Việt Nam khai quốc - the birth of Vietnam (10)
Việt nam khai quốc: dương thanh và vô ngôn thông (chương 6, phần 2)
Sự phục hồi của nhà Đường từ sau loạn An Lộc Sơn chỉ được một thời gian ngắn ngủi và Trung Hoa bước vào đêm dài của một đế chế lụi tàn. Chiều hướng này còn diễn ra nhanh hơn do thái độ chống đối ngày càng lộ liễu hơn của các thủ lãnh bộ lạc miền núi phe cánh với vương quốc Nam Chiếu đang lớn mạnh ở Vân Nam. Từ khi Triệu Xương ký một hòa ước với Nam Chiếu vào năm 794 thì các bộ lạc vùng núi vẫn đuợc yên ổn; và các xích mích chỉ xuất hiện từ lúc Bùi Thái đến nhậm chức ở Giao Châu vào năm 802-803. Kể từ đó, các tộc "Man Hoàng Động" cứ lâu lâu lại kéo xuống phá phách vùng thung lũng nơi bây giờ là phía Tây tỉnh Quảng Tây (16).
Khoảng cuối năm 817 và đầu năm 818, Bùi Hành Lập được thuyên chuyển về Quế Châu, nơi ông bàn tính với các quan chức trong vùng để xin lệnh tấn công bọn "Man Hoàng Động". Tiết độ sứ Quảng Châu lúc đó là Khổng Quỳ không đồng ý vì cho “chuyện này chưa được bàn thảo kỹ càng”. Dù thế chiến dịch vẫn được triển khai bất chấp lời can ngăn của Khổng Quỳ với việc Bùi Hành Lập và bộ hạ dẫn đầu một đạo quân lớn tiến vào vùng núi. Nhưng chiến dịch này bị sa lầy ngay từ những ngày đầu vì quân sĩ yếu kém và vì bệnh sốt rét hoành hành (17). Tìm mọi cách níu kéo chiến dịch vắn số ấy Bùi Hành Lập và bộ hạ đã phải cắn răng mất trắng quyền kiểm soát lãnh thổ đồng thời phải thường xuyên gánh chịu những điều kiện ngặt nghèo từ các cuộc tấn công vào hậu cứ đang bị bao vây cũng như việc tái xuất hiện những mầm mống nổi dậy ở An Nam.
Kế vị Bùi Hành Lập ở An Nam là một tông thất nhà Đường tên là Lý Tượng Cổ. Lý Tượng Cổ là một tên tham túng, bất kể luật pháp nên mọi ngưòi bất mãn và chỉ chực chờ cơ hội nổi loạn. Ngược lại, phụ tá của Lý Tượng Cổ là Dương Thanh lại là một thủ lĩnh người Việt, dòng dõi hào trưởng lâu đời, có nhiều thế lực, tổ tiên từng làm Thứ Sử châu Hoan từ thời Khai Nguyên (713-741). Lo sợ bị danh tiếng của Dương Thanh lấn át nên Lý Tượng Cổ, thay vì để Dương Thanh giữ chức Thứ Sử Hoan Châu, chỉ cho làm “Nha môn tướng”, một cấp chỉ huy không có thực quyền trong Giao Châu phủ.
Thất vọng và buồn phiền nên Dương Thanh càng để ý đến lòng căm phẫn của dân chúng đối với sự cai trị hống hách của Lý Tượng Cố. Trong khi đó vì muốn tống khứ Dương Thanh cho khuất mắt nên một hôm Lý Tượng Cổ hạ lệnh cho họ Dương đem 3.000 lính lên trợ giúp Bùi Hành Lập đang bị chôn chân trên rừng núi phiá Bắc. Biết rằng không thể nấn ná thêm nữa nên đêm đó Dương Thanh quyết định làm phản, đột nhập vào thành giết chết Lý Tượng Cổ cùng trên một ngàn người vừa vợ con, gia nhân và tùy tùng bộ hạ của Lý Tượng Cổ (18).
Sau cuộc nổi loạn này Dương Thanh yên trí rằng đế quốc Đường đã cáo chung và sẽ không còn nhòm ngó An Nam nữa. Lẽ ra, Dương Thanh đã có cơ hội đưa toàn bộ Giao Châu phủ về một mối, nhưng ông không phải là nhà lãnh đạo được lòng dân. Sách chép rằng vì bản tính dễ nổi nóng nên Dương Thanh có những hành động hà khắc gần như tàn bạo khiến mọi người xa lánh.
Biết rằng không thể trừng phạt quân sự ngay được đối với Dương Thanh nên nhà Đường tìm cách đánh lạc hướng những tham vọng của ông ở Giao Châu bằng việc khoan hồng và bổ nhiệm ông làm Thứ Sử trên đảo Hải Nam. Dĩ nhiên Dương Thanh không chịu đi và ra lệnh đóng cửa biên giới khi viên tân Đô Hộ là Quế Trọng Vũ sắp đến.
Khi đến nơi, Quế Trọng Vũ cho hạ trại ở biên giới và tìm cách bí mật điều đình với các thuộc hạ của Dương Thanh. Sau vài tháng điều đình, sứ giả của Trọng Vũ đã tạo được hậu thuẫn ngày càng nhiều từ các quan chức dưới trướng của Dương Thanh, kể cả các cấp chỉ huy có tới bảy nghìn quân. Tuy nhiên, triều đình nhà Đường lại cho rằng Quế Trọng Vũ hành động quá chậm chạp nên đầu năm 820 lại bổ nhiệm Bùi Hành Lập thay thế. Nhưng trước khi Bùi Hành Lập đến nơi, những nỗ lực của Quế Trọng Vũ đã có kết quả. Một nhóm tướng quân của Dương Thanh làm phản, chiếm thành Đại La, và mở cửa đón Quế Trọng Vũ vào thành. Dương Thanh và gia đình đều bị giết chết. Trước đó Bùi Hành Lập đã qua đời tại Hải Môn và thế là Quế Trọng Vũ lại được tái bổ nhiệm vào cương vị cũ. (19)
Việc Quế Trọng Vũ vận động được một số lãnh đạo địa phương Việt Nam chống Dương Thanh có lẽ là nhờ sự hỗ trợ của các phần tử trong cộng đồng Phật Giáo Việt Nam. Sự trợ giúp này được thể hiện qua việc thành lập một hệ phái Thiền mới do một nhà sư từ Trung Quốc đến vào năm 820, có lẽ theo sự sắp đặt của Quế Trọng Vũ. Nhà sư này gốc ở châu Quảng, mang họ Trịnh, nhưng sau này được nhớ đến qua tên tiếng Việt của dòng Thiền mà ông sáng lập: Vô Ngôn Thông. Ông xuất gia tại chùa Song lâm thuộc Chiết Giang ngày nay, và sau đó tu tập với Mã Tổ Đạo Nhất ở Giang Tây. Sư phụ và cũng là người tiền nhiệm của Mã Tổ là đệ tử của Lục Tổ Huệ Năng, người được coi là sơ tổ của dòng Thiền “Nam tông” Trung Quốc. Huệ Năng được tính là thế hệ truyền thừa thứ ba kể từ đời Tăng Sán, vị chưởng môn đã phái nhà sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi xuống miền Nam vào thế kỷ 6.
Sau khi Mã Chưởng môn viên tịch, Vô Ngôn Thông tiếp tục tu tập với đệ tử danh tiếng của Mã Tổ là Bách Trượng Hoài Hải, người đã có công đem sinh khí mới lại cho Phật Giáo Trung Quốc. Sau khi Thiền sư Hoài Hải mất năm 814, Võ Ngôn Thông tiếp tục tu tập với các đệ tử của Hoài Hải và đã truyền tâm ấn cho sư Huệ Tịch, người về sau sáng lập phái Thiền Quy Ngưỡng, một trong năm Thiền phái nổi tiếng ở Trung Hoa, nhưng nhỏ và chẳng tồn tại đến hết thời Đường.
Năm 820, khi tới Việt Nam, Vô Ngôn Thông đã cao tuổi. Ông được thiền sư Cảm Thành (pháp danh Lập Đức) đón tiếp ở chùa Kiến Sơ, xã Phù Đổng (trước 1961 thuộc huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, ngày nay thuộc huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội). Vô Ngôn Thông cư trú tại chùa này, ngoài hai bữa cơm cháo thì dành hết thì giờ vào việc thiền tọa, xoay mặt vào vách, không nói năng gì. Vô Ngôn Thông viên tịch vào năm 826, sau khi truyền hết sở học mà ông đã thọ giáo từ Bách Trượng Hoài Hải cho Cảm Thành. Sư Cảm Thành mất năm 860 và giáo phái Vô Ngôn Thông cũng như phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi còn tồn tại mãi sang đến thế kỷ 13 (20).
Việc sáng lập giáo phái Vô Ngôn Thông lúc đó chắc chắn có dính líu đến chính trị Giao Châu. Trong khi các phe kình chống nhau tìm cách chiếm quyền cai trị Đại La và các tay sai của nhà Đường ra vào Đô Hộ Phủ như thoi đưa thì việc Vô Ngôn Thông đến Việt Nam không thể là chuyện ngẫu nhiên. Đã nhiều tuổi, Vô Ngôn Thông đến An Nam không phải để tầm sư học đạo hay để tìm nơi yên tĩnh để nghỉ ngơi. Có thể suy diễn một cách hợp lý rằng hệ phái Vô Ngôn Thông đã lôi kéo được những cộng đồng tăng lữ ở Giao Châu ngả về phe thân nhà Đường. Các cộng đồng thiền viện này có những liên hệ văn hóa mật thiết với Trung Quốc và có lẽ vì thế nên họ luôn nghi ngờ các mưu toan thay đổi của Dương Thanh.
Thiền sư Vô Ngôn Thông
Giáo phái Vô Ngôn Thông dường như cũng là đáp ứng của những vùng nông nghiệp đối với những tham vọng chính trị nhất thời của những người có trách nhiệm phòng thủ vùng núi non nơi biên cương. Cuộc nổi loạn của Dương Thanh thoạt kỳ thủy, nói không có chút nào thì không đúng, nhưng phải nói là dựa rất ít vào các quan chức dân sự đang cai quản các vùng nông thôn ở Giao Châu. Nhiều người trong số này chắc chắn có quan điểm gần gũi với những quan lại Trung Quốc hơn là xã hội ít học ở các huyện vùng biên giới nơi các võ quan làm nên sự nghiệp. Vụ trừ khử Dương Thanh hầu như được sự hậu thuẫn của các quan chức dân sự trong vùng đất Phật Giáo tại trung tâm Giao Châu khi họ đã quá ngán ngẩm với những điều mà họ cho là cực đoan vô lối. Nhờ mối đe dọa cực đoan này, họ sẽ được hưởng lợi khi điều đình với Thiên triều, chừng nào nhà Đường vẫn tiếp tục để họ nắm quyền kiểm soát ở đây.
Dương Thanh rõ ràng là một người nóng nảy. Ông khởi dựng sự nghiệp từ châu Hoan, nơi biên cương, an ninh vốn lỏng lẻo và phần lớn cư dân thuộc các bộ lạc luôn gây căng thẳng triền miên. Ra lệnh tàn sát trên một ngàn người để trả thù Lý Tượng Cổ, rồi sau đó lại phong tỏa biên giới là cách để Dương Thanh chứng tỏ rằng ông có thể chống lại được nhà Đường. Nhiều người lại cho rằng Dương Thanh là một kẻ tàn bạo và ngu xuẩn.
Nói thế không phải là coi thường giá trị to lớn trong cuộc nổi dậy của ông khi biết dựa vào bối cảnh đầy căm phẫn của mọi người trước lề lối cai trị độc đoán và sai lầm; và lòng căm phẫn ấy chắc đã lan sang cả đám quan chức dân sự ở Giao Châu rồi. Mặc dù những quan chức này có thể đã tán thành việc Đô Hộ Phủ cai trị một cách mềm dẻo linh động trong quyền lực vừa mới tái lập được, nhưng nhất định họ không muốn để quyền lực ấy rơi vào bàn tay hung bạo của giới quân nhân giống như những thủ lãnh bộ lạc vùng núi, những người đã thâu tóm được nhiều quyền hành hơn thực lực của bản thân họ, trong khi tầm nhìn của họ bị giới hạn bởi nông nghiệp, hành chính và học vấn.
Trong thời gian quyền lực của nhà Đường được phục hồi, một lớp quan chức mới đã mọc lên để thoả mãn nhu cầu hành chánh địa phương. Chúng ta biết rằng, trước đó dưới thời Trương Chu, việc quân đội địa phương được tăng cường cùng với việc xây dựng công binh xưởng, kho võ khí, sửa sang thành quách, canh tân thủy quân, có thể đã không thực hiện được nếu không có những nỗ lực lớn để kiểm tra dân số, thu thuế, thực thi luật lệ.
Việc mở rộng guồng máy hành chánh trong thời kỳ ấy đã làm thay đổi rất nhiều mối tương quan giữa cư dân nông nghiệp vốn chiếm đa số ở Giao Châu với dân chúng sống ở vùng biên thùy lân cận. Từ đó những tiêu chuẩn của một đời sống nông nghiệp rõ nét đã được thực hiện chính xác hơn, quyền uy hơn và không khoan nhượng. Mặc dù cách thức lãnh đạo của Dương Thanh đã thu phục được những thành phần bất kham nơi biên cương cũng như những tầng lớp quan chức bất mãn nhưng lại không thể thu phục nhóm quan chức có học và biết phối hợp nhịp nhàng những thủ tục hành chánh; chính nhờ những khả năng này mà nhân lực và lương thực đã được cung cấp đủ cho quân đội của nhà cầm quyền.
Sức mạnh của phe nổi loạn là ở chỗ họ có thể rút về vùng biên giới nơi dân chúng ít bị trưng binh để dễ dàng chiêu mộ quân cho các cuộc phiêu lưu chính trị khác. Các nhóm nổi dậy bị nhà Đường đánh bật khỏi Giao Châu vào năm 820 dường như đều làm như thế. Những bất ổn chính trị, là đặc điểm của cả bốn thập kỷ tiếp theo và cũng là nguyên do của cuộc chiến tranh với Nam Chiếu, đều bắt nguồn từ những quan điểm đối kháng, phát sinh do việc mở rộng bộ máy hành chính trong vài chục năm trước đó ─ tạo được thái độ hợp tác ở vùng đồng bằng, nhưng lại gây ra thái độ kháng cự, chống đối nơi biên cương.
Chống lại sự thống trị của nhà Đường có lẽ không hoàn toàn chỉ là chuyện đơn lẻ ở địa phương mà còn trong tất cả các thành phần xã hội Việt Nam vì sự kiên trì kháng cự trong suốt thế kỷ 9 đã được sự hậu thuẫn ngấm ngầm của toàn thể xã hội nói chung. Tuy thế, rõ ràng vùng biên vẫn là nơi cung cấp nhiều cơ hội lớn lao hơn để triển khai những cuộc kháng chiến, còn những người quyết định ở lại Giao Châu dưới sự kiểm soát của nhà Đường thì lại có quan điểm thụ động hơn.
Xã hội Việt Nam lúc đó vẫn còn nhiều người không biết đọc và biết viết chữ Hán. Dư luận công chúng phần nhiều được biểu đạt nhờ thiểu số các sư sãi, quan chức dân sự và quân sự là những người ít ra cũng biết đọc, biết viết chữ và hiểu văn hoá Hán để làm những công việc thực tế hàng ngày. Không ít quan chức quân sự chỉ biết dăm ba chữ nhưng các thương nhân nhất định phải biết một số chữ chuyên môn để giao dịch buôn bán.
Vì quá trình đào tạo chính thức nhất định là phải nhồi nhét những quan điểm của Thiên triều nên cũng không sai nếu nghĩ rằng nhóm người có trình độ học thức uyên thâm nhất cũng là thành phần ngả về phía Trung Quốc nhiều nhất. Nhưng không phải vì thế mà không có một luồng tư tưởng khác đối với giới trí thức Việt Nam có học. Chúng ta đã thấy chữ Hán được dùng như thế nào để diễn tả danh từ thuần Việt như "bố" và "cái," qua nguồn gốc chữ "Nôm" còn truyền lại đến ngày hôm nay.
Nhiều người Việt Nam, mặc dù có hiểu biết Hán học, đã không tự cô lập với xã hội mà họ đã sinh ra và lớn lên. Chúng ta có thể cho rằng nhiều người trong số họ vẫn quyến luyến với nền văn hoá bản địa từ thuở chữ Hán chưa được du nhập. Một số người Việt Nam đã bầy tỏ sự quyến luyến này bằng việc cố gắng diễn đạt các câu ca dao tục ngữ bản địa bằng chữ "Nôm". Một số khác lại bày tỏ sự quyến luyến ấy qua những nỗ lực chống lại tầng lớp cai trị nhà Đường.
Tính từ năm 820 cho đến khi kết thúc chiến tranh Nam Chiếu, gần một nửa thế kỷ sau đó, chính sách của nhà Đường đối với Đô Hộ Phủ là luôn luôn phải một bên là xét đến khả năng, một bên là đo lường lòng trung thành của tầng lớp quan lại người Việt. Nửa thế kỷ, với hết các cuộc nổi dậy này đến cuộc nổi dậy khác, đã đưa Việt Nam dưới ách thống trị của nhà Đường từ chỗ bị chinh phục đến chỗ đối đầu. Dương Thanh có thể chưa là một lãnh tụ tầm cỡ, nhưng việc làm của ông là điềm báo trước cho những sự kiện trọng đại sắp diễn ra đối với vận mệnh nước Việt Nam.
———————————————————–
Ghi chú:
(16) Man Thư, 267-268.
(17) Tư Trị Thông Giám (TTTG), 239, quyển 13, 125, và 241, q. 13, 187. Ngày tháng Bùi Hành Lập được bổ nhiệm làm Đô Đốc Quế Châu cũng gần trùng với ngày tháng Khổng Quỳ được bổ làm Tiết Độ Sứ Quảng Châu vào mùa thu năm 817 (Cựu Đường Thư, 15, 12b).
(18) Thông tin về tổ tiên Dương Thanh đã từng là Thứ Sử Hoan Châu từ đầu thời Khai Nguyên thì chỉ riêng Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (ĐVSKTT) có (5, 7a-b). Chi tiết đầy đủ về cuộc khởi nghĩa Dương Thanh nằm trong phần tiểu sử Lý Tượng Cổ (Tân Đường Thư, 80, 12a), sau đó được chép lại trong TTTG, 241, quyển 13, 187, và ĐVSKTT, 5, 7a-b; trong An Nam Chí Lược (ANCL), 100, cũng có một đoạn thuật lại ngắn hơn. Những ghi nhận giản đơn về cái chết của Lý Tượng Cổ có trong Cựu Đường Thư (CĐT), 15, 19a, Tân Đường Thư (TĐT), 7, 166, và Việt Sử Lược (VSL), 1, 10b. CĐT chép quân An Nam nổi loạn; TĐT viết Tượng Cổ chết bởi tay “tướng quân An Nam Dương Thanh”; VSL thì chỉ ghi Dương Thanh là “quan”.
(19) Tiểu sử Lý Tượng Cổ (TĐT, 80, 12a) đã thuật lại sự kiện này và được TTTG chép lại, 241, q.13, 195, có thêm chi tiết về 7000 lính. Những sự kiện này cũng được ghi lại trong Bản Kỷ của CĐT: tháng 6 trong năm, Quế Trọng Vũ dâng tấu về triều rằng đã chém Dương Thanh và khôi phục An Nam Đô hộ phủ (16, 3a); tháng 8 trong năm Trọng Vũ gửi đầu Dương Thanh về kinh (10, 4a). ANCL, 100, chỉ nói vắn tắt rằng Trọng Vũ đã bình định cuộc nổi loạn của Dương Thanh. ĐVSKTT, 5, 7b-8a, lại chép khác, rằng Dương Thanh không những đã chống lại được Trọng Vũ mà cả hai viên Đô Hộ sau đó trong thời gian họ đang còn tại vị cho đến tận 828. Như chúng ta sẽ thấy, tình trạng khởi nghĩa liên tiếp là đặc điểm nổi bật trong cả thập kỷ sau đó, cũng chính là di sản từ cuộc nổi dậy của Dương Thanh và rõ ràng được tấm gương của ông cổ võ. Dẫu sao bằng chứng cũng cho thấy là Dương Thanh đã bị chém đầu vào năm 820. Theo CĐT, 16, 2a, Bùi Hành Lập được tái bổ nhiệm xuống An Nam vào tháng 2 năm 820. Triều đình nhận được tin Hành Lập chết vào tháng 7 trong năm (CĐT, 16, 4a).
(20) Về việc sáng lập hệ phái Vô Ngôn Thông, xem Trần Văn Giáp “Phật giáo ở An Nam từ khởi thủy đến thế kỷ 13”, trang 243-244 (“Le Bouddhisme en Annam des origins au XIII siècle”).
Việt nam khai quốc: sự đối đầu (chương 6, phần 3)
Mặc dầu Quế Trọng Vũ tái chiếm được Đại La thành nhưng rõ ràng các cuộc nổi loạn đã giáng cho chính quyền nhà Đường tại miền Nam một đòn chí tử. Hậu quả từ thất bại của Bùi Hành Lập trong chiến dịch tấn công "Man Hoàng Động" còn tạo điều kiện thuận lợi cho nhiều vụ nổi dậy nghiêm trọng hơn nữa và tập trung ở Ung Châu, phía Bắc An Nam những năm sau đó khiến việc nhà Đường đương đầu với "Man Hoàng Động" phải tạm thời gác sang một bên.
Năm 822, phó Đô Hộ An Nam là Thôi Kết được phong chức Kinh Lược Sứ Ung Châu, với trọng trách tái lập quyền hành của nhà Đường ở đó (21). Nhưng chỉ trong vòng vài tháng, Quế Trọng Vũ lại thay thế Thôi Kết ở Ung Châu. Vương Thừa Biện lên thay Quế Trọng Vũ ở An Nam nhưng chỉ đến cuối năm Lý Nguyên Hỉ lại thay thế ông (22). Sở dĩ có sự thay đổi nhân sự liên tiếp như thế là vì nhà Đường tìm mọi cách tổ chức lại vùng biên cương phía Nam đã bị vỡ vụn ra từng mảnh. Suốt thập niên sau đó, những khó khăn ở biên giới cùng với tình hình ly loạn lúc nào cũng âm ỉ ở An Nam khiến các quan chức nhà Đương luôn luôn ở thế phòng ngự.
Đầu mùa hè năm 823, Lý Nguyên Hỉ tâu về triều rằng các bộ tộc Lão trong châu Lục đã tấn công và cướp phá các khu định cư nông nghiệp (23). Vài tháng sau lại báo cáo "Man Hoàng Động" đánh phá Ung Châu (24); rồi đến mùa thu năm ấy "Man Hoàng Động" lại tấn công cướp phá An Nam (25). Sang năm sau, "Man Hoàng Động" mở cuộc đánh phá khắp nơi. Tiết độ sứ Quảng Châu tâu trình rằng một viên tướng của ông đã bị chúng giết mất (26). Mùa thu năm 824, chúng lại xâm nhập để cướp phá ở An Nam. Lần này "Man Hoàng Động" lại kết hợp với một toán giặc đi đường biển từ Nam Chiếu lên tham gia cướp phá. Sau đó, chúng lại chiếm luôn châu Lục và giết chết viên Thứ sử ở đấy (27). Những hoạt động này được khuyến khích và hỗ trợ của những người từng theo Dương Thanh trước kia (28).
Hết khó khăn này đến khó khăn khác cùng với việc phải đương đầu với những cuộc cướp bóc và phá phách của “Man Hoàng Động” khiến Lý Nguyên Hỉ bỏ thành Đại La. Năm 825, ông tâu với triều đình là ông đã dời trị phủ lên bờ Bắc sông Hồng. Theo thư tịch Việt Nam, quân nổi dậy địa phương đã phá hủy thành Đại La. Rõ ràng Nguyên Hỉ phải dời về thành Long Biên nhưng rồi cũng chỉ lưu lại ở đó một thời gian ngắn ngủi vì, ngoài việc sợ xui xẻo do dòng sông chảy qua ngay nơi cổng thành phía Bắc, lại còn bị đe doạ bởi " nhiều người nuôi dưỡng ý định làm loạn " cận kề nên hẳng bao lâu, ông lại quay trở về vùng phụ cận thành Đại La. Sau khi dựng được một cái thành nhỏ, nhiều người công khai chế giễu rằng "khả năng của Lý Nguyên Hỉ chỉ có thể xây được một cái thành cỏn con như thế" (29).
Việc xây cái thành nhỏ lại được đặt tên là "La Thành" này, đã được ghi lại trong một truyền thuyết liên quan đến một vị thổ thần. Truyện này được trích trong một cuốn sách, được viết không đầy nửa thế kỷ sau đó, nên chúng ta có thể tin được ít nhiều vào giá trị lịch sử của nó (30).
Theo như câu chuyện được kể lại thì La Thành có “cửa kép tường đôi, bốn hướng vây tròn, nhà cửa san sát”. Nguyên Hỉ tin rằng địa điểm ông đã chọn lựa để xây thành là nơi sinh ra của một vị thần địa phương rất linh thiêng. Thần địa phương này chính là Tô Lịch, người mà năm xưa từng làm quan Lịnh dưới triều nhà Tấn.
Theo truyền thuyết thì Tô Lịch “gia tư không hào phú lắm, tề gia lấy sự hiếu đễ làm trọng”. Khi Tô Lịch đỗ “Hiếu liêm, có lời chiếu biểu dương môn lư của ngài, gặp năm mất mùa thiếu ăn, chiếu đong lúa kho cho ông, lấy tên ông là Tô Lịch đặt tên thôn” và dòng sông chảy qua đó.
Khu vực sông Tô Lịch, ngày nay vẫn còn chảy qua Hà Nội, đã là vùng đất rất quan trọng về mặt chính trị vào thế kỷ 6 vì được dân chúng cho là đất kiểu "Long Đỗ" (Bụng Rồng) mà theo phong thủy là tiêu biểu cho trung tâm địa lý và tinh thần của non sông Việt Nam. Và việc Tô Lịch được phong làm thành hoàng ở đó, chắc chắn là vì giới cầm quyền đã hiểu được quan niệm về vương quyền bản địa. Để gia tăng niềm tin của dân chúng địa phương vào thổ thần Tô Lịch, Lý Nguyên Hỉ còn có hàng loạt các động thái để chứng tỏ lòng tín phục các phong tục và tập quán địa phương của ông.
Trước hết, Lý Nguyên Hỉ mở một đại tiệc và cho xây một điện thờ. Sau đó, ông cất một ngôi đền và lại mở một đại tiệc nữa, “trăm điệu múa đều có, đàn địch vang trời”. Tương truyền rằng sau lễ hội, “đêm ấy, Nguyên Hỉ đang yên lặng nằm bên cửa sổ, hốt nhiên một trận thanh phong ào ào thổi đến, bụi cuốn cát bay, rèm lay án động, có một người cỡi một con hươu trắng từ trên không chạy xuống, mày râu bạc phơ, áo xiêm sặc sỡ, nói với Nguyên Hỉ rằng:
- Mông được Sứ quân uỷ cho ta chủ thành, nếu Sứ quân có giáo hóa cư dân trong thành cho hết lòng hết sức thì mới sung được nhiệm vụ của quan thú mục, mới xứng với trách nhiệm của một bậc tuần lương.”
Câu chuyện hàm ý rằng Lý Nguyên Hỉ đã biết dựa vào các cố vấn địa phương khi họ khuyên ông là hãy thực thi quyền hành cho thích hợp với thực tế văn hoá và chính trị của Đô Hộ Phủ. Vì lẽ đó, Lý Nguyên Hỉ đã tạo được những quan hệ tốt với một số các quan chức địa phương. Tuy nhiên tình hình ngày càng biến chuyển vượt ra khỏi tầm tay ông nên đầu năm 827 ông lại bị Hàn Ước thay thế vì lý do "Giao Chỉ đang nổi loạn". Cầm đầu loạn quân là Thứ Sử châu Phong, Vương Thăng Triều. Nhưng đến mùa hè năm 828, Hàn Ước bắt được Thăng Triều và đem xử chém. (31).
Việc bổ nhiệm Hàn Ước được đi đôi với việc đơn giản hóa bộ máy hành chánh ở Đô Hộ Phủ. Các thanh tra cấp châu bị bãi chức và quyền hành của họ được tập trung vào tay Đô Hộ Phủ. Nhà Đường đã quyết định như thế, có lẽ vì vai trò của "các Thanh tra châu" đã trở nên thừa, vì càng ngày Đường triều càng lui vào thế thủ. Tuy nhiên Hàn Ước cũng vẫn còn quyền kiểm soát được một vùng lãnh thổ khá rộng đủ để thu thuế, vừa cho ngân quỹ nhà nước, vừa cho vào túi riêng. Đó chính là lý do tại sao vào mùa thu 828, quân địa phương lại nổi dậy và tống cổ Hàn Ước ra khỏi Đô Hộ Phủ (32).
Bẵng đi đến ba năm không có một thông tin gì cho mãi đến năm 831 thì Trịnh Xước được bổ Đô Hộ (33) nhưng thông tin về ông này chẳng có gì. Năm 833, Tiết độ sứ Quảng Châu trình rằng các chức vụ chính thức trong các vùng biên phía Nam đã bị bỏ trống từ một đến hai năm rồi và yêu cầu triều đình bổ nhiệm người mới (34). Năm 834, Hàn Uy được bổ xuống làm Đô Hộ(35), nhưng, cũng như Trịnh Xước, thông tin về ông này cũng chẳng có gì. Có thể giả thiết rằng, sự lơ là của nhà Đường đối với miền Nam đã khiến các quan chức địa phương phải tự đưa ra các giải pháp chính trị cho chính họ thay vì phải đợi các quan chức nhà Đường đang phải bó tay vì những xung đột giữa các phe phái mới mọc lên.
Năm 835, Đô Hộ Điền Tảo cho trồng một hàng rào bằng cây tươi cùng với một hệ thống rào bằng gỗ để ngăn ngừa các nhóm nổi dậy đột nhập vào kinh thành nhưng vì thiếu ngân quỹ nên công việc không được hoàn tất (36). Phải chăng các rối ren chính trị trong Đô Hộ Phủ đã mời chào các cuộc tấn công; hay có lẽ đúng hơn, đó chỉ là một khía cạnh của tình hình đấu tranh chính trị nội bộ vào lúc đó.
Hệ thống rào gỗ của Điền Tảo cũng nói lên được quyết tâm của triều đình nhà Đường nhằm đưa miền Nam trở lại quĩ đạo kiểm soát của họ. Năm 835, nhà Đường gửi xuống thêm 3 vị tướng quân đến các châu nhiều manh động nhất ở biên giới. Hai tướng được phái đến vùng núi non trong tỉnh Quảng Tây ngày nay, còn một tướng tên là Dương Thừa Hòa thì được bổ nhiệm xuống châu Hoan để "bình định và tái lập trật tự" (37) với ngụ ý là châu này đang ở trong tình trạng phản loạn. Năm sau, một Tiết độ sứ khác vì đòi giữ một chức cao hơn quyền hạn tại triều đình mà không được, nên bị giáng chức xuống châu Hoan (38), có lẽ là để trợ giúp cho Dương Thừa Hòa.
Trong khi các binh lính được phái xuống châu Hoan để giữ gìn an ninh, một giải pháp mới lại được ban hành ở vùng trung tâm nông nghiệp của An Nam. Trước sự kháng cự ngoan cường của các nông dân đóng thuế, Dương quay sang áp dụng một chính sách hoà giải. Một sắc chỉ tháng Tư năm 836 nói rằng: "Về việc thu thuế của các dân tộc vùng xa; mỗi năm, khi đi thu thuế nếu thấy dân chúng kêu ca về sự khổ sở hay thiếu thốn, hãy tạm miễn cho họ. Đối với An Nam, cũng áp dụng như thế và hãy miễn cho họ vụ thuế mùa Thu năm nay. Nay truyền lệnh cho Đô Hộ Điền Tảo, trừ khi quân sĩ thiếu thốn lương thực mà phải đói, hãy họp dân lại và loan báo về việc miễn thuế này" (39).
Sắc chỉ còn tiếp rằng triều đình sẽ thỏa mãn các nhu cầu tài chính của Đô Hộ Phủ bằng cách gửi tiền trong kho xuống cho. Mặc dầu An Nam đang trở thành một gánh nặng về tài chính, triều đình vẫn nhất quyết duy trì quyền hành mình ở đó vì những lý do chiến lược. Vì Nam Chiếu đang có ý bành trướng từ Vân Nam, Đô Hộ Phủ đã thành một khu vực trọng điểm ở vùng biên giới phía Nam. Để thực hiện được chiến lược cơ bản này nhà Đường đã có những nỗ lực, mặc dù ngắn ngủi, nhằm lấy lại lòng tin của người Việt Nam bằng việc phái Mã Thực, một người tài giỏi, xuống An Nam vào tháng 9 năm 836 để thay thế Điền Tảo thực thi chương trình này. Sắc chỉ năm 836 cho thấy sự đối đầu trực diện giữa binh lính nhà Đường với dân chúng địa phương và nguy cơ các binh lính nhà Đường bị bao vây là có thực. Tình hình thực tế kể trên dường như đã là nguyên nhân trực tiếp cho việc miễn thuế cũng như việc nhanh chóng bổ nhiệm một người tài giỏi như Mã Tổng.
Thư tịch nói rằng Mã Thực là người học thức, rất tài giỏi về công việc hành chánh, có văn hoá, rất liêm khiết và hết sức tao nhã lịch sự. Những đức tính đó khiến nhiều người Việt Nam tôn trọng và hợp tác với ông. Tôn chỉ hành động của Mã Thực là "đứng đắn và lương thiện ". Ông không bao giờ phiền hà dân chúng bằng những luật lệ thất nhân tâm và thuế má hà khắc. Điều đáng chú ý là ngay cả các lãnh tụ bộ lạc trong những vùng sâu, vùng xa đều quy thuận ông. Họ sai con em mang nhiều tặng phẩm đến dâng ông để xin được quyền thu thuế và cai trị vùng đất mà họ đang cai quản. Mã Thực đã có công tái sinh châu Lục từ chốn u tối kể từ năm 824 khi mà Tiết độ sứ ở đó bị một lực lượng hỗn hợp gồm "Man Hoàng Động" và quân sĩ Hoàn Vương giết chết. Sau đó Mã Thực bổ nhiệm một lãnh tụ địa phương làm Thứ Sử. Một dấu hiệu của sự phồn thịnh thời ấy là các ao nuôi trai ngọc bấy lâu bỏ hoang nay sản xuất ngọc trở lại (40).
Mã Thực chủ trương vãn hồi hoà bình và thịnh vượng để không phải bận tâm với các vụ rối loạn chính trị tại Đô Hộ Phủ từ sau vụ nổi dậy của Dương Thanh. Chứng liệu cho thấy Mã Thực được hưởng cảnh thái bình nhiều trong thời gian ông ở Việt Nam (41) vì một nền hành chính được thực thi êm ả trong Đô Hộ Phủ tùy thuộc rất nhiều vào tư cách và tài năng của Đô Hộ trong việc áp đặt các tư duy vương triều vào thực tế bản xứ. Mã Thực là một trường hợp ngoại lệ vì sau khi ông rời khỏi An Nam thì tình hình lại xấu đi ngay.
Chính sách hoà hoãn của những năm 830 được thi hành vào triều đại Đường Văn Tông (827-840), một vị hoàng đế nhà Đường là người đã cho thi hành những chính sách tế nhị và bổ nhiệm những quan chức lương thiện. Sau cái chết của Đường Hiển Tông năm 820, Hoàng Đế Văn Tông có lẽ là ông vua nhà Đường cuối cùng được chú ý vì đã có một chế độ cai trị hợp lòng dân. Mã Thực đã đem cái kỷ nguyên ngắn ngủi nhưng sáng suốt ấy sang Việt Nam. Cả ông lẫn chính sách mà ông theo đuổi đã làm lắng dịu được khuynh hướng đối đầu kháng cự đang lan tràn trước đó.
Người kế nhiệm Mã Thực là Vũ Hồn. Năm 843, Vũ Hồn ra lệnh cho các tướng địa phương sửa sang lại những bức tường quanh La Thành nhưng họ đã bất tuân, nổi loạn, đốt những chòi canh và cướp phá cả nhà kho. Vũ Hồn trốn thoát được về Bắc. Sau đó Giám quân Đoạn Sĩ Tắc thuyết phục được các viên tướng địa phương thôi không nổi loạn nữa (42). Biến cố này cũng giống như cuộc nổi dậy năm 803, khi Bùi Thái ra lệnh tăng cường phòng thủ các tường bao quanh thành và nó chứng tỏ rằng quan hệ giữa các quan chức nhà Đường và các lãnh tụ địa phương vẫn còn mong manh lắm.
Cách thức hữu hiệu nhất để thuyết phục dân chúng địa phương chấp nhận quyền đô hộ của nhà Đường là gia tăng phòng thủ chống các cuộc tấn công cướp phá từ trên rừng núi tràn xuống. Việc phòng thủ này đã vượt quá khả năng của các quan chức địa phương, nên năm 846, tướng Bùi Nguyên Hữu phải kéo một đạo quân xuống và đánh đuổi được bọn cướp đi (43). Các nhóm cướp phá này rất có thể là đồng minh của những lãnh tụ phản loạn ở An Nam. Một số quan chức Giao Châu ngày càng ngả theo nhà Đường vì họ cảm thấy làm như thế là an toàn. Nhưng ngược lại cũng có những quan chức địa phương khác lại muốn liên minh với các phần tử trong núi như là một phương cách để có thể đuổi hết người Trung quốc đi một lần cho xong hẳn.
Một đoạn văn mô tả An Nam vào giữa thế kỷ 9 nay còn tồn tại chứa đựng những chi tiết được ghi lại tại triều đình khi bàn đến việc bắt đầu làm quan ở Đô Hộ Phủ như sau: "Cần phải phòng thủ đường bộ và ngăn không cho bọn Khmer đến mua vũ khí và ngựa; phải dẹp yên bọn man di cứng đầu ở trong các thôn bản vùng núi… Cứ 3 năm phải đem binh sĩ đi tuần tra, đánh dẹp, và tâu trình tình hình về triều. Các quan chức vùng biên thùy phải lo tìm cách thân thiện với các lãnh đạo địa phương và dạy họ cách ứng xử sao cho thích đáng. An Nam có chưa đến 300 kỵ binh…. Có những thị tộc và các dân bộ lạc khá mạnh do đó vấn đề trọng yếu là việc phân phối các vũ khí và quân cụ. Mỗi năm phải lấy tên tuổi các bậc huynh trưởng nào có tính tình tốt, văn hay võ giỏi, để cất nhắc họ vào những chức vụ công quyền…" (44).
Việc mô tả này thật là thích hợp với những phần đất nằm ở ngoài ven đô hộ phủ hay các vùng sâu, vùng xa. Vấn đề cơ bản là an ninh biên giới và tình trạng biên giới sẵn sàng bùng nổ vào những năm 850. Dường như có rất nhiều mối liên hệ giữa những khu nông nghiệp ở vùng đất thấp với vùng núi. Những người buôn bán muối, gia súc, ngựa và vũ khí đã phân tán khắp nơi và len lỏi vào những khu dân cư ở vùng núi đang bị dao động vì sự cai trị cứng rắn hà khắc của nước Nam Chiếu. Thậm chí cả những người Khmer ở lưu vực sông Mekong cũng bị lôi kéo vào vòng buôn bán ấy. Điều này gợi lại trong trí nhớ các quan chức nhà Đường từng ở miền Nam và quen thuộc với hình ảnh các đoàn người hỗn độn của Mai Hắc Đế năm 722. An Nam đã trở thành một vùng biên yếu ớt có nguy cơ đến sự toàn vẹn của đế chế. Cảnh giác cao độ và nhu cầu phải tuần tiễu và đánh dẹp luôn luôn đã trở thành các hoạt động thường nhật.
Tại vùng nông nghiệp trọng điểm của Giao Châu, đời sống đã được ổn định hơn. Điều này được thấy rõ ràng đối trong thời gian cai trị của các hậu duệ của Vũ Hồn là người đã bị đánh đuổi khỏi An Nam với cuộc binh biến năm 843. Gốc ở Phúc Kiến, Vũ Hồn sau đó quay lại An Nam và định cư ở phía Đông Giao Châu. Theo lời một hậu duệ của ông, một học giả kiêm quan chức Việt Nam viết ở thế kỷ 18, Vũ Hồn rất yêu thích Việt Nam. Vùng đất nơi ông ở tọa lạc ngay trên hải lộ từ Trung quốc tiến vào tận khu vực đông dân cư ở Giao Châu, nơi mà sau này vẫn là vùng chịu nhiều ảnh hưởng của Trung quốc trong những thế kỷ Việt Nam độc lập. Từ đầu thế kỷ 14, các cháu chắt thuộc dòng họ Vũ Hồn đã trở thành nhũng quan chức danh tiếng trong chính quyền Việt Nam (45).
Mặc dù Vũ Hồn có thể đã phải đợi cho đến khi chiến tranh Nam Chiếu kết thúc mới dám mạo hiểm quay trở lại Việt Nam, nhưng ta cũng cần thận trọng không nên vơ đũa cả nắm khi nhận định về những sự đàn áp và kháng cự. Vì ảnh hưởng của nhà Đường không được đồng đều nên đã khơi mào cho những khó khăn chính trị trong khoảng thời gian giữa thế kỷ 9 mà kết quả là việc tạo ra những cảm nghĩ trái ngược bên trong Đô Hộ Phủ: một bên nghiêng hẳn về Đường triều, một bên sẵn sàng liên minh với các bộ tộc ở vùng núi để chống nhà Đường. Hai toan tính trái nghịch này đã không lọt qua được sự chú ý của Nam Chiếu.
Trong phần tư thứ nhì của thế kỷ 9, việc thế lực Nam Chiếu mạnh lên càng làm gia tăng sự đối đầu và kình chống giữa một bên là phe thân nhà Đường và bên kia là các lãnh tụ địa phương chống nhà Đường ở Đô Hộ Phủ. Nhiều người Việt Nam có học chắc chắn đã cảm thấy dễ dàng hơn khi chọn thế đứng về phe thân nhà Đường thay vì chấp nhận những nguy hiểm bất ngờ nếu phải đứng về phe “Man quốc” (Nam Chiếu). Sau hơn 200 năm dưới ách đô hộ của nhà Đường, ý tưởng độc lập của người Việt Nam đã bị giải thích một cách sai lạc. Tuy nhiên phong trào chống nhà Đường vẫn phát triển mạnh mẽ dưới lớp vỏ của một cuộc sống bề ngoài có vẻ ổn định. Phong trào chống Đường được lãnh đạo bởi các gia đình quân nhân và những quan chức bất mãn đã đặt hy vọng ngày càng lớn vào Nam Chiếu để cân bằng sức ép của nhà Đường. Như vậy là bối cảnh chính trị đã chín muồi cho một trong những cuộc chiến tranh lâu dài và tổn hại nhiều nhất trong lịch sử Việt Nam với tư cách là một châu dưới ách thống trị của Trung quốc.
——————————————-
Ghi chú:
(21) Cựu Đường thư (CĐT), 16, 16a; Tư trị Thông giám (TTTG), 242, quyển 13, 239, 240.
(22) CĐT, 16, 13a, 17a, 18a.
(23) TTTG, 243, q.13, 250.
(24) TTTG, 243, q.13, 251.
(25) Tân Đường thư (TĐT), 8, 36; TTTG, 243, q.13, 253.
(26) TTTG, 243, q.13, 256.
(27) TĐT, 8, 4a; CĐT, 17a, 4b; TTTG, 243, q.13, 263.
(28) Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (ĐVSKTT), 5, 7b.
(29) CĐT, 17a, 6a và An Nam chí lược (ANCL), 100, chép rằng Lý Nguyên Hỉ tâu xin di chuyển đô hộ phủ sang bờ sông phía Bắc, tuy không nói rõ sông nào nhưng chỉ có thể là sông Hồng mà thôi. Theo ĐVSKTT, 5, 7b, Dương Thanh lẩn trốn trong vùng các bộ tộc người Lão, xúi giục nổi loạn và đã phá được thành Đại La; việc này dẫn đến các cuộc xâm lấn của Man Hoàng động và Hoàn vương. Nguồn sớm nhất nói về Long Biên trong bối cảnh của những sự kiện này là Giao Châu Ký, được dẫn lại trong Việt Điện U Linh Tập (VĐULT). Đây không phải cuốn sách của Triệu Thường, mà là sách cùng tên của Tăng Cổn, một quan chức nhà Đường ở An Nam từ 865 đến 880; xem Gaspardone, “Thư mục”, trang 127. ĐVSKTT (5, 7b), VSL (1, 10b), và các nguồn sách tiếng Việt khác (xem Cao Huy Giu phiên dịch, Đào Duy Anh chú giải, ĐVSKTT, 1:325) căn bản cũng cho những thông tin như nhau, trong khi có thêm chi tiết về cuộc bạo loạn, được cho là bởi có dòng nước chảy ngược ngoài cửa bắc thành Long Biên. VĐULT, 18, còn nói rõ rằng Đại La không có cửa Bắc và nằm trên bờ Bắc sông Tô Lịch, một nhánh của sông Hồng; xem H. Maspero, “An Nam Đô hộ phủ thời nhà Đường”, trang 555-556. ĐVSKTT, 5, 7b, ghi ngày tháng dời trị phủ về khu vực Đại La là tháng 11 năm 824; VĐULT, 18, chỉ đề cập là Lý Nguyên Hỉ được bổ nhiệm vào năm 822. TĐT, 43a, 9b, lại ghi rằng thời gian chuyển trị phủ trở lại về vùng Đại La là năm 825; CĐT, 17a, 6a, nói ngày bỏ Đại La là tháng 5 năm 825. Trích dẫn về việc chế riễu tòa thành mới của Lý Nguyên Hỉ, xem ĐVSKTT, 5, 7b, và VSL, 1, 10b. Toàn bộ trích dẫn bao gồm cả lời tiên tri rằng năm mươi năm sau sẽ có người họ Cao xây thành tại chỗ đó; chuyện này ám chỉ Cao Biền và cho thấy rằng toàn bộ lời trích có thể đã có từ cuối thế kỷ.
(30) VĐULT, 18; Giao Châu Ký của Tăng Cổn.
(31) CĐT, 17a, 12a, có chép ngày tháng bổ nhiệm Hàn Ước. Tiểu sử Hàn Ước (TĐT, 179, 10a) chép: “Giao Chỉ có loạn. An Nam Đô hộ phủ được giao cho Hàn Ước”. Về Vương Thăng Triều, xem TTTG, 243, quyển 13, 293; ANCL, 100; ĐVSKTT, 5, 8a.
(32) Về các “quan thanh tra châu”, xem Việt Sử Lược (VSL), 1, 10b. Về những công trạng của Hàn Ước trong việc thu thuế, xem TĐT, 179, 10a. Về cuộc nổi dậy năm 828, xem CĐT, 17a, 15a, TĐT, 8, 5b; TTTG, 243, quyển 13, 294; ĐVSKTT, 5, 8a; ANCL, 100.
(33) CĐT, 17c, 6a.
(34) Bản tâu về triều của Tiết Độ Sứ năm 833 có trong CĐT, 17c, 8b.
(35) Cùng trong chương này, 17c, 14a.
(36) TĐT, 167, 9b; ANCL, 101.
(37) TTTG, 245, q.13, 356.
(38) CĐT, 17c, 20a.
(39) Xem Katakura Minoru, “Chugokū Shihaika no Betonamu”, trang 35.
(40) Nguồn chính về tiểu sử Mã Thực là TĐT, 184, 1a, còn ANCL, 101, chỉ ghi tóm tắt.
(41) Trần Nghĩa, “Một số tác phẩm mới phát hiện có liên quan tới giòng văn học Việt bằng chữ Hán của người Việt thời Bắc thuộc”, trang 96-97.
(42) TĐT, 8, 10a, và ANCL, 101 chỉ đề cập qua đến cuộc nổi dậy. TTTG, 247, q.13, 460 và ĐVSKTT, 5, 8a, có miêu tả đầy đủ. VSL, 1, 11a chỉ nói Vũ Hồn là Đô Hộ thời Đường Vũ tông (841-846).
(43) TĐT, 8, 11a thì chép rằng quân Man từ Vân Nam tràn vào An Nam nhưng bị Kinh Lược Sứ Bùi Nguyên Hữu đánh bại. ĐVSKTT, 5, 8a viết rằng Bùi Nguyên Hữu được cử ra đối phó với tình hình và có quyền điều động binh lính từ các quận lân cận. VSL, 1, 11a, thì chỉ nêu Bùi Nguyên Hữu là quan cai trị thời Vũ tông (841-846).
(44) ANCL, 153.
(45) Vũ Phương Đề, Công Dư Tiệp Ký, 1:1.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét