc Việt Nam từ ảnh hưởng của lớp người cầm quyền đến tị nạn.
Theo lịch sử Trung Quốc, dòng giống Việt không phải hoàn toàn man di. Sách sử ký nói vua Câu Tiễn (505-465 TCN)—người cai trị xứ Việt trong thời kỳ cường thịnh nhất– chính là dòng dõi của vua Vũ, người sáng lập ra nhà Hạ. Ngưòi Việt vì vậy đã được coi như một dòng suy thoái của “thế giới văn minh”–một dân tộc rơi vào tình trạng man di vì đã ở lâu dài với người man di.
Với sự chinh phục của Trung Quốc ở miền Nam, từ "Việt" được áp dụng không phân biệt cho tất cả những dân tộc bị chinh phục ở dọc bờ biển phía Nam. Thế là "Việt" được dùng để chỉ định vị trí của đám dân bị chinh phục bởi thế giới và văn minh Trung Quốc. Tất nhiên đó là một từ tạm dùng cho những dân tộc rồi sau sẽ được Trung Quốc hóa. Còn đối với những dân mà sau này quan hệ với Trung Quốc sẽ đứt đoạn, từ Việt vĩnh viễn biểu tượng bản sắc của họ trong thế giới Trung Quốc và đồng thời sự khác biệt của họ.
Trung Quốc coi giống Lạc là một giống người thuộc dòng Việt, và do đó người Trung Hoa gán ghép những nét văn hóa sáo mòn cho người Lạc để nhận diện họ là cùng trong dòng giống Việt. Những nét đó, ngoại trừ việc xâm mình, chỉ là những thành kiến đối nghịch với cái mà họ coi là của xã hội văn minh. Nói chung, những thành kiến này chỉ là tạo tác từ những điều mà họ cho là man rợ.
Khi sự thống trị của Trung Quốc trở thành một quá trình lâu dài, người Lạc thời cổ đã thấm nhuần thuật ngữ của chủ nhân mình đến mức cũng tự coi mình là một trong số những dân tộc Việt. Việt là một danh từ mà người Trung Quốc hiểu rõ. Họ có thể chấp nhận nó như một định nghĩa văn hóa chính thức cho dù nó bao gồm cả những giống người đã vượt ra khỏi lãnh vực văn minh của họ. Lạc không có nghĩa gì đối với họ. Các tác giả Trung Quốc khi nói đến Lạc lại phải viết kèm với Việt, tức là Lạc Việt. Hoặc phải giảng giải "Lạc" chỉ là một tên hiệu khác để gọi “Việt.”
(Huyền thoại Âu Cơ-Lạc Long Quân phối hợp bản sắc Lạc với khái niệm Bách Việt (tranh Vi Vi))
Khi tiếp xúc với những lãnh đạo của triều đình Hán, người Việt Nam cổ đều thấy tên Lạc chẳng có ý nghĩa gì, nhưng tên Việt còn được chút nhìn nhận. Khi họ hiểu biết thêm về đám người đã chinh phục mình, quan niệm về bản sắc của họ đã biến chuyển để phản ảnh điều này. Huyền thoại Lạc Long Quân với Âu Cơ được xét lại để gọi con cháu Lạc là dòng dõi Bách Việt, để được đề cao địa vị trong văn tự Trung Quốc.
Nói vậy không có nghĩa là không có một quan hệ văn hóa hay ngôn ngữ nào giữa những người Việt cổ–gọi là Lạc–với những dân tộc ở miền Đông Nam Trung Quốc mà người Trung Quốc biết đến là "Việt." Một cuộc khảo cứu gần đây về ngôn ngữ cho thấy rằng tất cả những dân tộc Việt ở Đông Nam Trung Quốc, cùng với những người Việt Nam cổ, đều nói tiếng Nam Á; và từ "Việt" có thể để chỉ riêng một nhóm ngôn ngữ mà thôi. Chẳng hạn những từ không phải là từ "Hoa" dưới đây, trong ngôn ngữ người Mân ở Bồ Kiên, giống những từ trong ngôn ngữ Việt Nam và những từ của các ngôn ngữ Nam Á khác: Đó là những từ chỉ người lên đồng; con (khi thưa, xưng với người trên như bố, mẹ, ông bà); con sam; động từ biết; bọt, bèo, con kẻ. Hơn nữa, những tham khảo sơ khai về tiếng Việt Nam qua các nguồn gốc Trung Quốc ở thế kỷ 2 SCN đều nhận ra rằng từ "chết" là từ "Việt", và từ "chó" là một từ "Nam Việt."
Cứ xét theo đó, chúng ta có lý để nói rằng tiếng Việt Nam cổ là một phần của một thế giới văn hóa và ngôn ngữ rộng rãi, bao gồm những dân tộc Việt ở Đông Nam Trung Quốc. Tên "Việt" đã đi vào Bắc Việt Nam theo cái nhìn của Trung Quốc coi người Việt thời thượng cổ là thành viên của cái thế giới rộng rãi ấy; tuy “Việt” không phát xuất từ nguồn gốc Lạc.
"Việt" là phát âm Việt nam của từ "Yueh," do đó thành tên của dân tộc Việt. Tên "Việt Nam" ngày nay có từ năm 1803, khi sứ bộ của triều Nguyễn sang Bắc Kinh để thiết lập quan hệ ngoại giao. Họ muốn đặt tên nước là "Nam Việt," nhưng Trung Quốc chống đối, cho rằng tên đó gợi lại sự phản loạn của Triệu Đà thời xưa và đổi lại là "Việt Nam." Thành kiến của Trung Hoa với những câu nệ đế quốc lúc đó gây nhiều phẫn uất. Nhưng đến thế kỷ 20, tên "Việt Nam" đã được nhân dân Việt Nam mọi nơi chấp nhận.
DI SẢN MÃ-VIỆN
Sau khi Hai Bà Trưng qua đời, Mã Viện dành gần hết năm 43 để thiết lập nền hành chính của nhà Hán ở đồng bằng sông Hồng và chuẩn bị cho xã hội địa phương tiếp nhận sự cai trị trực tiếp của nhà Hán. Những hoạt động của ông chia làm ba giai đoạn. Giai đoạn một, ông chi phối những gì còn lại từ di sản chính trị nhà tiền Hán. Giai đoạn hai, ông quyết tâm thành lập chế độ Hán ở các cấp hành chính quận và huyện. Giai đoạn ba, ông đưa người dân đi vào chế độ mới bằng hợp ước cá nhân.
Mã Viện thấy huyện Tây Vu có 32,000 hộ dân, nhiều hơn 1/3 của tất cả số hộ dân đăng ký trong đồng bằng sông Hồng, theo cuộc kiểm tra năm 2 SCN. Huyện Tây Vu là nơi đặt trị sở của triều đình Cổ Loa, vẫn là một trung tâm chính trị quan trọng, kể từ ngày còn vua An Dương Vương. Một "nhà vua Tây Vu" đã bị giết chết vào năm 1110 TCN, khi quyền hành nhà Hán được thiết lập lần đầu ở Giao Chỉ. Hơn nữa, Hai Bà Trưng đầu tiên đã đóng quân ở Tây Vu. Mã Viện nhận thấy như vậy là Huyện Tây Vu rộng, không tương xứng với những huyện khác, bèn bãi bỏ Tây Vu và chia nó ra thành hai huyện mới. Ngoài việc san đồng đều diện tích các huyện, biện pháp này của ông còn nhắm mục tiêu xoá bỏ tất cả mọi tưởng nhớ đến di sản chính trị của vùng này trước kia.
Sách chép rằng: "Đi đến đâu là Mã Viện lập quận huyện đến đấy để cai trị với những thị trấn có hào lũy bao quanh, với những vùng phụ cận. Ông cho đào mương để dẫn nước vào ruộng cho dân ở đó cầy cấy. Ta thấy có hai điều đáng được cứu xét. Một là để cho những binh sĩ Hán được an cư hầu bảo vệ các quan chức Hán. Việc nói đến những thị trấn có hào lũy bảo vệ và những vùng phụ cận, những con mương mới để dẫn thủy nhập điền cho phép chúng ta nghĩ đến những người vừa là nông dân, vừa là lính. Một hào lũy bao quanh thị trấn cũng ít tác dụng nếu không có binh sĩ trấn đóng. Đồng thời, nếu binh sĩ không trồng trọt lấy được lương thực ăn thì sẽ là một gánh nặng tài chính vượt ngoài khả năng của bộ máy hành chánh ở nơi hẻo lánh này.
Những đồn lính Hán có thể đã được nuôi sống bởi những sắc thuế thu được của dân địa phương. Nhưng do việc thu thuế trước kia chưa được áp dụng; rằng chỉ mới gần đây, vùng này mới bị loạn lạc; và số binh sĩ bố trí tại hào lũy dùng vào việc thành lập quận huyện cũng tương đối phải nhiều, ta cũng có thể suy luận rằng cũng có một số binh sĩ được cấp cho ruộng đất để cầy cấy; họ vừa tự nuôi thân vừa cung cấp luôn cho cả chính quyền mới đang phải phấn đấu để ổn định. Việc cấp đất cho binh sĩ vì vậy là một khích lệ để giữ họ "ở yên tại chỗ". Những binh sĩ phải trú đóng ở nơi xa quê hương tất sẽ có tiềm năng bất mãn. Nếu được cấp ruộng đất họ sẽ ổn định và sẽ quan tâm đến các vấn đề địa phương. Điều này được ngụ ý khi các sử gia đề cập đến những con mương đào để giúp ích cho những người sống bên trong các thị trấn và những vùng phụ cận, nơi chính quyền quận huyện được thành lập.
Điều thứ nhì được hàm ý trong văn bản nói về các mương dẫn thủy là các quan cai trị Hán nay nắm quyền kiểm soát trực tiếp đất trước được coi là ruộng Lạc. Nếu có một số mương được người Hán cũng đào, thì chúng ta phải cho rằng tất cả đều được họ săn sóc chăm nom bởi vì các hệ thống không thể điều hành tốt nếu không được kiểm soát có phối hợp. Như vậy có nghĩa là nhờ chiến thắng, Mã Viện đã có cơ hội chiếm được những ruộng từ tay các Lạc hầu.
Cuối cùng thư tịch cũng chép rằng Mã Viện có "nói đến hơn 10 điều khác biệt giữa các quy chế Việt Nam và Hán. Ông giải thích rõ ràng cho người Việt hiểu những quy chế cũ dành cho họ để trói buộc họ vào bổn phận. Vì thế, người Lạc Việt thi hành những gì đã được tướng quân Mã Viện quy định." Các quy chế này nói đến những luật hình sự và những luật dân sự, không bị lẫn lộn với những luật lệ có tính cách chính trị của triều đình Hán mà Tô Định trước đây đã ép Thi Sách phải tuân theo, do đó đã châm ngòi cho cuộc nổi dậy của Hai Bà. Sử chép rằng Mã Viện chỉ đơn giản ghi lại những khác biệt giữa các quy chế Hán và Việt mà không tỏ ý định muốn sửa đổi những khác biệt đó. Điều này ngụ ý là ở thời này người Việt Nam không bị tan nát hay mất tinh thần vì sự chinh phục của Mã Viện mà vẫn tiếp tục sinh tồn như là một xã hội có tổ chức với những khuôn mẫu riêng biệt của mình về luật lệ hôn nhân, thừa kế và trật tự công cộng.
Tuy các Lạc hầu không còn được nghe nói đến nữa, nhưng không có nghĩa là họ bị giết hay bị đuổi đi. Chúng ta đã thấy nhiều người Việt bị bắt và bị chặt đầu sau trận đánh Lãng Bạc, và khoảng từ 3.000 đến 5.000 người nữa về sau bị bắt và chết ở Cửu Chân. Nhưng lại có ghi là 10.000 người đã đầu hàng Mã Viện ở Lãng Bạc. Vì chỉ có hàng trăm gia đình được biết là đã bị lưu đầy sang Trung Quốc nên dường như có 1 số khá đông đi theo Bà Trưng mà vẫn còn được sống sót và ở lại Việt Nam sau khi đã qui hàng. Những người này chắc chắn là được Mã Viện dùng hầu hết vào những chức vụ địa phương, bởi vì ông không có cách nào khác để có đủ số nhân viên làm việc tại các quận huyện hầu trực tiếp cai trị được dân chúng.
Điều này nói rõ thêm lý do tại sao Mã Viện "giải thích rõ ràng" những luật lệ cũ. Câu nói này rất quan trọng và nó ám chỉ rằng những người nào bất tuân sẽ bị chặt đầu. Còn những Lạc hầu nào quy thuận sẽ được tha. Họ sẽ không bị giết theo như luật pháp triều đình Hán đòi hỏi. Để đáp lại ân huệ ấy, họ phải tuân theo luật pháp.
Chắc chắn Mã Viện đã rất cảm động khi ông ban hành ân huệ này. Bởi vì ông cũng cần đến họ để duy trì trật tự ở cấp bậc thấp nhất trong chính quyền. Những "chiếu chỉ" mà Mã Viện "giải thích rõ ràng" đều nói đến những luật lệ về chính quyền quận và huyện mà trên lý thuyết đã có từ năm 111 TCN, khi nhà Hán đầu tiên thiết lập quận, huyện ở Việt Nam. Chúng ta có thể nghĩ rằng "những luật lệ cũ ấy" đã được những quan chức như Tích Quang thêm thắt về nội dung và hình thức. Những cải cách thời Vương Mãng đã đưa ra những nỗ lực để thi hành luật lệ hành chính cấp quận huyện. Và kết quả của nó lúc ấy có lẽ được biểu hiện trong những điều vẫn xác nhận luật căn bản của chính quyền Hán trong khuôn khổ xã hội Việt nam cổ.
Động từ "trói buộc" trong câu nói "giải thích rõ ràng những luật lệ cũ cho người Việt Nam nghe để trói buộc họ" hàm ý một hợp đồng hay khế ước giữa Mã Viện và những Lạc hầu bị chinh phục. Và gồm một lời hứa chính thức hay một lời thề rằng họ sẽ tuân theo những luật lệ ấy. Và danh từ "thi hành" trong câu "từ đó Lạc Việt thi hành những gì tướng quân Mã Viện quy định" có nghĩa là thi hành những gì hầu đáp ứng mệnh lệnh do cấp trên ban ra. Và điều đó lại lập thêm một bằng chứng nữa về một quan hệ hợp pháp được định nghĩa rõ ràng mà các Lạc hầu thất thế phải theo. Đoạn viết "những gì tướng quân Mã Viện quy định" hàm ý một tiêu chuẩn về cách cư xử được thiết lập như một quy luật hành chánh dành cho các thế hệ về sau.
Ảnh hưởng của cá nhân Mã Viện đối với lòng tưởng nhớ ông của toàn thể dân chúng Việt Nam rất lớn. Một Thứ Sử đời nhà Đường ở thế kỷ 9 cũng mang họ Mã thấy sự tưởng nhớ này có đủ sức thuyết phục để ông coi Mã Viện như một bực tiền bối hầu tăng thêm uy tín của chính ông đối với người Việt. Nhiều truyền thuyết đã được thêu dệt quanh những thắng lợi lớn lao và thành tích siêu việt của Mã Viện được cho là đã thực hiện ở Việt Nam. Mã Viện là người có tài năng khác thuờng, một chiến sĩ cao tuổi rất gan dạ. Thật chẳng có gì khó để tưởng tượng đuợc rằng chính tiếng tăm của ông để lại ở Việt Nam tự nó là một yếu tố quan trọng trong việc thiết lập một chế độ mới để trực tiếp cai trị qua hệ thống quận huyện. Một trong những công trạng của ông về sau được dân gian đồn rằng ông có dựng một đôi cột đồng để đánh dấu ranh giới phía Nam của giang sơn nhà Hán. Có chuyện kể về những người đã đuợc Mã Viện cho định cư ở lại gần nơi cột đồng ấy. Người ta bảo rằng những người này mang họ Mã và vẫn dùng ngôn ngữ của họ mãi trong nhiều thế kỷ về sau. Và chuyện này gợi nhớ lại việc Mã Viện định cư người Hán ở lại Việt Nam. Di sản Mã Viện gồm hai khía cạnh: một, ông đã thiết lập được một nền hành chánh ở cấp quận Huyện; hai, ông đã đưa người Hán di cư vào trong xã hội Việt Nam. Chính quyền Hán bị lu mờ dần bởi sự xuất hiện của những đại gia đình mọc lên qua những cuộc hôn nhân hỗn hợp Việt Hán sau này.
NHỮNG ĐẠI GIA ĐÌNH HÁN VIỆT
Khi cuộc chinh chiến của Mã Viện hạ màn, một lớp người cầm quyền mới ra đời. Lớp người ấy xuất hiện từ số những người Hán di cư và những gia đình Việt Nam. Chúng ta đã thấy một số người Hán thuộc giai cấp thượng lưu chạy xuống miền Nam vào thời Vương Mãng rối ren. Nhiều người trong số này quay trở về Trung Quốc sau khi nhà Hán phục hưng; nhưng rõ ràng là đã có một số người Hán ở lại. Nhất là ở trong vùng thuộc Quảng Tây, Quảng Đông ngày nay. Và cả ở Việt Nam nữa, nhưng ít hơn.
Nhà họ Sĩ làm nên danh tiếng vào cuối thời Hán, gốc ở Sơn Đông, xuống định cư ở huyện Thương Ngô trong suốt thời kỳ Vương Mãng. Rồi nhà họ Lý, gốc của Lý Bí, người sau này khai sáng nền độc lập của Việt Nam ở thế kỷ 6, cũng đến từ Hoa Bắc cùng thời đó. Việc nổi dậy của hai Bà Trưng chắc đã khiến cho hầu hết những người di cư ở Việt Nam lại bỏ trở về Trung Quốc. Nhưng chắc chắn cũng có một số quay trở lại Việt Nam vào lúc cuộc viễn chinh của Mã Viện chấm dứt. Cuộc di cư đầu tiên trong thời Vương Mãng có lẽ gồm những phụ nữ và trẻ em. Cho nên cộng đồng người Trung Quốc thượng lưu ở Việt Nam đã giữ được đặc tính của họ đến 1-2 thế kỷ sau.
Cuộc viễn chinh của Mã Viện đã đem đến một lớp người di cư mới. Đội quân của ông gồm 8.000 binh sĩ ở miền Bắc và 12.000 dân quân mộ ở Quảng Tây, Quảng Đông. Sử chép Mã Viện trục xuất hàng trăm gia đình Việt Nam lên miền Bắc Trung Quốc, và chúng ta có thể tin chắc rằng ông cũng đã định cư nhiều binh sĩ của ông ở lại Việt Nam để làm nền móng cho chính quyền Hán. Một số trong những ngưòi này chắc về sau đã lấy vợ gốc Bắc, nhưng có thể cũng có người đã lấy con gái của những người di cư ở lại từ thời Vương Mãng. Và cũng lại có thể có nhiều người đã lấy vợ, con gái những gia đình bản xứ. Khi Tần Thủy Hoàng xâm nhập miền Nam ba thế kỷ trước đó, Triệu Đà đã yêu cầu vua cung cấp cho ông 30.000 phụ nữ từ miền Bắc Trung Hoa xuống để làm vợ cho binh sĩ của ông. Nhưng không có dấu tích nào là Mã Viện cũng thỉnh cầu triều đình như vậy cho binh sĩ Hán của ông tại Việt Nam.
Binh sĩ của Mã Viện không phải là những người có học như những người di cư thời Vương Mãng. Họ đem theo gươm giáo cung tên thay vì sách vở giấy bút. Có lẽ họ thấy dễ hội nhập với xã hội bản xứ và bị ảnh hưởng lây; nhất là nếu họ lại có đất đai sở hữu, họ ít có ý muốn trở về Bắc. Nhiều người có thể đã có cha mẹ là 2 giống rồi; tức là con cái của ngưới Hán di cư lấy dân bản xứ vùng Lưỡng Quảng ngày nay. Sự quan tâm của những người này đến văn hoá Hán và lòng trung thành của họ với nhà Hán được duy trì, nhờ những trường hợp, cơ hội được phục vụ như viên chức trung và hạ cấp trong các cơ quan Hán, đặc biệt là trong nghành cảnh sát hay quân đội.
Việc định cư những binh sĩ Hán có liên hệ lâu dài đến việc cấp phát ruộng đất. Nói chung, trong thời kỳ hậu Hán, việc cấp phát sở hữu đất đai đã được thi hành, do đó phát sinh một số địa chủ có thế lực. Việc chính quyền đánh thuế về sau lại có khuynh hướng làm cho nông dân nghèo phải bán lại cho các thương nhân hay quan chức giàu có, rồi trở thành tá điền. Trung Quốc đã có những trường hợp này và có thể đã có trường hợp tương tự ở Việt Nam.
Đất đai sở hữu ở Việt Nam còn nằm trong chế độ cộng đồng các Lạc hầu dường như đã được hưởng một số quyền hành làng xã hay cộng đồng dành cho họ dưới hình thức nhân công, thực phẩm hay hàng hóa thủ công. Về phần họ, các Lạc hầu dâng nạp cho các ông chủ của mình những đồ cống nạp. Ta có thể suy rằng đó là những lợi tức đáng kể mà triều đình thời tiền Hán đã thâu được.
Sau cuộc viễn chinh của Mã Viện, quan niệm về tư hữu tài sản và lợi tức nhà nước đều được áp dụng một cách tổng quát hơn, ít ra cũng ở trong khu vực quanh các trung tâm hành chánh. Những binh sĩ Hán định cư đều là những phương tiện trực tiếp để xây dựng một nền móng kinh tế xã hội mới theo kiểu Trung Quốc về sở hữu đất đai và thâu lợi tức. Ngoài việc này, còn việc các quan chức Hán thâu thuế những nông dân Việt Nam quá mức đến nỗi họ mang nợ rồi mua lại ruộng đất của họ và biến đất ấy thành tư hữu. Một giả thuyết nữa là các binh sĩ Hán có thể đuợc cấp những đất công đã bị tịch thu. Dân địa phương bị mất đất giờ đi khai khẩn những vùng mới được giao cho họ với tư cách là tài sản riêng. Trong bất cứ trường hợp nào, quan niệm tư hữu tài sản bắt đầu xuất hiện ở Việt Nam vào thời này và làm nền móng kinh tế cho lớp Hán-Việt cầm quyền. Nhất định không phải là tất cả, và có lẽ cũng không phải là hầu hết, những đất công đưọc đổi thành tư như thế, nhưng cũng đủ để gây nên hậu thuẫn hay sự ủng hộ cho lớp cầm quyền mới. Những thay đổi ấy, phần nhiều xảy ra ở những khu vực phụ cận các trung tâm lớn của Hán, nơi vào lúc đó được thuận tiện nhất cho việc trồng lúa nước. Đó là những nơi mà những ngôi mộ cũ bằng gạch xây theo kiểu Hán đã đào được.
Khoảng 120 ngôi mộ bằng gạch xây kiểu Hán, có niên đại từ hậu bán thế kỷ 1 sang suốt thế kỷ 2; và có thể là tới tận cuối thế kỷ 4 hay 5, đã được đào thấy ở Bắc Việt Nam. Những ngôi mộ này và đồ vật chôn theo trong mộ cung cấp cho chúng ta những bằng chứng để phân tích đời sống của giới cầm quyền mới ở Việt Nam vào thời đó.
Về kiểu và cấu trúc xây cất, những ngôi mộ ấy cho ta thấy những nét đặc trưng của thời Hán. Hơn nữa, ngoài một ít ngoại lệ, những vật tìm thấy trong mộ không nói lên điều gì là Việt Nam cả, mà lại cho thấy chúng giống y như những vật thấy ở trong các mộ Hán đào được ở lưu vực sông Hoàng Hà. Điều này chứng tỏ là lớp cầm quyền ở Việt Nam đã chính thức chấp nhận gần như hoàn toàn văn hóa Hán.
Phần vật chất tìm thấy qua những đồ vật chôn trong các mộ là những nét văn hoá rất cao. Không những có đồ vật trang điểm bằng thủy tinh; vật dụng bằng đồng, bằng đất nung; gươm bằng sắt; và những đồng tiền đúc thời Vương Mãng và Hậu Hán. Lại còn có cả bàn cờ; nhạc cụ; gương soi; nghiên mực và chân đèn. Như thế, tất người chết chôn trong các mộ đó phải là người có học và có một cuộc sống xã hội cao và khác nhau.
Chân đèn với tượng người tỳ nữ đang quỳ
Tuy không có một cái trống đồng Đông Sơn nào thấy trong các mộ, nhưng một số vật, nhất là chân đèn, có thể nói lên một sự pha trộn ảnh hưởng của Hán với địa phương. Vật nổi tiếng nhất là một chân đèn có tượng người đang quỳ, tìm được trong ngôi mộ ở Lạch Trương số 3. Chân đèn này là hình một người hầu với khuôn mặt mang mác không rõ nét Trung Quốc, lại có 10 nhạc công lùn kèm theo. Dường như đó là sản phẩm mỹ nghệ địa phương. Việc những chân đèn mang sắc thái địa phương như thế phản ánh không gì hơn là một mốt thời trang của địa phương. Nó cũng có thể chỉ dẫn cho thấy việc sử dụng thời giờ giải trí, hay những thú vui giải trí trong đêm theo văn hoá địa phương.
Những ngôi mộ lại cũng chứa đựng cả những mô hình các trại làm đồ gốm và cho thấy người chết lúc sinh thời là địa chủ giàu có nhờ nông nghiệp. Những mô hình các ngôi nhà; vựa thóc; giếng; lò gạch, được sắp xếp như nằm trọn trong một vòng rào, một pháo đài, cộng với những kiến trúc được đặt lên trên các ngọn tường mà phải có thang mới vào đuợc.
Gạch nung khắc họa những sinh hoạt trong khuôn sân một gia đình quan chức Hán giầu có, với tường rào, phòng khách, phòng ngủ, bếp, chuồng nuôi gia súc, giếng, và chòi canh. Chủ và khách ngồi uống trà trong khi gà chọi ngoài sân.
Những mô hình này giống như những mô hình được thấy ở Trung Quốc, rõ rệt nói lên rằng những đại gia đình địa chủ giàu, sống sung túc ở thời hậu Hán, cũng có những hậu bối giống họ ở Việt Nam. Rất nhiều điều được biết về những đại gia đình Hán ấy.
Họ xuất thân là những thương nhân giàu có hay quan chức có thế lực thường hay tích tụ đất đai, hạ nông dân xuống hàng thấp kém như nông nô, tá điền, hay gia nhân hầu hạ có khế ước. Những đại gia đình này bảo trợ một nhóm người riêng hay lui tới nhà mình, gọi là "môn khách", gồm các bậc danh sĩ; sĩ phu; chuyên gia kỹ thuật; gían điệp, và cả những kẻ sát nhân. Lại cũng nuôi cả những đạo quân riêng để bảo vệ mình. Những gia đình như thế dường như đã hiện hữu sau cuộc viễn chinh của Mã Viện với tư cách là người bảo hộ cho chính quyền quận huyện của Hán ở Việt Nam.
Bằng chứng của sự việc này được thấy ở Tám Tho, một khu vực gần Thanh Hoá ngày nay, trong quận Cửu Chân ngày xưa – đấy có tám lò gạch cùng thời với những ngôi mộ xây bằng gạch được đào thấy. Gạch và những đồ đất nung trong các mộ ở Trung Quốc cũng giống như những thứ thấy được trong các lò gạch ở Tám Tho. Trong một lò, tìm thấy một con dấu ấn có 3 chữ "Quân Nghi Quan" dùng để in lên những viên ngói lợp nhà. Quân là "ông/ngài"; Nghi là "nên/hợp pháp" và quan là "quan chức". Con dấu này cho thấy có hai địa vị được kính trọng vào thời đó: đĩa vị xã hội và địa vị chính quyền. Nó cho ta thấy người chôn trong mộ là những người Hán-Việt lớp thượng lưu, xưa có giữ chức vụ hành chánh nào đó trong chính quyền.
Việc tìm thấy con dấu ấn ở trong các lò gạch cũng biểu lộ rằng cái lò ấy là tài sản, hoặc được kiểm soát bởi nhà cầm quyền trong khu vực. Có thể nó thuộc thẩm quyền nhà nước, hoặc là một tài sản sở hữu tập thể của những gia đình thuộc lớp cầm quyền. Nó lại cũng có thể thuộc về cả hai nếu đó là dấu hiệu rằng xã hội thời Hậu Hán có khuynh hướng tiến tới việc những đại gia đình có sở hữu nhiều đất đai.
Những ngôi mộ phần nhiều nằm ở những chỗ đất trũng phì nhiêu, đã được tìm thấy từng nhóm có khi nhiều đến 30 ngôi ở trong một nơi giống như một nghĩa trang. Một nghĩa trang hàm ý một xã hội ở một vùng đã được ổn định và lớp cầm quyền tự coi mình là thành phần của xã hội đó. Rõ ràng họ không muốn được chôn ở những nơi khác. Có những người đã nghĩ rằng lớp cầm quyền ấy là những người Hán di cư trở thành những lãnh đạo địa phương, hoặc là lớp cầm quyền bản xứ muốn bắt chước kiểu chôn cất của Hán. Một lời giải thích khác hợp lý hơn nữa là họ không phải hoàn toàn là người Hán hay người bản xứ, mà lẫn lộn cả hai. Việc chôn cất gần nhau trong cùng một nghĩa trang chứng minh mạnh mẽ rằng những người được chôn ở đó cùng chung một quan điểm địa phương như nhau.
Những người cầm quyền chôn ở đó là người đã được ổn định trong kinh tế và xã hội địa phương. Họ đã đến định cư trong những vùng đồng bằng thịnh vượng ở Bắc Việt Nam và không có ý định trở về Trung Hoa nữa. Nay được chôn ở đấy có nghĩa là họ coi đây là quê hương, bởi vì hài cốt của lớp cầm quyền người Hán theo lệ bao giờ cũng phải được đem về quê hương, bất kể là họ chết ở đâu.
Đường xá xa xôi giữa Việt Nam và miền Bắc Trung Quốc, cùng với những rối loạn chính trị thường xảy ra nhất định đã làm nản lòng người muốn hài cốt của mình được đưa về quê ở Hoa Bắc. Có hai ngôi mộ ở Cửu Chân đã là đầu đề gây nên nhiều bàn tán. Hai ngôi mộ có vẻ là của một cặp vợ chồng. Ngôi lớn có thể là của người chồng, thấy rỗng không; trong khi ngôi nhỏ vẫn y nguyên, chưa bị động đến. Người ta giải thích rằng đó là trường hợp hài cốt của người chồng đã được đưa về quê, còn hài cốt của người vợ địa phương của ông ta để yên tại chỗ. Nếu đúng thế, đây là bằng chứng khác của một cuộc hôn nhân Hán-Việt; nhưng cũng có thể là ngôi mộ lớn, theo một vài dấu vết, đã bị phá phách bởi bọn ăn trộm mộ. Cho nên chưa đi đến kết luận cuối cùng được.
[....*]* Người dịch bỏ sót, không dịch đoạn này.
Xét theo những ngôi mộ bằng gạch và loại xã hội mà những nguời chết đó tiêu biểu, có thể suy rằng nếu Mã Viện quả thực có định cư binh sĩ của ông ở lại đất Việt, tình trạng này đã không tồn tại lâu, nhưng dần dà làm lợi cho những đại gia đình sở hữu nhiều ruộng đất. Những gia đình đó trở thành trọng tâm của nền chính trị địa phương vào lúc nhà Hán bắt đầu suy thoái, vào thế kỷ 2.
Ngoài những người di cư thời Vương Mãng và binh sĩ của Mã Viện, không còn chứng cớ trực tiếp nào nói về việc di dân của người Hán đến Việt Nam. Nhưng chúng ta có thể công nhận có sự xuất hiện của những tầng lớp di dân khác. Những danh sĩ lớp thượng lưu, những quan chức định cư có thể đã duy trì thể chất Hán tương đối mạnh mẽ. Chính ảnh hưởng văn hoá của họ đã được nhìn thấy qua những ngôi mộ gạch. Chúng ta có thể suy rằng một số những người này đã gởi con trai của họ về phía Bắc (là Trung Hoa) học hành. Và những người con trai đó, sau khi học xong, quay trở về Nam, cùng với vợ họ cưới ở miền Bắc. Thể chất Hán của lớp thượng lưu này nhất định đã được củng cố qua sự hiện diện của nhóm người lưu vong và những thành phần khác trong giới lãnh đạo Hán đã quyết định ở lại Việt Nam.
Mặt khác, nhóm người lưu vong có thể đã oán hận nhà cầm quyền Hán; và về mặt tâm lý, sẵn sàng cắt đứt quan hệ của họ với miền Bắc. Hơn nữa, những kẻ nhất quyết ở lại Việt Nam chắc chắn bao gồm nhóm quan chức bất mãn do đó hướng về một xứ xa xôi, xa cách hẳn với những trung tâm quyền lực của Hán.
Không phải tất cả những ngưòi di cư đều thuộc lớp cầm quyền. Chỉ có khoảng 120 ngôi mộ bằng gạch đã dược đào thấy cho tới nay ở Bắc Việt Nam. Nhiều người di cư là binh sĩ, lao động và các chuyên gia. Những nguời này không giống nhóm người đã xây mộ để duy trì thể chất Hán của họ. Còn những người di cư ở giai cấp dưới nữa chắc đã gia nhập vào thế giới hỗn hợp được hình thành bởi cuộc hành chinh của Mã Viện. Nhiều người sẵn sàng và cũng rất muốn dung hoà tính cách chính thống Hán của họ bằng cách hội nhập vào xã hội địa phương. Chúng ta có thể cho rằng họ hành động như thế qua những vụ hôn nhân Hán-Việt và đứng ra làm đại diện của xã hội địa phương, suốt thời kỳ loạn lạc trong thế kỷ 2.
Nói chung, có thể nói được rằng những người Hán di cư là thành phần của xã hội địa phương và đúng ra họ không còn là người Trung Quốc nữa. Họ phát triển theo viễn tượng văn minh Trung Quốc. Họ đưa những từ ngữ và công nghệ vào xã hội Việt Nam. Nhưng họ lại triển khai một tư duy địa phương, phải nhờ cậy nhiều vào truyền thống địa phương. Ngôn ngữ Việt Nam vẫn tồn tại, và chúng ta có thể cho rằng sau thế hệ thứ nhất, thứ nhì, những người Hán di cư đã nói tiếng Việt. Xã hội Việt Nam nói chung vẫn tách riêng khỏi văn minh Trung Quốc. Và xã hội Hán-Việt giống như một chi nhánh của thế giới văn hoá riêng biệt đó. Những người Hán di cư bị Việt Nam hoá dễ hơn là ngưòi Việt Nam bị Trung Quốc hoá.
Chúng ta có thể đoán được rằng những gia đình Lạc hầu cầm quyền nào đã quy thuận Mã Viện thì được cho làm quan chức địa phương của Hán. Những người đó đã tự nguyện tham gia vào những cuộc hôn nhân Hán-Việt. Đàn ông, đàn bà trong những gia đình Lạc cầm quyền cũ, cùng với những người con rể, cháu, hay chồng, được có địa vị tốt để phát huy những điều hay của bản xứ sang các quan chức Hán. Đàn bà Việt Nam quen được phát biểu ý kiến của mình và cầm quyền lãnh đạo cả ở trong gia đình lẫn ngoài xã hội. Hình ảnh của Hai Bà Trưng vẫn còn lởn vởn trong đầu các người dân nổi dậy trong thế kỷ 2.
Những bà ngoại, các bà mẹ, và những người vợ Việt Nam vẫn còn chiếm ưu thế đối với những người ông hay người cha còn trung thành với nhà Hán. Cho nên điều này cũng giúp giải thích được tại sao những đám nổi dậy lại được dẹp yên bằng sự thuyết phục: những quan chức Hán tài giỏi đã lên tiếng kêu gọi sự trung thành vẫn còn ngự trị trong tâm hồn những người đàn ông Việt. Các sĩ quan Hán-Việt nào đóng những vai trò trọng yếu trong những cuộc nổi dậy ấy đều bị giằng co giữa lòng trung thành với nhà Hán của cha, ông mình một bên, và khuynh hướng của mẹ hay vợ mình ở địa phương. Ảnh hưởng của các cuộc hôn nhân Hán-Việt không thể không được nhận thấy trên sân khấu chính trị.
Những ngôi mộ bằng gạch kiểu Hán được đào thấy chỉ ở những nơi mà xưa kia là những quận Giao Chỉ, Cửu Chân và Bắc Nhật Nam ở dọc sông Gianh. Không thấy có ngôi mộ nào ở phía nam Nhật Nam. Điều này khiến ta nghĩ rằng ở phía nam quận Nhật Nam không có nhiều người Hán di cư để hợp thành một xã hội riêng biệt. Dường như chỉ có một số nhỏ các quan chức Hán ở đó và vào khoảng năm 192, như chúng ta sẽ thấy sau đây, có một ngưòi con trai trong số họ đã ly khai và sáng lập nước Lâm Ấp.
Việc Hán di cư vào Việt Nam không phải là một việc làm đảo lộn mọi sự. Điều này được thấy rõ ràng trong các bản thống kê dân số là không có "một sự thay đổi bất thường nào ở Bắc Việt Nam dưói thời Hán". Rõ ràng là có một số di cư đủ để lập thành một xã hội kết hợp với nhau của lớp Hán-Việt cầm quyền ở gần khắp nơi ở Bắc Việt Nam. Nhưng lại không đủ nhiều để khống chế xã hội bản xứ về mặt hành chánh hay văn hoá. Ảnh hưởng của hiệu quả việc di cư Hán đã tiêu tan trước khi tới được làn ranh giới quân sự miền Nam.
Để làm sáng tỏ điều này, ta cần cứu xét hồ sơ về kiểm tra dân số thời ấy. Giao Chỉ Bộ trải dài dọc theo bờ biển Nam Hải tới 1.000 dặm, từ Quảng Châu đến tận Huế, và vào năm 2 SCN, gồm có dân số đăng ký khoảng 1.3 triệu. Quá nửa số đăng ký đều ở đồng bằng sông Hồng. Điều này giải thích tại sao Quận Giao Chỉ lại cũng là tên của Giao Chỉ Bộ, đó là cái trục chính về dân số ở vùng biển Nam Hải. Nó cũng giải thích tại sao người Trung Quốc đã mất bao nhiêu công sức để chinh phục người Việt Nam: vì họ sẽ không thể kiểm soát được kinh tế ở biển Nam Hải và giữ được sự lui tới tự do trên các đường thương mại ở miền Nam nếu họ không cai trị được người Việt Nam, một dân tộc mà về mặt dân số, khống chế toàn vùng. Chỉ sau khi khu vực Quảng Châu được những người di cư Trung Quốc lập nên để đối lại với người Việt Nam, nhu cầu phải thống trị được Việt Nam mới giảm đi. Nhưng việc này mãi đến đời nhà Đường mới xảy ra.
Cũng không có gì lạ lắm khi chúng ta nhớ rằng 3 quận Việt Nam có đến gần 3/4 tổng số dân ở Giao Chỉ Bộ vào năm 2 SCN. Vào thời đó, xã hội Lạc có dân số nhiều nhất toàn Trung Quốc ở Nam Hải. Ngay cả cuộc viễn chinh của Mã Viện, với những hậu quả chính trị của nó, cũng không làm xáo trộn được cái khung cảnh bành trướng dân số bình thường ấy. Sức mạnh của xã hội Việt dựa trên các nền tảng tiền sử vững chắc và bằng ngang với những áp lực của cuộc di cư từ Trung Quốc.
Di sản Mã Viện lại được thừa hưởng một giai cấp cầm quyền mới đã phát hiện để đại diện cho chính quyền Hán ở Việt Nam. So sánh các mô hình xã hội qua những ngôi mộ Đông Sơn và những ngôi mộ kiểu Hán bằng gạch đào được, thấy có những liên tục mạnh mẽ giữa các Lạc hầu và những đại gia đình Hán có nhiều đất đai. Cả hai nhóm này đều giàu có nhờ kiểm soát được nhiều đất. Cả hai nhóm đều thiết lập một lối sống để tạo ra sự cách biệt rõ rệt giữa họ với những dân mà họ cai trị. Cả hai đều tích lũy tiền bạc của cải mà họ đem theo xuống mộ. Cả hai nhóm đều được nhà Hán công nhận là chính quyền đại diện của xã hội địa phương. Các Lạc hầu cai trị những quận, huyện, nhân danh chiếc ấn đồng và giải thao xanh. Các đại gia đình Hán-Việt cai trị nhân danh những con dấu "Quân Nghi Quan" để in lên ngói lợp nhà của họ.
Trong khi những vấn đề liên hệ đến việc quản trị chính quyền quận và huyện được các Lạc hầu coi là trừu tượng, vì các Lạc hầu giữ quyền kiểm soát những đất đai dưới chế độ ân huệ cũ căn cứ trên quyền sở hữu chung; các gia đình Hán-Việt điều khiển một cơ cấu năng động hơn và kiểm soát đất đai bằng những đặc quyền tư hữu được quy định rõ qua luật pháp. Nếu khuynh hướng văn hóa của các Lạc hầu đe dọa nền tảng của chính quyền Hán, các đại gia đình Hán-Việt lại chấp nhận văn hoá Hán một cách chính thức. Mã Viện đã làm cho sự cai trị của nhà Hán ở Việt Nam thành một sự kiện đương nhiên không thể tránh được. Nhưng giới cầm quyền ở địa phương, được cấu tạo như hậu quả của sự kiện ấy, lại ở quá xa các trung tâm quyền lực của Hán, và đã bị chi phối bởi những yếu tố văn hóa của xã hội địa phương nên đã không hoàn toàn đi theo văn minh Hán.
Trong thế kỷ thứ 2, khi nhà Hán bắt đầu yếu, không đủ khả năng bảo vệ dân trong những vụ nổi loạn ở biên thùy, thì những gia đình Hán-Việt bắt đầu nắm vai trò thủ động. Những mưu toan của Hán để giữ vững nền thống trị càng đi đến chỗ bị lâm nguy hơn là được ổn định. Và các gia đình Hán-Việt không thể không nghĩ đến việc nổi dậy.
NHỮNG CUỘC NỔI DẬY TRONG THẾ KỶ 2
Sau khi Mã Viện đi khỏi Giao Chỉ, ông phải mất gần 6 tháng mới về được tới kinh đô Hán ở Lạc Dương (LoYang). Con đường bộ giữa Lạc Dương và Giao Chỉ dài khoảng 1.000 dặm. Quận Cửu Chân trải dài trên 200 dặm ở phía Nam Giao Chỉ, còn Nhật Nam lại xa hơn nữa. – thời ấy, đó là những khoảng đường xa kinh khủng. Các quan chức Hán ở miền Nam, về vật chất và tâm lý đều bị cô lập với những người Trung Quốc được coi là thuộc thế giới văn minh. Nhiều người bị ghét bỏ, bị đổi đến đây và nhận nhiệm sở của mình như là kẻ bị đi đầy. Có người đến để vơ vét của cải nhân khi ở cái vùng biên cương vô luật pháp này.
Ông Ozaki Yasushi nghiên cứu chính quyền thời Hậu Hán ở Giao Chỉ Bộ kết luận rằng nhà Hán không bao giờ hoạch định một nền cai trị thành công ở đó. Tỉ lệ của cải vơ vét được cực kỳ cao vì các quan chức thường trở về Bắc sau khi họ đã vơ vét được khá nhiều trong thời gian không bao lâu cả. Lớp người di cư Trung Quốc mới nổi lên cộng tác chặt chẽ với các quan chức tham ô, và áp đặt gánh nặng hối lộ, bóc lột lên đầu người bản xứ.
Tình trạng ấy gây nên những vụ nổi loạn. Và những vụ nổi loạn lại đưa đến việc những sĩ quan quân đội có khả năng được gởi đến. Nhưng vì có khả năng, chẳng bao lâu họ được gọi về Bắc, khi cần đến. Trong gần hết thế kỷ 2, chính phủ trung ương bị rối loạn không yên và việc đánh dẹp cũng lại theo đà ấy tăng lên với những đoàn quân được gởi đến theo định kỳ để thay thế các quan chức hành chánh. Chính trong những điều kiện đó mà những gia đình ở địa phương của những người Trung Quốc di cư tìm cách đứng ra đảm đương quyền hành khi nhá Hán sụp đổ.
Ông Goto Kimpei, trong những nghiên cứu về thời kỳ này cũng kết luận như thế. Ông còn cảnh cáo đừng nên tin bề ngoài của những hồ sơ về các "viên chức tốt" và "những viên chức xấu". Ví dụ, một viên Thái Thú ở Hợp Phố dưới triều vua Hoàn (147-67) bị cáo buộc đã cưỡng đoạt ngọc trai của dân và vơ vét của cải khác của họ : dân bị mất ngọc trai về sau chết đói, vì họ thuờng đem ngọc trai xuống Giao Chỉ đổi lấy gạo.
Chuyện này được chép ở tiểu sử của Thái Thú Mạnh Thường, người đã đến Giao Chỉ sau khi vụ việc trên xảy ra và rất lấy làm phiền lòng. Đồng thời, tiểu sử của Thứ Sử Cổ Tông, một trong những Thứ Sử trong những năm 180, đã được mô tả là một ông quan gương mẫu, lúc nào cũng chăm lo cho dân. Tiểu sử của ông chép rằng sự tham nhũng của người tiền nhiệm của ông đã khiến cho dân phải chết đói và nổi loạn.
Chuyện kể trên đều được ghi trong các tiểu sử khắc vào mộ bia của những ông quan để khen ngợi người đã chết. Cho nên chắc hẳn là không nói điều gì xúc phạm đến uy tín của Mạnh Thường và Cổ Tông. Chúng ta cũng có thể lại nghĩ rằng để làm nổi bật những tính tốt của những quan chức này, những điều xấu của người tiền nhiệm của các ông lại càng được thêm thắt hơn lên. Vì nghe làm quan nói chung là rất xấu trong thời kỳ đó nên khuynh hướng chép sử là đặc biệt ghi chép về những quan chức tốt. Và sự trái ngược tốt xấu càng được tô điểm thêm lên. Vì thế, chúng ta có thể nói rằng những thành tích của những ông quan được gọi là "tốt" chắc cũng chỉ to bằng hạt cát.
Có hai ông quan dưới triều Hoàng Đế Minh (58-75 SCN) đã tượng trưng cho hai loại quan tốt xấu nói trong sử chép thời Hậu Hán. Lý Thiện, Thứ Sử Nhật Nam "đã cai trị với lòng nhân từ, bác ái, khoan dung đối với những phong tục lạ". Về sau, ông được thăng chức và được đổi về Bắc. Mặt khác, Trương Hối, Thái Thú Giao Chỉ đã "lợi dụng pháp luật để ăn hối lộ". Và của cải vơ vét được chất đầy một nhà kho. Về sau, ông bị xử trảm và những của cải của ông được đem phân phát cho mọi người.
Câu nói rằng Lý Nhiệm "rất khoan dung đối với những phong tục khác lạ" được coi như là một biện pháp cai trị thành công của ông và rất bổ ích. Nó cho thấy rằng, để cai trị được người Việt Nam, người Trung Quốc phải thích ứng với văn hoá địa phương, không được bắt dân địa phương phải theo lối sống của mình.
Nhưng trong khi người Trung Quốc không thể thay đổi được văn hoá địa phương, họ đã kiểm soát được nền kinh tế và bòn vét được của cải vật chất của địa phương. Sự tham ô của Trương Hối được ghi lại, vì nó đủ làm cho triều đình, dù ở mãi tận nơi xa, cũng phải chú ý. Thật vậy, ảnh hưởng chung của chính quyền Hán ở miền Nam đều có tính cách bóc lột. Và tham ô thành một hành động tiêu chuẩn.
Trong khi hiệu quả trừng phạt của cuộc viễn chinh của Mã Viện mờ dần, các hành động bóc lột vơ vét không còn được coi là tự nhiên. Và sự chống đối ngày càng công khai. Trong năm 89, Hoàng Đế Hồ phải ra lệnh chấm dứt việc đem trái cây tươi từ Giao Chỉ về tận kinh đô, chỉ vì tốn kém về người và ngựa cho những thứ chóng hư ấy. Ngoài ra, ngày đêm lại bắt dân phải è cổ mà chạy hết tốc lực. Chúng ta có thể cho rằng việc chấm dứt những chuyện hoang phí ấy là phản ánh áp lực của miền Nam.
Mặc dầu chế độ cai trị của nhà Hán ở Giao Chỉ có nhiều khuyết điểm, tình hình chính trị được ổn định một cách đáng kể trong gần một thế kỷ. Khi quyền lực của Hán bắt đầu lung lay, triệu chứng đầu tiên ở miền Nam không phải là một sự hỗn loạn, mà lại là sự thối nát của tình hình ở biên cương. Một loạt những cuộc xâm nhập và nổi dậy ở đó đã làm hao mòn chính quyền một cách quá sức. Nó gây nên một sự bất ổn trong nội bộ Trung Quốc và khuyến khích một tinh thần bất khuất phục nảy nở.
Đầu năm 2 SCN, được biết có một xứ gọi là Hoàng Chỉ ở nam quận Nhật Nam đã gởi sừng tê giác đến tận Hán triều cống nạp. Theo lập luận, đó là xứ Kanci ở mãi gần xứ Conjeerveram ở miền Nam Ấn Độ. Nếu như thế, đây là chứng cứ của một sự tiếp xúc bằng đường biển rất yên ổn với vùng duyên hải ở Nam và Đông Nam Á. Việc buôn bán những đồ hàng xa xỉ vùng nhiệt đới là mối bận tâm chính của các quan cai trị địa phương. Và những cuộc tiếp xúc bằng đường biển là một lối thoát mạnh mẽ cho nền kinh tế của nhà Hán đang xuống dốc. Khi văn minh Trung Quốc tiến xuống miền Nam với các đạo quân viễn chinh, nền văn minh Ấn Độ bành trướng theo các đường thông thương buôn bán ở Đông Nam Á. Quận Nhật Nam, nơi mà 2 đường văn minh giao lưu đã trở thành một kho chứa đồ và bãi chiến trường văn hoá quốc tế.
Óc Eo, một khu khảo cổ học ở hạ lưu sông Mê kong, nơi bây giờ là miền Nam Việt Nam, đã cho rất nhiều bằng chứng phong phú về những cuộc tiếp xúc với Tây Phương. Ngoài số lớn những đồ vật gốc Ấn Độ, lại cũng đào được những đồng tiền đúc La Mã nữa. Một trong những đồng tiền này mang hình Antonius Pius (138-61). Các tướng lãnh của người kế vị Antonius Pius như Marcus Aurelius (161-80) là người đã chinh phục một phần xứ Mesopotamis năm 162-65, và điều này là nguồn gốc của nhiều sự tiếp xúc với những đường giao thương đi về hướng Đông. Bởi vì năm 166, một nhóm thương nhân tự xưng là sứ giả của Marcus Aurelius đã tới Giao Chỉ bằng đường biển trên đường đến kinh đô nhà Hán. Con đường biển giữa Đông Á và Tây Á lúc đó là một mạch giao thương rất tốt.
Biên giới văn hoá của mạch giao thương ấy là Tường Lâm ở cực Nam quận Nhật Nam, quanh vùng Huế ngày nay. Ở đây, các quan chức Hán đã tiếp xúc với những luồng văn minh Ấn Độ hoá khi chúng kéo tới dọc theo những đường thương mại Đông Nam Á. Vào khoảng năm 192, người con trai của một quan chức huyện Tường Lâm tên là Khu Liên đã giết viên Lịnh (thẩm phán) của huyện và tự xưng làm vua lập ra nước Lâm Ấp. Lâm Ấp đã tồn tại cho đến mãi thế kỷ 17, thành một láng giềng rất quan trọng của Việt Nam.
Nước Lâm Ấp theo văn minh Ấn Độ; tuy nhiên Lâm Ấp lại bành trướng từ bên trong cơ cấu chính quyền Hán và bám chặt vào vùng bià của thế giới chính trị Trung Quốc trong 3 thế kỷ trước khi mở rộng được quyền lực sang những khu vực ở xa nữa về phía Nam. Những vùng biên giới phát triển mau chóng này đã gây nhiều bất ổn cho Giao Chỉ bắt đầu từ thế kỷ 2.
Năm 100, vào đầu mùa hè, hơn 2,000 dân ở Tường Lâm nổi lên cướp và đốt phá các trung tâm Hán ở trong huyện. Người Trung Quốc phản ứng bằng việc lập một đạo quân tuyển từ các huyện trên phía Bắc. Sau khi thủ lãnh cuộc nổi dậy bị bắt và xử tử thì những người đi theo bèn xin quy hàng. Nhà Hán bèn thiết lập một bộ chỉ huy quân sự đặc biệt ở Tường Lâm để đề phòng mọi biến động trong tương lai. Năm 102, Tường Lâm được cho miễn không phải đóng 3 thứ thuế trong 2 năm: đó là để ban ơn khoan hồng cho cái tội đã dám nổi loạn.
Trong mấy chục năm sau đó, miền biên giới bề ngoài được yên ổn. Năm 124, bọn "man di ở bên kia biên giới Nhật Nam" kéo đến và xin quy thuận nhà cầm quyền Hán. Có vẻ như đó là một cuộc di dân và có thể là một nhóm dân tỵ nạn đi trốn những cuộc tranh chấp chính trị xảy ra ở bên kia biên giới. Sự thực không được biết vì không có đủ chi tiết. Mặt khác, ông Rolf Stein đưa ra một trường hợp rõ rệt để giải thích câu nói "bọn man di…" trên đây là có ý chỉ những dân nằm trong địa bàn quận Nhật Nam, nhưng ở ngoài tầm kiểm soát của quan chức Hán. Một cuộc tiếp xúc hoà bình với bọn "man di từ bên kia biên giới Nhật Nam cũng đã xảy ra vào năm 85.
Năm 136, bạo động lại bùng nổ ở biên giới gây xúc động tới các quận ở xa tít về phía Bắc. Và từ đó chính quyền Hán ở đó không bao giờ được hoàn toàn phục hồi. Nhiều ngàn quân gọi là quân Khu Liên từ "bên kia biên giới" kéo đến và tấn công Tường Lâm. Chúng lại đốt các trung tâm người Hán và giết chết các quan chức Hán. Một nguời tên Cơ Xương kéo một đoàn quân vào Nhật Nam để dẹp loạn nhưng sau bị loạn quân bao vây một cách tuyệt vọng. Loạn quân lại kéo lên phía Bắc và Thứ Sử Giao Chỉ là Phan Liên lập một đạo quân hơn 10.000 tuyển ở Giao Chỉ và Cửu Chân. Nhưng những quân này lại không muốn đến nơi biên cương xa xôi, nên không những đã không chịu đi về Nam mà lại còn nổi lên đánh phá các trung tâm người Hán trong 2 quận nhà.
Khi tin về đến kinh đô Hán, triều đình lần đầu tiên quyết lập một đạo quân 40.000 người lấy ở 4 tỉnh miền Hoa Bắc và Hoa Trung để gởi xuống Nam. Nhưng kế hoạch bị hủy bỏ theo những khuyến cáo của một quan đại thần là Lý Cố. Lý Cố viện ra 7 lý do không nên gởi quân xuống Giao Chỉ :1) Những nơi định mộ quân cũng đang ở trong tình trạng bất ổn; 2) Gởi một đạo quân đi xa xuống Nam như thế sẽ đưa đến biến loạn và đào ngũ; 3) Khí hậu ở miền Nam sẽ gây bệnh tật và chết chóc; 4) Đi xa sẽ làm cho mọi người bị kiệt sức; 5) Chi phí để tiếp tế sẽ quá cao; 6) Một đạo quân viễn chinh phải có sẵn viện binh và sẽ gây ra oán hận; 7) Những binh sĩ ở Giao Chỉ và Cửu Chân đã không chịu đánh, làm sao quân từ ngàn dậm xa xôi đến lại làm cái việc mà họ sẽ không làm? Lý Cố khuyên nên dùng Chúc Lương và Trương Kiều mà ông cho là những quan chức có khả năng, có tinh thần và rất dũng cảm để trấn an quân phiến loạn bằng cách thuyết phục và cho hối lộ. Bảy điểm của Lý Cố nói lên thái độ của nhà Hán đối với miền Nam lúc đó. Tình hình thật khác hẳn với thế kỷ truớc khi Mã Viện được lệnh kéo xuống Nam mà không có gì phải nghi ngại cả. Giờ đây triều đình bị khống chế bởi một bầu không khí ở hậu trường và bởi những thái giám có quyền hành. Vua chỉ hơn bù nhìn một chút. Hơn thế nữa, nhà Hán lúc ấy lại còn phải bận tâm với một đe doạ nghiêm trọng hơn ở biên giới phía Tây. Hơn nữa, sự lựa chọn ngoại giao để đổi lại với đe doạ, cưỡng ép là sự thừa nhận những thực tế địa-chính trị ở vào thời điểm và địa điểm ấy. Giao Chỉ chỉ là một tiền đồn xa xôi của đế quốc Hán nhưng các quan chức Hán ở đó bị cô lập trong biển người "miền Nam man rợ". Khi triều đình Hán bắt đầu suy nhược và không còn khả năng chống đỡ sóng gió, sự thay đổi trong không khí chính trị được cảm nhận ngay ở tiền đồn Giao Chỉ, và những hậu quả cũng được thấy rõ ngay.
Những lời khuyên của Lý Cố đã được nghe theo. Thay vì một đạo quân, 2 người được phái đi. Trương Kiều được làm Thứ Sử Giao Chỉ Bộ và Chúc Lương làm Thái Thú Cửu Chân. Hai người đều thuộc phe Lý Cố, và họ tượng trưng cho cố gắng của Lý Cố để nâng cao địa vị, phe đảng của ông. Ông đánh bạc bằng khả năng của thủ hạ của ông đối với sự cứng đầu của bọn phản loạn. Và tiền đặt cọc chính là uy tín của ông ở trong triều.
Năm 138, khi Trương Kiều vào đến Giao Chỉ, ông bèn phổ biến những lời lẽ hòa giải và dân chúng phản ứng tốt. Còn Chúc Lương táo bạo, cho xe của mình chạy thẳng vào trong vùng bọn phản loạn đóng ở Cửu Chân và nói chuyện với họ một cách "oai vệ" khiến cho hàng chục ngàn tên xin về quy thuận. Trương Kiều lại gởi một sứ giả đến Nhật Nam với những lời lẽ "dịu dàng và khích lệ" và cũng được bọn phản loạn "hồi chánh". Thế là nhờ tư cách cá nhân, chỉ có một vài người đã bình định được Giao Chỉ.
Nhưng hoà bình được lập lại kiểu ấy rất mong manh và Thái Thú Giao Chỉ là Chu Cương yêu cầu cho Giao Chỉ được nâng lên quy chế "Châu" (tỉnh) để tăng cường uy tín nhà Hán. Lời yêu cầu bị bác, nhưng không lâu sau, Chu Cương được phong Thứ Sử khi Trương Kiều trở về triều. Đồng thời trị sở Giao Chỉ được dọn từ Luy Lâu về Long Biên, vì Long Biên phòng thủ được dễ hơn.
Năm 144, lại một cuộc nổi loạn nữa bộc phát ở miền Nam. Cũng gần giống như 8 năm về trước, cuộc nổi loạn bắt đầu từ Nhật Nam. Loạn quân chiếm cứ các trung tâm Hán, xúi dục những vụ nổi loạn như thế ở Cửu Chân và Giao Chỉ. Thái Thú Giao Chỉ là Hà Phương cố thuyết phục loạn quân quy phục và hứa sẽ khoan hồng.
Sau biến cố này, tình hình ở đây tương đối được yên tĩnh trong hơn 10 năm. Tuy nhiên, quyền hành của Hán yếu dần và ý tưởng nổi loạn lại chỉ đợi thời cơ là nổi lên.
Với những biến cố vừa kể, chúng ta có một số câu hỏi. Năm 100, cuộc nổi loạn ở Tường Lâm bị dẹp yên bởi những binh sĩ được mộ từ các nơi xa ở miền Bắc, có lẽ là ở Bắc Nhật Nam, Cửu Chân và Giao Chỉ. Một bộ chỉ huy quân sự đặc biệt được lập tức thành lập ở Tường Lâm. Ba mươi sáu năm sau, khi Nhật Nam lại tái phát bạo loạn, các binh sĩ được mộ ở Cửu Chân và Giao Chỉ không chịu xuống miền Nam nữa. Thay vào đó, quay lại chống đối nhà cầm quyền Hán ngay tại trong quận. Kết quả là các quan chức Hán không dám héo lánh tới khu vực ấy trong hai năm. Và khi họ quay trở lại, trở lại với những cử chỉ hòa giải rồi vội vã dời hành dinh đến chỗ an toàn hơn. Vậy điều gì đã gây ra sự khác biệt ấy trong phản ứng của Cửu Chân và Giao Chỉ đối với Nhật Nam trong thời gian cách nhau chỉ có khoảng hơn một thế hệ ?
Câu hỏi bắt chúng ta phải xét xem đúng ra ai là người ở Cửu Chân và Giao Chỉ mà năm 100 đã quyết định theo Hán; rồi đến năm 136 lại chống Hán? Không còn sót lại những chi tiết nào cho biết về những đơn vị ở địa phương đã được tuyển mộ và tổ chức như thế nào; những công tác này tất được giao cho những người có dấu hiệu trung thành với Hán, nhất là những người có mang dòng máu Bắc. Đám binh sĩ là những người gốc địa phương, không có gì phải nghi ngờ cả. Và họ phục vụ bao lâu khi lãnh đạo Hán đoàn kết và đáng được tin cậy. Lớp sĩ quan trung gian giữa những binh sĩ ấy và quan chức cấp trên có thể là con cháu của lớp binh sĩ Mã Viện đang phục vụ những đại gia đình Hán-Việt vẫn nắm giữ quyền hành địa phương.
Trong tình trạng khẩn trương của năm 100, chắc chắn là con cháu của các binh sĩ lớp Mã Viện đã lãnh đạo những người được tuyển mộ để đi dẹp cuộc nổi loạn ở Tường Lâm. Và những người ấy rồi sau phục vụ trong bộ chỉ huy quân sự được thành lập ở đó. Mẹ của họ có thể là những người phụ nữ địa phương, nhưng những người cha họ đã chiến đấu cho nhà Hán. Và nay hành động của họ như thế là điều tự nhiên.
Còn trong tình trạng khẩn cấp của năm 136, con cháu của những người năm 100 được gọi đến. Và họ thấy rằng làm loạn là điều tự nhiên, hơn là phục vụ. Dĩ nhiên vào năm 136 thì ở khắp nơi trong Trung Quốc, ý niệm trung thành với nhà Hán đã kém hơn năm 100. Điều có ý nghĩa hơn cả là vào lúc đó, lớp các quan chức Hán ở hạng trung và kém hơn ở Việt nam và có quyền hành; có thể đã có 3 thế hệ người không thuộc dân địa phương. Và chỉ có 1 ông cố là nguồn gốc Bắc. Tính chất Hán của những người ấy đã bị phai mờ nghiêm trọng vì những cuộc hôn nhân qua lại giữa 2 giống.
Những cuộc nổi loạn năm 136 và 144 giống nhau ở chỗ cả 2 đều được dẹp yên bằng thuyết phục. Như thế nghĩa là trong khi những người lãnh đạo nổi loạn có thể đã bị thúc dục nổi lên chống Hán do ảnh hưởng của các bà nội, bà ngoại, bà mẹ, hay vợ họ. Lòng trung thành với Hán của cha, ông họ cũng đủ cảm nhận để khuyến khích họ quay trở lại trung thành với Hán. Nhất là khi có các quan chức Hán cấp cao xuất hiện.
Trương Kiều và Chúc Lương năm 138 và Hạ Phương năm 144 có lẽ đã gây lại được lòng trung thành của phản loạn bằng cách tỏ ra như thế là đứng về phía họ mà căm thù bọn Thái Thú và quan Lịnh hay ức hiếp nên có thể đã gây ra những rối loạn ấy. Họ đưa ra những lời lẽ hòa giải và cam kết sẽ khoan dung cho mọi người. Đó là những " lời lẽ xoa dịu và đầy khích lệ " đã đem lại cho dân địa phương lý do để họ tin rằng sự bất công rồi sẽ được sửa chữa. Cách nói như thế trở thành một kiểu cách của các quan chức Hán đáp ứng với những vụ nổi loạn hay bất bình ở Giao Chỉ. Nhưng chúng ta sẽ thấy sau đây, Chu Thừa và Cổ Tông, vào cuối thế kỷ lại cũng được tiếng là có tài dẹp yên được các cuộc nổi loạn và bất bình của dân chúng: các ông sa thải những quan chức tham ô, cải tổ hành chánh và hứa sẽ có 1 chánh quyền lương thiện để phục vụ dân. Tuy nhiên các ông chỉ là những ngoại lệ đối với tính tham ô đã thành như luật lệ.
Cuộc nổi loạn kế tiếp bắt đầu ở huyện Cự Phong, nằm trong vùng đất cao, phân chia đồng bằng sông Mã với sông Cả ở Cửu Chân. Năm 157, một quan Lịnh đáng ghê tởm ở Cự Phong làm cho dân chúng tức giận. Một người dân Cự Phong là Chu Đạt đã nổi lên giết viên quan Lịnh, rồi kéo thẳng lên phía Bắc với khoảng 4-5 ngàn người. Thái Thú Cửu Chân là Nghê Thức bị giết ngay ở ngoài mặt trận. Chỉ huy quân sự Cửu Chân là Ngụy Lang về sau đem binh tấn công lại, bắt và giết được 2.000 người. Ông dùng phương pháp đe doạ và cưỡng ép để lấy lại quyền kiểm soát ở Nhật Nam, nơi trước kia cũng vì thế mà có loạn.
Đấy là một kiểu nổi loạn mới, do một viên "quan Lịnh Hán đáng tởm" gây ra, thay vì là 1 sự bạo động như ở Tường Lâm, Chu Đạt, người đã giết viên quan Lịnh và lãnh đạo cuộc nổi loạn ngắn ngủi nhưng đẫm máu, đã không hề dược các sử gia Việt Nam nói đến. Chỉ thấy ông đã được nhắc đến trong các sử liệu Trung Quốc. Nếu như thế, vụ này nói lên cái tính chất dịa phương của lớp dân lai Hán-Việt đang lớn lên. Chu Đạt đánh phá các trung tâm Hán ở Cửu Chân với khoảng 4-5 ngàn người. Cuối cùng y đã bị đánh bại bởi một đội quân cũng gồm những người địa phương. Và điều này hàm ý lớp dân lai Hán-Việt đã được phân cực sau những biến cố năm 138 và 144, chia ra người thì chống Hán, người trung với Hán.
Cuộc nổi loạn của Chu Đạt giới hạn trong quận Cửu Chân và Nhật Nam lại cho ta thấy sự phát triển của xã hội lai Hán-Việt theo điều kiện địa lý. Những khu vực cách xa các trung tâm chính của Hán nhất, công khai chống Hán rất sớm. Sự thành công của Chu Đạt khi giết được không những một quan Lịnh người Hán mà cả viên Thái Thú Cửu Chân lúc lâm trận cho thấy ông ta là người rất rành về quân sự. Huyện Cự Phong là 1 vùng đất cao ở biên giới. Trước khi nổi dậy, có lẽ ông đã được phụ trách vùng biên này. Công tác ở vùng biên, như sau này lịch sử chứng minh, thường là một kinh nghiệm cải cách bởi vì những quan chức nào không được tin cậy hoặc tham nhũng thường hay bị đổi ra biên giới, như một hình thức giáng cấp. Làm việc ở biên giới có nhiều bấp bênh, đưa đến nhiều cơ hội gặp gỡ, tiếp xúc với những người được gọi là man di. Vì thế, lẽ tự nhiên là những người thuộc lớp lai Hán-Việt bị đổi ra biên giới lại thường là những người đầu tiên nêu cao cờ nổi loạn. Biên giới là nơi kinh niên gây bệnh bất mãn vừa bởi vì những người bị đổi ra đấy thường hay bị ghét bỏ. Vừa vì văn hoá của người bản xứ ở biên giới ngược lại với văn minh Hán, từ nếp sống gia đình đến quan niệm về quyền lực. Mặt khác, những người cầm quân đánh Chu Đạt chắc phải là xuất thân từ những cộng đồng nông nghiệp ở gần các trung tâm Hán trong đồng bằng sông Hồng và sông Mã.
Chu Đạt và 2.000 người đi theo đã bị chặt đầu. Như vậy là tạm thời loại được một số cứng đầu, bướng bỉnh ra khỏi lớp dân lai Hán-Việt. Ba năm sau, vào năm 160, Cửu Chân và Nhật Nam lại nổi loạn, nhưng những người cầm đầu đã được thuyết phục để quay trở về trung thành với nhà Hán bởi những người đã từng dẹp được cuộc nổi loạn năm 144. Đó là Hạ Phương. Hạ Phương áp dụng một chính sách "vừa nhã nhặn vừa oai nghiêm" và riêng ở Nhật Nam đã có hơn 20.000 người quay về hồi chánh.
Một lý do chính yếu làm những dân lai Hán-Việt nổi loạn, ngoài việc các quan chức Hán tham ô, là sự tin tưởng họ có thể tự bảo vệ lấy được hiệu quả hơn nếu họ có cơ hội tự đảm nhiệm lấy mọi việc. Ngày càng rõ rệt là ở đấy, người Hán không bảo đảm nổi an ninh cho họ. Đối với họ, phải có sự lựa chọn giữa sự hỗn loạn của chính quyền đang suy yếu và sự ổn định do chính họ đảm nhiệm mà không có sự can thiệp của các quan chức Hán từ phương Bắc đến.
Biên cương phía Nam không phải là nơi duy nhất có rối loạn ở Giao Chỉ Bộ. Trong những vùng núi non ở Quảng Tây và Quế Châu bây giờ cũng có những cuộc nổi loạn. Những sự rối loạn ấy cũng ảnh hưởng đến Việt Nam vì chúng phát xuất ở giữa vùng ấy và trung tâm hành chánh của Giao Chỉ Bộ tại Thương Ngô. Năm 163, một tướng quân là Cát Kỳ được sai đến dẹp loạn, nhưng lại bị giặc bắt. Chuyện về sau ra sao, không thấy ghi lại; nhưng cách hành xử của Thứ Sử Chu Thừa có thể là một yếu tố quan trọng. Sự hiểu biết của chúng ta về Chu Thừa bị hạn chế trong một đoạn đề cập đến ông trong sách An Nam Chí Lược. Tuy [chuyện Cát Kỳ bị giam bắt] không được ghi chú ngày tháng trong An Nam Chí Lược, nhưng dường như phù hợp với những biến cố lịch sử xảy ra vào thời đó.
Là một quan ngự sử của triều đình, Chu Thừa đã tranh biện với vua và bị đổi đi làm Thứ Sử Giao Chỉ. Sau khi đến miền Nam, ông báo cáo về triều đình như sau :
Giao Chỉ là một đất ở xa; tham ô và hối lộ là điều thường có. Những gia đình có thế lực thông đồng lừa gạt; các quan chức địa phương khinh xuất và áp bức; dân chúng bị bóc lột và ức hiếp. Thần được đội ơn triều đình và sung sướng được là bề tôi của bệ hạ. Ý thần muốn xin bệ hạ cho phép được quét dọn sạch sẽ nơi này".
Ông bắt đầu bằng cách sa thải hơn 30 quan chức. Sử sách ghi ông được tiếng là đã "bình định" đuợc Giao Chỉ. Nhưng cũng cần phải nghiên cứu về chuyện Chu Thừa bởi vì chuyện nằm trong khuôn mẫu của sử liệu vẫn hay nói là "quan tốt" đến sau khi "quan xấu" đi. Tuy nhiên, những thay đổi quan trọng đã được thực hiện ở Giao Chỉ Bộ, trong giới cầm quyền. Trưóc kia, các Thái Thú được bổ nhiệm từ Bắc xuống, nhưng vì triều đình còn bận về các chuyện tranh chấp trong cung đình và những quan có tài lại hiếm; nên có sẵn người nào, bổ nhiệm nguời đó, bất kể tài năng ra sao. Vì thế nên Giao Chỉ phải bổ những người địa phương vào chức Thái Thú. Thay vì là quan chức của triều đình, nay các Thái Thú lại dần dần thành người đại diện cho quyền lợi địa phương. Cứ như thế, nên lại xuất hiện ở Giao Chỉ một phong trào địa phương mạnh được dân chúng ủng hộ. Và chính nhờ như vậy mà gia đình họ Sĩ thành nổi tiếng và giàu có.
Dưới thời Hoàng Đế Hoàn (147-67) nhà Hán, Sĩ Tứ được bổ Thái Thú Nhật Nam. Năm thế hệ trước đó, tổ tiên họ Sĩ bỏ quê hương ở Sơn Đông để tị nạn Vương Mãng. Họ định cư ở Thương Ngô, nơi đặt phủ Giao Chỉ, tức Quảng Tây ngày nay. Gia đình họ Sĩ và những gia đình khác cùng hoàn cảnh lại được Hán công nhận là những người trọng tài cho quyền lực địa phương. Và những người này lại đến lượt phát triển thêm quan hệ chủ-khách với dân bản xứ. Cho nên họ dần dần thành trọng tâm của nền chính trị địa phương khi chính quyền của triều đình lu mờ dần.
Một trong những người con của Sĩ Tứ là Sĩ Nhất, lúc đó là một sĩ quan quân đội cấp quận. Thứ Sử Giao Chỉ là Đinh Cung rất có ấn tượng với tài mẫn cán của Sĩ Nhất, nên về sau, khi được bổ nhiệm về triều, ông đã mang Sĩ Nhất đi theo. Sự liên kết giữa Sĩ Nhất với một người cỡ Đinh Cung cho thấy những đức tính của những người họ Sĩ và giải thích vì sao họ Sĩ sau được nắm quyền.
Năm 178, quận Nam Hải (Quảng Châu) nổi loạn, sách động cả Hợp Phố và Giao Chỉ cùng nổi lên theo, dưới quyền chỉ huy của một người là Lương Long. Cuộc loạn lại lây cả xuống Cửu Chân và Nhật Nam. Và cũng được cả những bộ lạc ở Quảng Tây bây giờ theo nữa. Đây là lần thứ nhất mà tất cả các quận ở Giao Chỉ cùng đứng lên một loạt. Và cũng là lần đầu tiên việc chống Hán được khởi xướng bởi một quan chức của triều đình. Đó cũng là lần đầu tiên, người Việt Nam nổi dậy chống Hán do những biến cố trên miền Bắc. Thứ Sử Chu Ngung không làm gì được.
Năm 181, Chu Tuấn được triều đình sai xuống Giao Chỉ. Ông là một vị tướng có tài, hành động bán độc lập và nổi tiếng trong lúc Hán triều suy yếu đang mất dần thế lực ở vùng quê. Trên đường đi xuống Nam, Chu Tuấn ghé qua quận nhà, mộ thêm một số quân bản hộ, thêm vào số 5.000 của triều đình. Ông chia quân ra làm 2 đạo, tiến theo 2 đường. Ông lại phái những sứ giả đi trước đến tiếp xúc, nói chuyện với loạn quân và tìm hiểu tình hình. Khi tới nơi, ông tập hợp những thành phần Hán lại, rồi tấn công quân nổi loạn. Lương Long bị bắt và bị chặt đầu. Tình hình được yên. Chu Tuấn là vị tướng có tài, nhưng hoà bình mà ông lập lại không dài quá thời gian ông trú đóng ở miền Nam. Ba năm sau, năm 184, những quân sĩ đi khẩn hoang lại về hùa với loạn quân nổi dậy và giết Thứ Sử Chu Ngung. Tình hình được chép như sau :
Giao Chỉ có nhiều đồ hiếm mà quý. Từ đầu đến cuối, các Thứ Sử đều vơ vét được nhũng tài sản khổng lồ. Các quan chức và dân chúng uất hận nên nổi loạn.
Chuyện này cũng không mới mẻ gì ở Giao Chỉ. Tham ô và áp bức đã là lẽ thường của chính quyền Hán ngay từ đầu. Tuy nhiên, điều mới chính là những lực lượng địa phương bấy giờ đang thử sức mình và thành công đối với những quan chức mà dân ghét. Cuộc nổi dậy này duy nhất có liên quan trực tiếp đến các binh sĩ đi khai hoang ở miền Nam. Nhũng người này có lẽ là ở Thương Ngô, nơi có dinh Thứ Sử.
Các đường lối hoà giải không còn hiệu quả nữa. Triều đình lại bổ nhiệm Cổ Tông, người có tiếng thanh liêm, làm Thứ Sử Giao Chỉ Bộ. Khi đến nhiệm sở, Cổ Tông phát hành một tờ bố cáo ghi 5 điều sau đây: 1) tất cả mọi người đều được quyền làm ăn trong thái bình; 2) những người vô gia cư và lưu lạc sẽ được đón nhận và chăm sóc; 3) thuế sẽ được miễn cho những ai gặp khó khăn; 4) những kẻ ác ôn và bóc lột sẽ bị chém đầu; 5) người lương thiện sẽ được lựa chọn, bổ nhiệm làm quan.
Với chính sách ấy, hoà bình đã được nhanh chóng lập lại. Nếu như tiểu sử sau này của Cổ Tông là đúng, dân chúng có bài ca tụng ông như sau:
Cha Cổ đến muộn nên chúng con phải nổi dậy.
Giờ đây đã thấy người tốt và được sống yên ổn.
Chúng con không dám phản bội một người bạn.
Tiếng tăm Cổ Tông là một nhà cai trị nhân từ tùy thuộc một phần lớn vào tâm lý lịch sử, thường gán tất cả những đức tính của một quan chức tốt cho ai thành công trong việc thâu được thuế và giữ được trật tự trong địa hạt thẩm quyền. Nhìn vào mặt trái của những gì gọi là hùng hồn trong những việc ông làm, có thể bảo là ông đã giảm thuế, và giết bọn nổi dậy để vãn hồi trật tự. Đây là một phương pháp bình định thông thường. Nhưng đức tính cá nhân của ông là một yếu tố. Những ý định của ông là làm sao vãn hồi hành chánh quận và huyện, có nghĩa là làm sao thu thuế được bình thường. Bằng cách diệt hết các hành động tham ô sách nhiễu và thu thuế không chính đáng, có thể ông đã nổi tiếng theo như nói trong bài ca trên. Nhưng khi làm như vậy, chính ông cũng khiến cho việc thâu các thuế hợp lý được dễ dãi hơn. Theo ông Goto Kimpei, Cổ Tông nổi tiếng nhờ sự thành công thu được thuế ở Giao Chỉ và đó là một bực thang để sự nghiệp ông được thăng tiến. Sau 3 năm, ông được thăng lên chức vụ cao hơn trên miền Bắc. Không phải là không thể có chuyện những thành tích của ông được bịa đặt ra cho ông được thăng chức. Chúng ta có thể cho rằng những chánh sách và hệ thống kiểm soát của quận, huyện đều được ghi rõ trong những nguồn tài liệu.
Thành công của Cổ Tông ở Giao Chỉ là nhờ chánh sách gây được nhiều tham gia hơn của dân vào công việc chính quyền. Chính sách lựa chọn và tuyển mộ quan chức từ những người trong các gia đình địa phương chắc chắn đã là niềm vui cho những người di cư có học và có khả năng lãnh đạo. Theo các tài liệu của Việt Nam, Cổ Tông được kế vị bởi một nguời ở địa phương là Lý Tiến làm Thứ Sử. Tài liệu đã thuật lại 1 tờ tâu của Lý Tiến về triều, xin bổ nhiệm thêm nhiều người miền Nam nữa vào các chức vụ ở khắp nơi trong nước. Và tờ tâu cũng nói đến những chuyện về 2 ngưòi con của 1 gia đình ở Giao Chỉ đã được nổi tiếng tại triều Hán.
Chuyện về Lý Tiến đáng nghi ngờ vì không thấy nói đến trong các sử liệu Trung Quốc. Hơn nữa, việc ấy đi ngược lại chính sách của triều đình là không bổ nhiệm người địa phương cai trị địa phương mình. Tuy nhiên, chính quyền Hán ở Giao Chỉ trong phần tư cuối thế kỷ 2 không có một nền hành chánh biên chế hẳn hoi, nên do chính sách của Cổ Tông đề nghị tuyển chọn quan chức ở ngay nơi các gia đình địa phương, và cũng do triều đình muốn duy trì sự ổn định, một người địa phương có lẽ đã được bổ nhiệm làm Thứ Sử.
Dù sao, vào những năm cuối thập niên 180, ảnh hưởng của Hán ở Giao Chỉ phần lớn là hư danh. Đến khi huyện Tường Lâm trở thành trung tâm của Vương Quốc Lâm Ấp độc lập năm 192, những cấp thẩm quyền ở Bắc đã điều hành mọi việc qua quyền hành của gia đình họ Sĩ. Nhà Hậu Hán đã lập lại được trật tự ở miền Nam và tình hình được hết sức ổn định. Trong khi gia đình họ Sĩ, tuy được coi như là một sắc thái của nền chính trị Trung Quốc, trên thực tế đi theo truyền thống hùng mạnh của thế giới vùng biển Đông Nam Á, mà trong đó, Lâm Ấp là một thí dụ điển hình.
Sự phồn thịnh của Giao Chỉ Bộ dưới thời họ Sĩ, một phần là do vị trí của gia đình ấy nằm ở vùng biên giới gần biển ở phía Nam Trung Quốc. Nhờ đó, họ có được một sức mạnh kinh tế hậu thuẫn cho vị trí chính trị của họ khiến họ có thể đối phó hữu hiệu được với tình hình thay đổi nhanh chóng ở phía Bắc. Giai cấp dân lai Hán-Việt bắt đầu có kinh nghiệm hơn trong lĩnh vực chính trị qua những cuộc nổi loạn trong thế kỷ 2. Trong lúc quyền hành nhà Hán biến dần đi, lớp người này đứng ra đảm đương chuyện thống trị, và dưới sự lãnh đạo của gia đình họ Sĩ, đã thành lập một trung tâm chính trị vững chắc tại miền Bắc Việt Nam. Những người Hán di cư thuộc lớp thượng lưu vẫn công nhận chính thức nền văn minh Trung Quốc, nhất là qua việc họ dùng những sách giáo khoa Trung Quốc để dạy dỗ con cái. Nhưng nói chung, xã hội lai Hán-Việt đã hướng theo những ảnh hưởng của Phật Giáo Ấn Độ đến từ đường biển. Cho nên, vào cuối thế kỷ 2, nền văn minh Ấn Độ trở thành một thay đổi khả quan hơn ảnh huởng Hán đang tàn tạ; tác động sự hưng thịnh của Vương Quyền Lâm Ấp và Phật Giáo Việt Nam.
Kết quả và vinh quang của xã hội Việt Nam chính là thời đại Sĩ Nhiếp vì trong suốt 40 năm, những đại gia đình Hán-Việt đều được sống không bị ngoại bang kiểm soát. Điều ấy đã trở thành một thời đại đáng ghi nhớ trong sự hình thành nền văn minh Việt Nam.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét