KINH TẾ VĨ MÔ: LÝ THUYẾT, THỰC TIỄN VÀ DỰ BÁO MỘT SỐ CHỈ TIÊU VÀ CÂN ĐỐI LỚN
II. KHOA HỌC KINH TẾ VĨ MÔ
1) Sự hình thành của kinh tế học vĩ mô
Trong thực tế đời
sống hàng ngày, chúng ta thường tự hỏi:
- Tăng trưởng
kinh tế là gì ? Từ đâu sinh ra tăng trưởng kinh tế ? Con người có thể tác động
vào quá trình tăng trưởng kinh tế không ?
- Tại sao các hoạt
động kinh tế có tính chu kỳ; tại sao tỷ lệ tăng trưởng kinh tế thường dao động
quanh xu hướng chung của nó ?
- Tại sao thất
nghiệp không mang tính chu kỳ trong khi lạm phát lại có tính chu kỳ ?
- Và vô số câu hỏi
tương tự khác.
Những câu hỏi
này trước đây không được đặt ra. Trong lịch sử kinh tế hàng nghìn năm, người ta
cho rằng thị trường hoàn toàn có khả năng tự điều chỉnh để các hoạt động kinh tế
diễn ra một cách tối ưu; do đó không có bất cứ lý do gì phải nghiên cứu hành vi
và cơ chế hoạt động của nền kinh tế. Điển hình cho quan điểm này là trường phái
“laissez – faire”, tức là để mặc nền kinh tế tự xoay sở. Một trường phái khác
cũng cùng quan điểm là “interventionism” ; trường phái này không chấp nhận
sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế. Nếu cần và chỉ trong những trường hợp
đặc biệt, nhà nước có thể hỗ trợ một thị trường hay một hoạt động kinh tế cụ thể
nào đó bằng các khoản trợ cấp từ ngân sách hoặc bằng chính sách bảo hộ trước
các đối thủ cạnh tranh từ ngoài nước.
Tuy nhiên tình
hình đã thay đổi kể từ khi khoa học kinh tế ra đời. Các nhà kinh tế nhận thấy khi
không có sự can thiệp của nhà nước, hiện tượng chu kỳ kinh tế đã diễn ra khắp
nơi. Về thời gian, có những chu kỳ cứ 1-2 năm lại lặp lại một lần, nhưng cũng
có những chu kỳ kéo dài tới 50-60 năm như chu kỳ Kondratieff. Chu kỳ kinh tế đã
gây ra nhiều hậu quả nặng nề cho các nền kinh tế.
Có nhiều nguyên
nhân gây ra các chu kỳ kinh tế, ví dụ như bùng nổ các phát minh sáng chế và cải
tiến công nghệ, các vụ mùa thu hoạch bội thu hoặc thất bát, sai lầm của giới chủ
khi dự báo về hành vi tương lai của người tiêu dùng… Nguồn gốc của lạm phát được
quy cho sự tăng lên quá nhanh của phương tiện thanh toán, trước tiên là khai
thác được nhiều vàng, sau đó là in thêm tiền giấy để cân đối với lượng vàng mới
bổ sung. Nhiều nguyên nhân trực quan như vậy vẫn đúng trong giai đoạn phát triển
hiện nay.
Mọi chuyện đã
thay đổi trong cuộc đại suy thoái kinh tế những năm 1930. Cuộc đại suy thoái đã
đẩy hàng chục triệu người lao động vào tình trạng thất nghiệp và nghèo đói, làm
cho người ta không còn có thể đổ tội cho các nguyên nhân khách quan được nữa.
Cuộc đại suy thoái đã gợi ý cho nhà kinh tế học người Anh John Maynard Keynes
viết tác phẩm nổi tiếng « Lý thuyết tổng quát về việc làm, lãi suất và tiền
tệ », xuất bản năm 1936. Đây có thể nói là điểm xuất phát thực sự của khoa
học kinh tế vĩ mô. Trong tác phẩm này, Keynes đã lần đầu tiên đề cao vai trò của
tổng cầu trong các biến động kinh tế vĩ mô. Sau đó các nhà kinh tế thuộc trường
phái Keynes đã thuyết phục các nhà chính trị, các nhà lãnh đạo quốc gia thực hiện
chính sách quản lý tổng cầu nhằm hạn chế, tiến tới loại bỏ các chu kỳ kinh tế,
đặc biệt là không để xảy ra những thời kỳ suy thoái kinh tế kéo dài như trong những
năm 1930.
Trong tài liệu
này, chúng ta sẽ nghiên cứu, đánh giá kết quả cụ thể của một số chính sách quản
lý tổng cầu mà Keynes và những người theo ông chủ trương. Điều này không dễ
dàng; có những trường hợp chính sách quản lý tổng cầu phát huy tác dụng tích cực,
nhưng cũng có những trường hợp chúng lại gây ra hậu quả tiêu cực. Tuy nhiên,
các nhà kinh tế đều thừa nhận, nhờ áp dụng chính sách quản lý tổng cầu, mật độ
và độ lớn của các chu kỳ kinh tế đã giảm hẳn kể từ sau chiến tranh thế giới lần
thứ 2 (sau năm 1945). Đặc biệt từ đó đến nay nền kinh tế thế giới đã trưởng
thành toàn diện, nếu so với trước đã thực sự trở thành người khổng lồ so với
chú tý hon, nhưng chưa từng xảy ra một cuộc đại suy thoái lớn như trong những
năm 1930. Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 2008-2011 vừa qua tuy lớn nhưng quy
mô và hậu quả vẫn kém xa cuộc đại suy thoái những năm 1930. Ngoài ra, nếu như
trước đây, các thế hệ cụ kỵ chúng ta luôn lo sợ về các cuộc suy thoái kinh tế
(tăng trưởng âm) thì ngay nay nỗi lo này dường như đã chấm dứt, thay thế bằng nỗi
lo về các thời kỳ tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm lại.
Một thay đổi
khác so với trước khi khoa học kinh tế vĩ mô ra đời liên quan tới mặt bằng giá.
Trước năm 1940, tiến triển của giá khi tăng, khi giảm. Ngoại trừ những năm chiến
tranh, người ta không thấy xu hướng tăng giá. Ở nhiều nước công nghiệp phát triển,
mặt bằng giá từ năm 1870 đến 1940 (50-70 năm) hầu như không đổi. Tuy nhiên tình
hình đã khác kể từ thời điểm 1940. Mặt bằng giá hầu như liên tục tăng lên qua
các năm.
Trên đây chỉ là
hai ví dụ minh họa về những thay đổi sâu sắc kể từ khi hình thành khoa học kinh
tế vĩ mô. Đối với nhiều nhà kinh tế, kinh tế vĩ mô đã góp phần quyết định để
tăng trưởng kinh tế trở nên ổn định, nhưng nó lại gây ra hậu quả lạm phát.
2) Kinh tế vĩ mô và kinh tế vi mô
Về lô gíc, kinh
tế vĩ mô không có gì khác hơn là tổng của vô số thị trường đơn lẻ (cung – cầu)
trong đó mỗi thị trường đều hành xử theo các nguyên lý của kinh tế vi mô. Kinh
tế vi mô nghiên cứu sự hình thành giá của các hàng hóa và dịch vụ cụ thể và sự
vận hành của các thị trường trên đó quá trình sản xuất và trao đổi các hàng hóa
và dịch vụ cụ thể diễn ra.
Tại sao phải
phân chia kinh tế học thành kinh tế vĩ mô và kinh tế vi mô ? Bởi vì những
nguyên lý của kinh tế vi mô tạo thành nền tảng cho hành vi của các cá nhân đơn
lẻ. Ngược lại, hành vi của các tập thể lại sinh ra từ những quyết định các cá
nhân trong khi chính bản thân mỗi cá nhân không nhận thức được đầy đủ về hành
vi của các cá nhân khác. Keynes đã nhấn mạnh đến sự thiếu phối hợp như vậy, và
có thể minh họa như sau:
Một người tiêu
dùng muốn mua một chiếc ô tô nhưng anh ta không đủ số tiền cần thiết. Một người
sản xuất ô tô có thể thuê anh ta làm việc để có đủ tiền lương mua ô tô. Tuy
nhiên, để đảm bảo lợi ích, người sản xuất phải bán ô tô với giá đủ trang trải
các chi phí trong đó có tiền lương. Do đó, để nhận anh ta vào làm việc, người sản
xuất sẽ cam kết những điều kiện làm việc cho anh ta tương tự như rất nhiều người
lao động khác trong nhà máy, thậm chí tương tự như rất nhiều người lao động
khác trong một số lĩnh vực liên quan. Điều này đòi hỏi phải có sự phối hợp giữa
người sản xuất và người tiêu dùng.
Về nguyên tắc, sự
phối hợp này được thực hiện qua giá cả và trên các thị trường. Nếu như không có
sự phối hợp và đồng thuận, nhiều người tiêu dùng muốn có thu nhập để mua hàng
hóa và dịch vụ đồng thời sẵn sàng làm việc để có thu nhập có thể sẽ không tìm
được việc làm, do đó sẽ không có thu nhập. Khi đó chúng ta sẽ đối diện với tình
trạng suy thoái (giảm bán hàng) kèm theo thất nghiệp (số việc làm không đáp ứng
nhu cầu). Mặc dù cơ chế kinh tế thị trường có thể điều chỉnh dần kiểu mất cân bằng
này nhưng thời gian cần thiết để tự động điều chỉnh sẽ quá dài và hậu quả xã hội
sẽ quá lớn.
Nói một cách
chính xác, kinh tế vĩ mô được đặt ra để xử lý trường hợp giá cả và thị trường,
tại mỗi thời điểm, không thể thỏa mãn được tập hợp những đòi hỏi phối hợp của một
nền kinh tế hiện đại. Kinh tế vi mô cũng đang tiến tới tiếp cận này nên khoảng
cách giữa kinh tế vĩ mô và kinh tế vi mô đang ngày càng được thu hẹp. Thực
ra, chính các nguyên lý của kinh tế vi mô hợp thành cơ sở của kinh tế vĩ mô hiện
đại.
3) Kinh tế vĩ mô và chính sách kinh tế
Những nhà kinh tế
học vĩ mô đầu tiên cho rằng Nhà nước vừa có khả năng, vừa có nhiệm vụ bù lấp, sửa
chữa những khiếm khuyết của thị trường. Tuy nhiên kinh nghiệm của nhiều thập kỷ
vừa qua cho thấy Nhà nước cũng rất yếu kém. Vì vậy các nhà kinh tế vĩ mô hiện đại
đã và đang tiếp tục bị phân hóa. Một nhóm nhấn mạnh những khiếm khuyết của thị
trường (do đó rất cần vai trò quản lý, dẫn dắt của Nhà nước) trong khi một nhóm
khác lại lo lắng về những can thiệp sai lầm của giới lãnh đạo.
Trong thực tiễn,
hầu như mọi người dân cũng như các nhà kinh tế đều quy cho Nhà nước trách nhiệm
bảo vệ, nâng cao sức khỏe cho nền kinh tế. Thêm nữa, trong các cuộc bầu cử, một
trong những câu hỏi đầu tiên để đánh giá các nhà chính trị và Nhà nước là về
tình hình kinh tế. Thực tiễn cũng cho thấy phần lớn các Nhà nước vừa ngăn chặn
được thất nghiệp, vừa giữ ổn định được mặt bằng giá, sẽ được cử tri đánh giá
cao và được tái cử.
Vì những lý do
trên, kinh tế vĩ mô còn được gọi là cuộc cách mạng Keynes vì nó khác hẳn với học
thuyết kinh tế tự do trong quá khứ và gắn liền với vai trò quan trọng của các
chính sách của Nhà nước, đặc biệt là các chính sách ngắn hạn.
4) Kinh tế cầu và kinh tế cung
Dưới dạng tổng hợp
nhất, kinh tế vĩ mô phân chia các hiện tượng kinh tế thành hai loại : Loại
gắn liền với cầu hàng hóa và dịch vụ và loại liên quan tới cung hàng hóa và dịch
vụ.
Kinh tế cầu
nghiên cứu các quyết định chi tiêu của các tác nhân kinh tế. Khái niệm tác nhân
kinh tế được dùng để chỉ những nhóm người có quyền quyết định khác nhau: Các hộ
gia đình, các doanh nghiệp và các cơ quan Nhà nước. Nguyên lý chỉ đạo của các
chính sách quản lý cầu gộp của Nhà nước là bổ sung hay hạn chế các hoạt động của
các tác nhân kinh tế tư nhân (các hộ gia đình và các doanh nghiệp) nhằm giảm
thiểu, thậm chí loại trừ các biến động của cầu. Điều này có nghĩa là Nhà nước
phải thực hiện các chính sách để giảm bớt tốc độ tăng trưởng của cầu trong những
giai đoạn tăng trưởng kinh tế cao và nâng tốc độ tăng trưởng của cầu trong những
giai đoạn tăng trưởng kinh tế thấp.
Hai công cụ truyền
thống và quan trọng nhất để kiểm soát tổng cầu là chính sách ngân sách và chính
sách tiền tệ. Chính sách ngân sách sử dụng chi và thu ngân sách để tác động tới
tổng tiêu dùng quốc gia. Chính sách tiền tệ có vai trò định hướng lãi suất, tỷ
giá và tác động tới các thị trường tài chính và tới các mối liên hệ của chúng với
nền kinh tế thực.
Kinh tế cung nghiên cứu
tiềm năng sản xuất của nền kinh tế. Tổng cung của toàn nền kinh tế là hàm số của
số giờ mà người lao động đã làm việc, của năng suất lao động và hiệu quả sử dụng
các nguồn lực. Các chính sách cung phản ảnh mong muốn của các nhà lãnh đạo tăng
năng lực và hiệu quả của toàn hệ thống kinh tế.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét