Rùng mình nhớ thời ngăn sông cấm chợ
24/05/2017, Blog Nguyễn Thông - Nhớ lại một thời ngăn sông cấm chợ, để thấy rằng dân chúng chịu đựng được chừng ấy năm là quá giỏi.Hàng hóa khan hiếm nhưng
Chuyện đã qua cũng mấy chục năm rồi. Cụm từ “ngăn sông cấm chợ” được sinh sau năm 1975, đầu tiên phổ biến ở miền Nam, rồi lan ra cả nước. Miền Bắc trước đó cũng có ngăn cấm lưu thông hàng hóa nhưng người ta không gọi vậy, mà dùng chữ khéo léo hơn, là “quản lý thị trường”. Tôi đã cố công tìm hiểu, thấy có lẽ tình trạng ngăn sông cấm chợ hình như chỉ xuất hiện ở Việt Nam. Cũng may nó chỉ tác oai tác quái gần 2 chục năm, nếu kéo dài thêm chút nữa, chả biết dân mình, nước mình sẽ đi đến đâu.
Thời còn Liên Xô, cứ Liên Xô có cái gì là là nước ta bê nguyên xi về, nhất là tư duy kinh tế. Một nền kinh tế bao cấp, nhất cử nhất động theo chỉ đạo máy móc từ trung ương đã giết chết sản xuất hàng hóa và thị trường. Sống chủ yếu dựa vào bầu sữa viện trợ, đến khi bị cắt, giật mình nhìn lại, dường như chả tự làm được thứ gì ra hồn.
Chết ở chỗ, những người đã thắng trong cuộc chiến tranh lại rất kiêu ngạo, chủ quan. Nghĩ mình đã đánh thắng được cả hai đế quốc to thì việc xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội chỉ là chuyện nhỏ, một sớm một chiều. Năm 1976, Bí thư thứ nhất Lê Duẩn trong bài diễn văn kỷ niệm 1 năm đại thắng mùa xuân đã nói câu thể hiện cái ý ấy, giống hệt câu thơ của thi sĩ Tố Hữu, “đường lên hạnh phúc rộng thênh thênh”. Hầu hết cán bộ và dân chúng say sưa, lạc quan trước viễn cảnh tươi đẹp, chủ nghĩa cộng sản về đến ngõ rồi, chỉ cần long trọng ra rước vào nhà thôi.
Say quá nên làm tới luôn, bất chấp tất cả quy luật. Không chịu nghe những lời phải trái, cứ quyết là làm. Tất cả chỉ có đúng, chúng ta không bao giờ sai. Nền kinh tế miền Nam đang huy hoàng, phát triển là vậy, nhưng chỉ vài nhát quét bằng chủ trương cải tạo kinh tế, đã mau chóng về tầm ngang bằng miền Bắc vốn ì ạch, lệ thuộc vào nước ngoài. Tôi còn nhớ như in ở miền bắc trước 1975 đi đâu cũng thấy những vỏ thùng gỗ thông đựng hàng viện trợ của Liên Xô, đề chữ CCCP (viết tắt của Liên bang cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết). Người ta tếu táo đùa nhau đọc chệch thành “các chú cứ phá” hoặc “càng cho càng phá”. Kinh tế bao cấp và chính sách ngăn sông cấm chợ đã kìm hãm đất nước và dân tộc gần hai chục năm, nhưng tại hại nhất là nó kéo lùi Việt Nam chậm cả mấy chục năm so với nước khác, để không biết đến khi nào mới đuổi kịp.
Bọn trẻ bây giờ không biết ngăn sông cấm chợ là như thế nào. Đại khái, nôm na vậy cho dễ hiểu: Kinh tế, sản xuất ngày càng khó khăn. Mỹ cấm vận, bầu sữa Liên Xô, Trung Quốc ngày càng teo tóp, tâm lý sống dựa dẫm đã ăn sâu vào cả cán bộ lẫn dân chúng, bộ máy đảng và chính quyền sống nhờ vào ngân sách ngày càng phình to, nhiều thiết chế chính trị, xã hội, kinh tế siết người dân đến ngạt thở..., tất cả khiến cuộc sống lao dốc không phanh. Không những không nhận ra sự thực ấy, bộ máy điều hành còn gây ra biết bao phiền toái, vô lý. Vì quá máy móc về mô hình phát triển kinh tế xã hội chủ nghĩa, những người cầm trịch cho rằng tất cả phải quy về sự quản lý, điều hành của nhà nước. Sản xuất và buôn bán mang tính tư nhân, cá thể bị triệt tiêu. Họ dựng lên những rào cản kìm hãm sức sản xuất, phá hoại thị trường. Họ cấm tiệt sự tự do lưu thông phân phối. Tất cả mọi sản phẩm đều được coi là hàng hóa và phải quy về sự điều tiết, phân phối theo kế hoạch của nhà nước, kể từ hạt lúa, mét vải, cái kim sợi chỉ, cuốn tập học trò, chiếc xe đạp, điếu thuốc lá, cái bát ăn cơm, con gà con lợn... Ai tự động lưu thông những thứ do mình sản xuất được hoặc mua được đều vi phạm luật của nhà nước. Nơi trồng lúa gạo không biết bán cho ai, bán đi đâu; còn nơi thiếu gạo đói ăn cứ ráng chịu đựng, dù có thể chết đói. Mọi thứ đều thành hàng cấm, mọi hành vi lưu thông phân phối ngoài quy định của nhà nước đều là buôn lậu. Nơi thừa, nơi thiếu, dân kêu nhưng cán bộ mặc kệ. Cứ cấm cái đã, rồi tính sau.
Tôi còn nhớ những năm từ 1977 (lúc tôi vào Sài Gòn) đến khoảng 1992-1994 có 2 trạm kiểm soát cực kỳ nổi tiếng về sự ghê gớm của nó: Trạm Tân Hương trên quốc lộ 4 (nay là quốc lộ 1) từ Sài Gòn về miền Tây Nam Bộ, đặt ở huyện Tân Hiệp, tỉnh Tiền Giang; trạm kia là trạm Suối Sâu trên quốc lộ 21 từ Sài Gòn đi Tây Ninh, đặt ở huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh. Không biết bao nhiêu oan ức, đau khổ, bi kịch của người dân đã sinh ra từ 2 trạm này. Lúc ấy lực lượng kiểm soát là những ông trời con, bất cứ thứ gì của người dân đưa qua trạm cũng bị lục soát, khám xét, tịch thu, kể cả gạo, đường tán, cá thịt, thuốc lá, trái cây, vải vóc... Dưới danh nghĩa chống buôn lậu, đội quản lý thị trường tịch thu hết. Mỗi tỉnh, mỗi vùng là một địa giới cát cứ riêng. Người có thể qua lại nhưng hàng thì dứt khoát phải “nội bất xuất, ngoại bất nhập”. Trường tôi có lần tổ chức cho giáo viên về chợ TP.Mỹ Tho (tỉnh Tiền Giang) mua gạo cứu đói, mỗi người chỉ dám mua 15-20kg, vậy mà qua trạm Tân Hương vẫn bị tịch thu hết, có lần còn bị đám nhân viên trạm vác AR15 ra bắn đoành đoành đuổi theo, đến giờ nhớ lại còn phát khiếp. Một lần tôi đi Tây Ninh thăm cậu em họ, lúc về y làm quà cho 2kg đường tán (màu vàng, viên to bằng 2 đốt tay) và 3 gói thuốc lá Samit. Qua trạm Suối Sâu mặc dù tôi đã giấu khá kỹ nhưng có lẽ do mình theo nghề dạy học, không quen làm điều gì mờ ám nên đám nhân viên kiểm soát nhìn mặt là nhận ra ngay, khám liền và tịch thu hết. Từ đó sợ, mấy năm sau không dám đi Tây Ninh nữa.
Có một thời, làm quan chức cũng không quyền hành, quan trọng bằng làm nhân viên thương nghiệp nhà nước, mậu dịch quốc doanh. Còn trong thời ngăn sông cấm chợ, nhân viên quản lý thị trường oai to bằng ông trời. Hồi ấy người ta vẫn truyền tai nhau chuyện (chả biết giai thoại thực hay bịa nhưng nghe rất có lý): Một vị phó thủ tướng đặc trách về cải tạo kinh tế ở miền Nam đi công tác qua trạm Tân Hương, mấy “ông trời con” vác AR15 ra chặn lại đòi khám xét hàng hóa. Chú lại xe thò đầu ra thông báo, rằng đây là xe của ông ấy ông ấy. “Trời con” gắt, ông nào cũng kệ, dù có là ông mười một cũng phải chấp hành luật ngăn sông cấm chợ. Sực nhớ chuyện Thương Ưởng nước Tần bên Tàu thời Xuân Thu chiến quốc, đặt ra quy định quản lý bằng hộ khẩu, đến khi tai vạ thì chính cái định luật của ông ta lại hại ông ta trước.
Bây giờ, cứ nhắc lại thời kinh hoàng ấy, ai người đã trải qua cũng phải rùng mình. Đất nước rừng vàng biển bạc, tài nguyên phong phú, khí hậu tốt tươi, con người cần cù, lịch sử oai hùng, lại thêm khí thế ngất trời sau cuộc chiến thắng thù trong giặc ngoài, cứ tưởng chỉ còn mỗi việc cùng nhau bước lên con đường hạnh phúc, vậy mà những quyết sách, chủ trương sai lầm, trong đó có ngăn sông cấm chợ, đã ngăn cản thật tai hại. Cũng may mà đến nửa cuối thập niên 80 người ta đã nhận ra và sửa chữa, loại bỏ dần những rào cản, đời sống mới đỡ ngột ngạt, căng thẳng, dễ thở hơn.
Nhớ lại một thời ngăn sông cấm chợ, để thấy rằng dân chúng chịu đựng được chừng ấy năm là quá giỏi.
Chết ở chỗ, những người đã thắng trong cuộc chiến tranh lại rất kiêu ngạo, chủ quan. Nghĩ mình đã đánh thắng được cả hai đế quốc to thì việc xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội chỉ là chuyện nhỏ, một sớm một chiều. Năm 1976, Bí thư thứ nhất Lê Duẩn trong bài diễn văn kỷ niệm 1 năm đại thắng mùa xuân đã nói câu thể hiện cái ý ấy, giống hệt câu thơ của thi sĩ Tố Hữu, “đường lên hạnh phúc rộng thênh thênh”. Hầu hết cán bộ và dân chúng say sưa, lạc quan trước viễn cảnh tươi đẹp, chủ nghĩa cộng sản về đến ngõ rồi, chỉ cần long trọng ra rước vào nhà thôi.
Say quá nên làm tới luôn, bất chấp tất cả quy luật. Không chịu nghe những lời phải trái, cứ quyết là làm. Tất cả chỉ có đúng, chúng ta không bao giờ sai. Nền kinh tế miền Nam đang huy hoàng, phát triển là vậy, nhưng chỉ vài nhát quét bằng chủ trương cải tạo kinh tế, đã mau chóng về tầm ngang bằng miền Bắc vốn ì ạch, lệ thuộc vào nước ngoài. Tôi còn nhớ như in ở miền bắc trước 1975 đi đâu cũng thấy những vỏ thùng gỗ thông đựng hàng viện trợ của Liên Xô, đề chữ CCCP (viết tắt của Liên bang cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết). Người ta tếu táo đùa nhau đọc chệch thành “các chú cứ phá” hoặc “càng cho càng phá”. Kinh tế bao cấp và chính sách ngăn sông cấm chợ đã kìm hãm đất nước và dân tộc gần hai chục năm, nhưng tại hại nhất là nó kéo lùi Việt Nam chậm cả mấy chục năm so với nước khác, để không biết đến khi nào mới đuổi kịp.
Bọn trẻ bây giờ không biết ngăn sông cấm chợ là như thế nào. Đại khái, nôm na vậy cho dễ hiểu: Kinh tế, sản xuất ngày càng khó khăn. Mỹ cấm vận, bầu sữa Liên Xô, Trung Quốc ngày càng teo tóp, tâm lý sống dựa dẫm đã ăn sâu vào cả cán bộ lẫn dân chúng, bộ máy đảng và chính quyền sống nhờ vào ngân sách ngày càng phình to, nhiều thiết chế chính trị, xã hội, kinh tế siết người dân đến ngạt thở..., tất cả khiến cuộc sống lao dốc không phanh. Không những không nhận ra sự thực ấy, bộ máy điều hành còn gây ra biết bao phiền toái, vô lý. Vì quá máy móc về mô hình phát triển kinh tế xã hội chủ nghĩa, những người cầm trịch cho rằng tất cả phải quy về sự quản lý, điều hành của nhà nước. Sản xuất và buôn bán mang tính tư nhân, cá thể bị triệt tiêu. Họ dựng lên những rào cản kìm hãm sức sản xuất, phá hoại thị trường. Họ cấm tiệt sự tự do lưu thông phân phối. Tất cả mọi sản phẩm đều được coi là hàng hóa và phải quy về sự điều tiết, phân phối theo kế hoạch của nhà nước, kể từ hạt lúa, mét vải, cái kim sợi chỉ, cuốn tập học trò, chiếc xe đạp, điếu thuốc lá, cái bát ăn cơm, con gà con lợn... Ai tự động lưu thông những thứ do mình sản xuất được hoặc mua được đều vi phạm luật của nhà nước. Nơi trồng lúa gạo không biết bán cho ai, bán đi đâu; còn nơi thiếu gạo đói ăn cứ ráng chịu đựng, dù có thể chết đói. Mọi thứ đều thành hàng cấm, mọi hành vi lưu thông phân phối ngoài quy định của nhà nước đều là buôn lậu. Nơi thừa, nơi thiếu, dân kêu nhưng cán bộ mặc kệ. Cứ cấm cái đã, rồi tính sau.
Tôi còn nhớ những năm từ 1977 (lúc tôi vào Sài Gòn) đến khoảng 1992-1994 có 2 trạm kiểm soát cực kỳ nổi tiếng về sự ghê gớm của nó: Trạm Tân Hương trên quốc lộ 4 (nay là quốc lộ 1) từ Sài Gòn về miền Tây Nam Bộ, đặt ở huyện Tân Hiệp, tỉnh Tiền Giang; trạm kia là trạm Suối Sâu trên quốc lộ 21 từ Sài Gòn đi Tây Ninh, đặt ở huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh. Không biết bao nhiêu oan ức, đau khổ, bi kịch của người dân đã sinh ra từ 2 trạm này. Lúc ấy lực lượng kiểm soát là những ông trời con, bất cứ thứ gì của người dân đưa qua trạm cũng bị lục soát, khám xét, tịch thu, kể cả gạo, đường tán, cá thịt, thuốc lá, trái cây, vải vóc... Dưới danh nghĩa chống buôn lậu, đội quản lý thị trường tịch thu hết. Mỗi tỉnh, mỗi vùng là một địa giới cát cứ riêng. Người có thể qua lại nhưng hàng thì dứt khoát phải “nội bất xuất, ngoại bất nhập”. Trường tôi có lần tổ chức cho giáo viên về chợ TP.Mỹ Tho (tỉnh Tiền Giang) mua gạo cứu đói, mỗi người chỉ dám mua 15-20kg, vậy mà qua trạm Tân Hương vẫn bị tịch thu hết, có lần còn bị đám nhân viên trạm vác AR15 ra bắn đoành đoành đuổi theo, đến giờ nhớ lại còn phát khiếp. Một lần tôi đi Tây Ninh thăm cậu em họ, lúc về y làm quà cho 2kg đường tán (màu vàng, viên to bằng 2 đốt tay) và 3 gói thuốc lá Samit. Qua trạm Suối Sâu mặc dù tôi đã giấu khá kỹ nhưng có lẽ do mình theo nghề dạy học, không quen làm điều gì mờ ám nên đám nhân viên kiểm soát nhìn mặt là nhận ra ngay, khám liền và tịch thu hết. Từ đó sợ, mấy năm sau không dám đi Tây Ninh nữa.
Có một thời, làm quan chức cũng không quyền hành, quan trọng bằng làm nhân viên thương nghiệp nhà nước, mậu dịch quốc doanh. Còn trong thời ngăn sông cấm chợ, nhân viên quản lý thị trường oai to bằng ông trời. Hồi ấy người ta vẫn truyền tai nhau chuyện (chả biết giai thoại thực hay bịa nhưng nghe rất có lý): Một vị phó thủ tướng đặc trách về cải tạo kinh tế ở miền Nam đi công tác qua trạm Tân Hương, mấy “ông trời con” vác AR15 ra chặn lại đòi khám xét hàng hóa. Chú lại xe thò đầu ra thông báo, rằng đây là xe của ông ấy ông ấy. “Trời con” gắt, ông nào cũng kệ, dù có là ông mười một cũng phải chấp hành luật ngăn sông cấm chợ. Sực nhớ chuyện Thương Ưởng nước Tần bên Tàu thời Xuân Thu chiến quốc, đặt ra quy định quản lý bằng hộ khẩu, đến khi tai vạ thì chính cái định luật của ông ta lại hại ông ta trước.
Bây giờ, cứ nhắc lại thời kinh hoàng ấy, ai người đã trải qua cũng phải rùng mình. Đất nước rừng vàng biển bạc, tài nguyên phong phú, khí hậu tốt tươi, con người cần cù, lịch sử oai hùng, lại thêm khí thế ngất trời sau cuộc chiến thắng thù trong giặc ngoài, cứ tưởng chỉ còn mỗi việc cùng nhau bước lên con đường hạnh phúc, vậy mà những quyết sách, chủ trương sai lầm, trong đó có ngăn sông cấm chợ, đã ngăn cản thật tai hại. Cũng may mà đến nửa cuối thập niên 80 người ta đã nhận ra và sửa chữa, loại bỏ dần những rào cản, đời sống mới đỡ ngột ngạt, căng thẳng, dễ thở hơn.
Nhớ lại một thời ngăn sông cấm chợ, để thấy rằng dân chúng chịu đựng được chừng ấy năm là quá giỏi.
Anh Thông viết rất đúng, và hay, chỉ xin bổ sung chuyện đường dài thôi
Trả lờiXóaNhững năm 81-85, mỗi năm tôi lại đi công tác Sài Gòn ít nhất một lần,bằng ôtô.
Cuối tỉnh này một trạm, chỉ 300 mét nữa là vào đầu của tỉnh khác rồi,lại một trạm nữa.
Bao nhiêu là thời gian cho những trạm ấy. Mà từ Bắc vào Nam rồi lại quay ra, mà trạm cuối cùng khi về Hà Nội là trạm ở Ngọc Hồi
"huyện Tân Hiệp, tỉnh Tiền Giang" ở đâu ra cái tên này hả Lý Thông, nói láo cũng phải tìm hiểu copy cho đúng chứ.
Trả lờiXóa