KINH TẾ VĨ MÔ: LÝ THUYẾT, THỰC TIỄN VÀ DỰ BÁO MỘT SỐ CHỈ TIÊU VÀ CÂN ĐỐI LỚN
4) Lạm phát
Tỷ lệ lạm phát
đo lường tốc độ phát triển của mặt bằng giá. Nói chung, lạm phát được đo lường
theo tỷ lệ phần trăm, năm sau so với năm trước hoặc tháng sau so với tháng trước.
Một tỷ lệ lạm phát hàng năm từ 0% đến 6%, hoặc tối đa 8% được coi là thấp hoặc
ôn hòa. Trong ba thập kỷ qua, tỷ lệ lạm phát thế giới dao động khoảng 10%,
nhưng cũng có những nước có tỷ lệ lạm phát rất thấp, thậm chí âm kéo dài; ngược
lại cũng có những nước có tỷ lệ lạm phát rất cao, giá cả tăng lên hàng ngày. Đối
với những nước có tỷ lệ lạm phát cao, người ta phải đo lường và nghiên cứu biến
động hàng tháng của nó.
Bảng 1.4:
Minh họa các trường hợp lạm phát (trung bình theo kỳ)
1) Lạm phát yếu
hoặc ôn hòa (% năm)
|
|||||
Hà Lan
|
Đức
|
Pháp
|
Tây Ban Nha
|
Ý
|
Thụy Điển
|
1983-1989
|
1983-1989
|
1983-1989
|
1983-1989
|
1983-1989
|
1983-1989
|
1,3
|
2,4
|
5,4
|
8,6
|
8,7
|
7,0
|
2) Lạm phát âm
(% năm)
|
|||||
Đức
|
Nhật
|
Anh
|
Mỹ
|
||
1924-1938
|
1924-1938
|
1920-1938
|
1920-1938
|
||
-0,1
|
-0,3
|
-2,6
|
-2,0
|
||
3) Lạm phát
cao (% tháng)
|
|||||
Áo
|
Đức
|
Hungary
|
Ba
Lan
|
Bolovia
|
Achentina
|
1/1921 – 1/1924
|
1/1922 – 1/1924
|
7/1921 – 7/1924
|
1/1921 – 1/1924
|
1982-1985
|
1986-1990
|
16,3
|
174,0
|
19,1
|
21,0
|
26,3
|
21,7
|
Khi tỷ lệ lạm
phát hàng tháng vượt quá 50%, chúng ta gọi là siêu lạm phát. Hiện tượng này phản
ánh tình trạng nền kinh tế đang trong tình trạng khủng hoảng sâu sắc. Nó đã diễn
ra ở châu Âu vào những năm 1920, ở các nước Mỹ La tinh vào những năm 1980, ở Ba
Lan, Nga và một số nước thuộc khối Liên Xô cũ vào những năm 1990 khi khối Sô Viết
sụp đổ. Dưới đây là bảng minh họa một số trường hợp lạm phát trên thế giới,
trong đó có những trường hợp lạm phát ôn hòa, thậm chí âm, nhưng cũng có những
trường hợp lạm phát rất cao.
Trong thời kỳ
bình thường, lạm phát đi theo chu kỳ kinh tế: Lạm phát thường tăng lên trong thời
kỳ tăng trưởng kinh tế nhanh và giảm xuống trong thời kỳ tăng trưởng kinh tế thấp.
Trong nghiên cứu kinh tế, người ta thường lập đồ thị quan hệ giữa biến động của
tỷ lệ lạm phát và tỷ lệ sử dụng năng lực sản xuất (hoặc tỷ lệ sử dụng công suất
máy móc thiết bị). Tỷ lệ sử dụng năng lực sản xuất đo lường mức độ sử dụng tiềm
năng sản xuất của các doanh nghiệp; đây là một chỉ tiêu rất tốt để phân tích
các pha đi lên và đi xuống trong các chu kỳ kinh tế. Vì sản xuất có tính chu kỳ
nên nói chung tỷ lệ lạm phát cũng mang tính chu kỳ dù ở cấp độ thấp hơn. Ngược
lại, tỷ lệ thất nghiệp thường không mang tính chu kỳ.
5) Thị trường tài chính và nền kinh tế thực
Các thị trường
tài chính đang đóng vai trò trung tâm trong các nền kinh tế hiện đại. Do đó
kinh tế vĩ mô cũng coi chúng là những đối tượng quan trọng cần nghiên cứu, qua
đó giải thích được quá trình tăng trưởng kinh tế và các hiện tượng kinh tế vĩ
mô liên quan.
Thị trường tài
chính là một thị trường trong đó mọi cá nhân và các thể chế có thể trao đổi các chứng khoán tài chính
(công trái, cổ phiếu, trái phiếu…), các hàng hóa, và các loại giấy
tờ có giá khác với chi phí giao dịch thấp và các giá cả được hình thành
qua cân đối cung và cầu. Thị trường tài chính bao gồm thị trường
tài chính trực tiếp (ví dụ qua thị trường chứng khoán) và thị trường tài chính
gián tiếp hay còn được gọi là trung gian tài chính. Tham gia thị trường tài
chính gián tiếp chủ yếu là các ngân hàng thương mại.
Các ngân hàng thương
mại có chức năng huy động các nguồn tiền tiết kiệm của khu vực dân cư để đem
cho các doanh nghiệp vay. Ngân hàng thương mại cũng tham gia giao dịch ngoại tệ,
cổ phiếu và trái phiếu. Đây là những thị trường có giá cả biến động liên tục và
rất nhanh ; hầu như hàng ngày chúng ta đều nghe thấy những thông tin mới
nhất về giá cổ phiếu, chứng khoán và tỷ giá. Người ta thường dùng trung bình của
các sai lệch về giá cả hàng ngày so với xu hướng chung của chúng làm thước đo độ
biến động. Về mặt kỹ thuật, hệ số biến động là tỷ lệ giữa chênh lệch của một biến
số so với trung bình của nó.
Bảng 1.5 là một ví
dụ minh họa về hệ số biến động của một số chỉ tiêu kinh tế vĩ mô của Việt Nam
và một số nước ASEAN giai đoạn 2007-2014.
Bảng 1.5:
Minh họa biến động trên 3 thị trường tài chính
Việt Nam
|
Thái Lan
|
Indonesia
|
Phillippines
|
Malaysia
|
Singapore
|
|
Khu vực thực:
|
||||||
-
Tăng trưởng GDP
|
5,9
|
3,2
|
5,7
|
5,4
|
4,8
|
5,3
|
-
Tỷ lệ đầu tư / GDP
|
35,5
|
26,2
|
30,9
|
21,0
|
23,6
|
25,6
|
-
Tỷ lệ lạm phát
|
10,7
|
2,6
|
6,2
|
4,3
|
2,5
|
3,2
|
Khu vực tài chính:
|
||||||
-
Chỉ số chứng khoán
|
9,4
|
4,8
|
8,5
|
8,0
|
6,5
|
7,5
|
-
Lãi suất thực
|
1,0
|
1,6
|
1,6
|
1,8
|
2,0
|
2,2
|
-
Tỷ giá danh nghĩa
|
3,9
|
-2,5
|
3,6
|
-2,4
|
-1,7
|
-3,2
|
Bảng 1.5 so sánh
các hệ số biến động giá trên ba thị trường tài chính gồm thị trường vốn, thị
trường ngoại hối và thị trường tiền tệ của một số nước ASEAN. Chúng ta thấy có
ba loại giá (giá cổ phiếu, tỷ giá và lãi suất) tương ứng với ba biến kinh tế vĩ
mô (GDP, mặt bằng giá và tỷ lệ đầu tư trên GDP). Thông thường giá có quan hệ với
các biến kinh tế vĩ mô, ví dụ giá cổ phiếu tăng nhanh tại các nước có tốc độ
tăng trưởng kinh tế cao và ngược lại, tăng chậm ở các nước có tốc độ tăng trưởng
kinh tế. Tương tự người ta cũng nhận thấy khi lãi suất thực thấp thì tỷ lệ đầu
tư sẽ cao, hoặc ở những nước có tỷ giá biến động thì tỷ lệ lạm phát cũng rất biến
động… Số liệu ở các nước ASEAN cũng thể hiện được các mối quan hệ này.
Bảng 1.6
trình bày số liệu phản ánh biến động trên 3 thị trường tài chính nêu trên trong
trường hợp Việt Nam những năm gần đây. Chúng ta thấy quan hệ giữa ba nhóm chỉ
tiêu này không rõ ràng như trường hợp các nước ASEAN trong bảng 1.4.
Ở các nước công
nghiệp phát triển có nền kinh tế thị trường lành mạnh, khi nghiên cứu các bảng
1.5 và 1.6, người ta thường rút ra ba kết luận quan trọng: (i) Các biến tài
chính biến động mạnh hơn các biến kinh tế của khu vực thực; (ii) Các tỷ lệ
tăng trưởng có xu hướng biến động hơn lãi suất và tỷ lệ đầu tư ; (iii) Tỷ
lệ lạm phát biến động ít hơn so với tốc độ tăng trưởng kinh tế. Sau này chúng
ta sẽ nghiên cứu sự ổn định của giá là cơ sở của ổn định kinh tế ngắn hạn.
Bảng 1.6: Việt
Nam - Biến động trên 3 thị trường tài chính
2007
|
2008
|
2009
|
2010
|
2011
|
2012
|
2013
|
2014
|
|
Khu vực thực:
|
||||||||
-
Tăng trưởng GDP
|
7,1
|
5,7
|
5,4
|
6,4
|
6,2
|
5,2
|
5,4
|
6,0
|
-
Tỷ lệ đầu tư / GDP
|
42,7
|
38,2
|
39,2
|
38,5
|
33,3
|
31,1
|
30,4
|
31,0
|
-
Tỷ lệ lạm phát
|
8,4
|
23,1
|
6,7
|
9,2
|
18,6
|
9,2
|
6,6
|
4,1
|
Khu vực tài
chính:
|
||||||||
-
Chỉ số chứng khoán
|
95,5
|
-52,2
|
-10,3
|
12,2
|
-11,1
|
-4,2
|
18,7
|
18,9
|
-
Lãi suất thực
|
2,4
|
-9,1
|
4,8
|
2,3
|
-4,1
|
3,6
|
4,9
|
4,5
|
-
Tỷ giá danh nghĩa
|
1,55
|
1,22
|
4,68
|
9,07
|
10,19
|
1,55
|
0,51
|
1,03
|
Nguồn: Tổng cục
Thống kê, Ngân hàng nhà nước và ADB.
Đầu tư là một
trong những cơ chế trung gian để các thị trường tài chính tác động tới nền kinh
tế thực, tức là khu vực sản xuất ra của cải vật chất. Điều này có nghĩa là
trong khi khu vực tài chính (còn được gọi là khu vực tiền tệ) là nơi thực hiện
các trao đổi tài chính và tiền tệ thì nền kinh tế thực là nơi diễn ra các hoạt
động sản xuất, tiêu thụ hàng hóa và dịch vụ và phân phối thu nhập. Chúng ta sẽ
nghiên cứu các quan hệ ngắn hạn và dài hạn giữa nền kinh tế thực và nền kinh tế
tài chính, tiền tệ trong các chương khác trong tài liệu này.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét