Bầu cử kiểu gì khi tệ ngay từ luật
Phụ lục 1: Biện pháp đảm bảo cho cử tri có thể bỏ phiếu kín
Khoang viết phiếu kín đáo cho từng cử tri đã được sử dụng hơn một trăm năm (Ảnh 1). Kín đáo nhất là che cả bốn phía, và để tiết kiệm thì có thể dùng vải treo lơ lửng, chỉ che nửa người trên (Ảnh 2). Nếu ai đó cố ngụy biện, rằng như vậy cũng đã quá tốn kém, thì hãy nhớ tới đống tiền vung vãi cho rừng cờ quạt biểu ngữ. Chỉ cần bớt một phần nhỏ những khẩu hiệu"muôn năm", "đời đời", "nhiệt liệt"… thì đã thừa vải để che chắn các khoang bầu cử (Ảnh 3 và 4). Thậm chí, có thể dùng chính cờ quạt, biểu ngữ mà che chắn (Ảnh 5).
Ảnh 1: Khoang bầu cử (bên trái) ở New York vào khoảng năm 1900
|
Ảnh 2: Khoang bầu cử được che kín bằng vải (Đức)
|
Ảnh 3: Cổ động bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIII tại Hà Nội
|
Ảnh 4: Cổ động bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIII tại Hà Nội
|
Ảnh 5: Có thể che kín khoang bầu cử bằng cờ
|
Ảnh 6: Khoang bầu cử được che ba phía (Vương quốc Anh)
|
Ảnh 7: Khoang bầu cử được che cả phía trên (Trung Quốc)
|
Ảnh 8: Khoang bầu cử có thể gấp vào như chiếc va li con (Mỹ)
|
Ảnh 9: Khoang bầu cử ở Ethiopia
|
Ảnh 10: Khoang bầu cử ở Ấn Độ
|
Ảnh 11: Khoang bầu cử ở Indonesia
|
Ảnh 12: Khoang bầu cử ở Thái Lan
|
Ảnh 13: Khoang bầu cử ở Lào
|
Ảnh 14: Tờ hướng dẫn bầu cử ở Campuchia (trong đó vẽ hai khoang bầu cử ở bên phải, tách biệt và quay lưng vào tường, để không có ai đứng ở phía sau cử tri đang viết phiếu bầu)
|
Ghi chú: Các bức ảnh trên được sưu tầm từ internet.
Một số nơi chỉ che kín phía trước mặt và hai bên, còn phía sau được che chắn bởi chính thân thể cử tri (Ảnh 6). Trong trường họp ấy thì cử tri thường đứng chứ không ngồi, để khi cúi gập người mà viết thì che kín lá phiếu, đến mức người đứng sau khó nhìn thấy. Trong Ảnh 7 là một kiểu bảo mật bầu cử độc đáo ở Trung Quốc. Nhờ cái hốc gỗ đủ hẹp được che hai bên, phía trước và cả phía trên, dù cử tri ngồi hay đứng để viết thì người khác đứng ở đâu cũng không nhìn thấy lá phiếu, và camera đặt ở đâu cũng không thể ghi hình. Còn ở Mỹ thì có cả những khoang bầu cử gọn nhẹ, có thể gấp lại như một chiếc va li nhỏ khi không sử dụng (Ảnh 8).
Điều đáng nói là: Khoang bầu cử không phải là thứ đặc sản dành riêng cho những xứ giàu có văn minh, mà còn được phổ cập ở cả những vùng nghèo hẻo lánh (Ảnh 9, 10, 11 và 12). Tiếc rằng, trong khi khoang bầu cử được thiết lập nghiêm túc ở cả hai nước láng giềng Lào (Ảnh 13) và Campuchia (Ảnh 14), thì chúng vẫn còn khá xa lạ ở Việt Nam. Không hiểu bao giờ thì trình độ tổ chức bầu cử của giới cầm quyền Việt Nam mới đuổi kịp đồng nghiệp ở Lào và Campuchia?
Phụ lục 2: Văn bản dưới luật quy định về bầu cử đại biểu Quốc hội
Để các nhà lập pháp không ngụy biện, rằng đã hoặc sẽ có văn bản hướng dẫn dưới luật, cần lưu ý rằng văn bản "Hướng dẫn trình tự tổ chức bỏ phiếu, nội quy, trang trí phòng bỏ phiếu bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIII và đại biểu Hội đồng nhân dân khóa 2011 - 2016" (số 1327/HD-BNV, ngày 19/4/2011) của Bộ Nội vụ không hề đề cập đến biện pháp để đảm bảo nguyên tắc "bỏ phiếu kín", thậm chí không hề nhắc tới chữ "kín". Nó quy định tỉ mỉ từng chi tiết, như "cờ chuối có màu hồng, xanh, tím… không dùng màu đen và trắng", cả nội dung và vị trí chính xác của "Khẩu hiệu 01" và "Khẩu hiệu 02". Song nơi viết phiếu của cử tri chỉ được thể hiện trong Sơ đồ Mẫu 02 (kèm theo Hướng dẫn) bằng một hình chữ nhật dài, không hề có ghi chú nào liên quan đến yêu cầu "bỏ phiếu kín".
Về khía cạnh này thì Thông tư số 02/2016/TT-BNV ngày 1/2/2016 của Bộ Nội vụ hướng dẫn nghiệp vụ công tác tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016 - 2021 đã tiến bộ hơn, vì có thêm câu sau:
"Nơi cử tri viết phiếu bầu cần có các vách ngăn để bảo đảm cử tri “bỏ phiếu kín” theo quy định của pháp luật về bầu cử."
Tuy nhiên, khó có thể đánh giá quá cao Thông tư ấy. Vì sao?
Một mặt, tuy Thông tư số 02/2016/TT-BNV bổ sung thêm hướng dẫn về vách ngăn để bảo đảm cho cử tri “bỏ phiếu kín”, nhưng đồng thời nó lại mắc phải những lỗi mới, mà Hướng dẫn số 1327/HD-BNV ngày 19/4/2011 không mắc phải. Ví dụ, Thông tư số 02/2016/TT-BNV quy định vị trí chính xác để treo Khẩu hiệu 01 và Khẩu hiệu 02, nhưng lại chẳng viết nội dung của hai khẩu hiệu ấy là gì. Ví dụ khác, Thông tư số 02/2016/TT-BNV viết rõ ràng rằng: "Cổng ra vào và khu vực bên ngoài phòng bỏ phiếu được trang trí theo Mẫu số 01 ban hành kèm theo thông tư này" và "Khu vực bên trong phòng bỏ phiếu được trang trí theo Mẫu số 02 ban hành kèm theo thông tư này". Song trong Mẫu số 01 và Mẫu số 02 (kèm theo Thông tư) lại không hề có vị trí nào để treo danh sách và tiểu sử tóm tắt của những người ứng cử, trong khi quy định rất chi tiết vị trí chính xác của những thứ khác (như cờ quạt, khẩu hiệu, biểu ngữ, danh sách cử tri...). Không có tiểu sử tóm tắt của những người ứng cử, thì cử tri phải bầu mò 100% hay sao?
Mặt khác, chưa chắc quy định "cần có các vách ngăn…" của Thông tư số 02/2016/TT-BNV còn sống sót để "đi vào cuộc sống", bởi lẽ chưa kịp rời khỏi Bộ Nội vụ thì nó đã bị... bay hơi. Thật vậy, quy định ấy không hề xuất hiện trong bài "Bộ Nội vụ hướng dẫn nghiệp vụ công tác tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016 - 2021", được đăng tại mục "Giới thiệu văn bản mới" trên trang thông tin điện tử của Bộ Nội vụ. Bài giới thiệu ấy chỉ viết: "Khu vực bên trong phòng bỏ phiếu được trang trí theo Mẫu số 02 ban hành kèm theo Thông tư này." Trong khi Mẫu số 02 ấy lại chỉ vẽ một hình chữ nhật thật dài với chú thích "Bàn để cử tri lựa chọn đại biểu", hoàn toàn không có biểu hiện gì của yêu cầu kín hay hở.
Vị trí treo danh sách và tiểu sử tóm tắt của những người ứng cử đã từng được quy định rõ trong Mẫu số 01 kèm theo Hướng dẫn số 1327/HD-BNV của Bộ Nội vụ (ban hành năm 2011). Nội dung chính xác của Khẩu hiệu 01 và Khẩu hiệu 02 đã từng được quy định hai lần trong Hướng dẫn số 1327/HD-BNV và Mẫu số 02 kèm theo. Song 5 năm sau, những quy định ấy đã biến khỏi Mẫu số 01 và Mẫu số 02 kèm theo Thông tư số 02/2016/TT-BNV của Bộ Nội vụ (ban hành năm 2016). Vậy lấy gì để đảm bảo, rằng quy định "cần có các vách ngăn…" trong Thông tư số 02/2016/TT-BNV sẽ được tái hiện trong các văn bản hướng dẫn sau này của Bộ nội vụ?
Thực tế kể trên càng chứng tỏ: Quốc hội phải quy định đầy đủ những điều cần thiết trong Luật BCĐBQH để đảm bảo bốn nguyên tắc bầu cử đã được hiến định. Không thể ỷ lại, phó mặc cho các cơ quan hành pháp ban hành văn bản dưới luật, để rồi chẳng thiếu thứ này thì lại thiếu thứ khác. Cũng không thể đòi hỏi các cấp thực thi phải tìm kiếm, xem có những văn bản hướng dẫn dưới luật nào mới được ban hành, rồi bói xem chúng đã quy định đầy đủ mọi điều cần thiết hay chưa, và nếu còn thiếu thì phải vá víu từ đâu.
Phụ lục 3: Về việc tổ chức bỏ phiếu bầu cử cho cử tri vãng lai
Nguyện vọng hàng đầu và cũng là quyền lợi tối thiểu của cử tri, là bầu ra các đại biểu Quốc hội đại diện cho địa phương mà họ sinh sống lâu dài. Vì vậy, khi chấp nhận cho cử tri vãng lai bỏ phiếu một cách thực chất, thì cũng phải chấp nhận cho họ lựa chọn từ danh sách ứng cử của đơn vị bầu cử "gốc", tức là đơn vị bầu cử tại nơi mà họ sinh sống, chứ không phải tại nơi mà họ chỉ đến chữa bệnh, an dưỡng hay bị tạm giam trong một thời gian ngắn. Nghĩa là cử tri vãng lai phải được nhận phiếu bầu in sẵn từ đơn vị bầu cử "gốc" và phiếu bầu của họ phải được chuyển trở về đơn vị bầu cử "gốc" để kiểm phiếu.
Song khu vực bỏ phiếu được thiết lập ở bệnh viện, nhà an dưỡng, trại tạm giam… (theo quy định của Điều 12 Luật BCĐBQH 1997 và Điều 11 Luật BCĐBQH 2015) khó lòng đáp ứng được nhu cầu bầu cử quá phân tán của nhiều cử tri vãng lai. Nơi đó chỉ có phiếu bầu in sẵn họ tên của những người ứng cử của đơn vị bầu cử sở tại, chứ không có phiếu bầu ghi cả họ tên của những người ứng cử thuộc bao đơn vị bầu cử khác rải khắp muôn phương.
Vậy nên, nếu những người đi chữa bệnh, an dưỡng và những người bị tạm giam được và chỉ được tham gia những cuộc bầu cử được tổ chức tại bệnh viện, nhà an dưỡng và trại tạm giam, thì đó cũng chỉ là tham gia bầu cử một cách giả tạo. Họ chỉ được bầu những người ứng cử mà bản thân hoàn toàn không quan tâm và cũng chẳng hề hiểu biết. Hơn nữa, những đại biểu Quốc hội được bầu ở đó đại diện cho đơn vị bầu cử sở tại, hơn là đại diện cho các cử tri vãng lai. Như vậy, về thực chất thì những cử tri đang xét cũng không được hưởng quyền bầu cử đích thực. Tức đây cũng là một dạng vi phạm nguyên tắc bầu cử "phổ thông".
Ngoài ra, việc để cho cử tri vãng lai tham gia bầu cử nhằm xác định đại biểu đại diện cho đơn vị bầu cử sở tại còn vi phạm nguyên tắc "bình đẳng" giữa các vùng miền, tạo ra kết quả sai lệch so với nguyện vọng đích thực của đa số cử tri địa phương. Chẳng hạn, giả sử ở đơn vị bầu cử A chỉ có vị Y là người ứng cử sinh sống và làm việc trên chính địa bàn của đơn vị bầu cử ấy, còn những người ứng cử khác đều đến từ các vùng khác, do được Hội đồng bầu cử quốc gia phân về. Thông thường thì đa số cử tri của đơn vị bầu cử A muốn bầu cho vị Y để đại diện cho địa phương mình. Nhưng các cử tri vãng lai đang bị tạm giam tại nơi đó lại gạch tên vị Y, đơn giản vì vị ấy là công an. Hoặc các cử tri vãng lai đang điều trị tại những bệnh viện nằm trên khu vực đó gạch tên vị Y, để bầu cho những người khác, vì muốn ủng hộ người ứng cử là đồng hương của họ. Hậu quả là vị Y bị trượt và không có đại biểu Quốc hội nào thực sự đại diện cho địa phương ấy, chỉ vì ở đó có trại giam đủ to, hay mấy bệnh viện đủ lớn.
Sáng kiến cho phép thành lập các khu vực bỏ phiếu cho cử tri vãng lai có lẽ xuất phát một phần từ căn bệnh hình thức. Phía lập pháp chỉ cố quy định bằng được, rằng việc bỏ phiếu của một loại cử tri nào đó phải diễn ra, nhằm chứng tỏ mình tôn trọng quyền bầu cử của đối tượng ấy, chứ chẳng quan tâm và cũng chẳng đủ sức quan tâm, xem việc bỏ phiếu ấy có thực sự chính đáng và có thể diễn ra một cách hợp lý, tử tế hay không.
Phụ lục 4: Bầu cử nghị sĩ Quốc hội ở CHLB Đức
Theo Luật về các đảng chính trị của CHLB Đức, các đảng phải là những hiệp hội của công dân muốn tác động vào quá trình hình thành ý muốn chính trị của nhân dân và muốn tham gia đại diện cho nhân dân trong Quốc hội Liên bang và Quốc hội của các bang; và một hiệp hội sẽ đánh mất cương vị đảng hợp pháp nếu trong vòng 6 năm không tham gia bầu cử Quốc hội Liên bang hay Quốc hội của các bang với danh sách đề cử riêng (Điều 2). Tức là việc đề cử nghị sĩ Quốc hội không chỉ là quyền, mà còn là nghĩa vụ pháp định của các đảng. Trong bối cảnh văn minh ấy, không một thế lực nào, kể cả đảng đương cầm quyền, dám mơ tưởng đến việc dùng những thủ đoạn xấu xa để cản trở các đảng khác đề cử nghị sĩ Quốc hội.
Theo quy định, mỗi cử tri Đức được bỏ một lá phiếu với hai ý kiến bầu cử. Ý kiến thứ nhất bầu cho một cá nhân ứng cử tại đơn vị bầu cử của cử tri. Ý kiến thứ hai bầu cho một đảng tham gia bầu cử tại đó với một danh sách đề cử. Ý kiến thứ nhất được dùng để xác định cho mỗi đơn vị bầu cử một nghị sĩ Quốc hội, tổng cộng là 299 nghị sĩ đại diện cho 299 đơn vị bầu cử. Ý kiến thứ hai được dùng làm cơ sở để phân chia tỷ lệ ghế nghị sĩ Quốc hội cho các đảng, trong đó các nghị sĩ còn lại (ngoài số 299 nghị sĩ đã được xác định đích danh bởi ý kiến thứ nhất) được lấy từ danh sách đề cử của các đảng.
Sáu đảng đạt tỷ lệ phiếu bầu từ 5% trở lên theo ý kiến bầu cử thứ hai, để được tham gia Quốc hội và chia nhau 631 - 299 = 332 ghế nghị sĩ còn lại, là CDU, SPD, DIE LINKE, GRÜNE và CSU, với tỷ lệ phiếu bầu tương ứng là 34,1%, 25,7%, 8,6%, 8,4% và 7,4%. Tức là không có đảng nào đạt được trên 50% phiếu bầu.
Ví dụ này cho thấy, trong một chế độ thực sự dân chủ và tôn trọng quyền ứng cử của công dân, như CHLB Đức, nếu đòi hỏi người trúng cử phải đạt trên 50% phiếu bầu, thì sẽ chỉ bầu được một phần nhỏ của số nghị sĩ Quốc hội cần bầu.
Phụ lục 5: Quy định về trúng cử tại CHLB Đức và Pháp
Điều 5 Luật Bầu cử CHLB Đức quy định:
"Mỗi đơn vị bầu cử được bầu một nghị sĩ. Trúng cử là người ứng cử nhận được nhiều phiếu nhất. Trong trường hợp số phiếu bằng nhau thì phụ trách đơn vị bầu cử quyết định bằng cách rút thăm."
Với quy tắc này, bao giờ mỗi đơn vị bầu cử cũng bầu ra được đúng một nghị sĩ cần thiết. Một điều nữa đáng lưu ý là quy định: "Trong trường hợp số phiếu bằng nhau thì phụ trách đơn vị bầu cử quyết định bằng cách rút thăm". Nó khác hẳn quy định ở Việt Nam, tại Điều 78 Luật BCĐBQH 2015:
"Trường hợp cuối danh sách trúng cử có nhiều người được số phiếu bầu bằng nhau và nhiều hơn số lượng đại biểu được bầu đã ấn định cho đơn vị bầu cử thì người nhiều tuổi hơn là người trúng cử."
Theo đó, nếu có hai người ứng cử được số phiếu bầu bằng nhau, thì Quốc hội CHXHCN Việt Nam ưu tiên tiếp nhận cụ già 90 tuổi, chứ không phải bạn trẻ mới 45 tuổi. Ngạc nhiên chưa? Cứ tạm coi các cụ già vẫn còn tỉnh táo và dồi dào sức khỏe giống hệt thanh niên, thì rõ ràng quy định này vi phạm nguyên tắc bầu cử "bình đẳng" (giữa các lứa tuổi).
Pháp áp dụng một quy tắc bầu cử khác. Mỗi đơn vị bầu cử được bầu đúng một trong tổng số 577 nghị sĩ Quốc hội, với không quá hai vòng bầu cử. Trong lần bầu cử ban đầu, trúng cử là người có được sự ủng hộ của đa số tuyệt đối (tức là hơn 50%) trong tổng số phiếu bầu và đồng thời đạt được phiếu thuận của hơn 25% số cử tri đăng ký tại đơn vị bầu cử ấy (kể cả những cử tri không đến bỏ phiếu). Đơn vị bầu cử nào không có ai trúng cử tại lần bầu thứ nhất thì tiến hành bầu lần thứ hai. Trong lần bầu thứ hai, chỉ một phần ứng cử viên được tham gia tiếp, đó là những người đã được ít nhất 12,5% số phiếu thuận của toàn bộ cử tri (đã đăng ký tại đơn vị bầu cử) tại vòng một, và thắng cử là người đạt được sự ủng hộ củađa số tương đối (tức là giành được nhiều phiếu nhất). Như vậy, chỉ những đơn vị bầu cử mà mọi người ứng cử đều đạt được phiếu thuận của ít hơn 12,5% cử tri đăng ký thì mới không tiến hành bầu cử vòng hai. Còn khi đã được tiến hành vòng hai thì nhất định có người trúng cử. Về lý thuyết, vẫn có thể tồn tại những đơn vị bầu cử không bầu ra được nghị sĩ Quốc hội (vì không đủ tiêu chuẩn để tổ chức bầu cử vòng hai), nhưng khả năng đó thấp hơn nhiều so với quy tắc đòi hỏi người trúng cử bắt buộc phải "được quá nửa số phiếu hợp lệ", như trong Luật BCĐBQH của CHXHCN Việt Nam.
Phụ lục 6: Về quy tắc "mỗi đơn vị bầu cử chỉ được bầu một đại biểu Quốc hội"
Quy tắc này được áp dụng ở nhiều nước và có nhiều ưu điểm. Chẳng hạn, cử tri sẽ cân nhắc kỹ hơn là mình nên bầu cho ai, và cũng dễ nhớ hơn là mình đã bầu cho ai, để theo dõi xem người đó thể hiện thế nào trong vai trò đại biểu Quốc hội (nếu trúng cử). Và rồi mỗi đại biểu Quốc hội sẽ là người duy nhất phải đứng ra chịu trách nhiệm trước cử tri thuộc đơn vị bầu cử của mình, không thể thoái thác và dồn lên vai đại biểu khác. Hơn nữa, trong trường hợp số người ứng cử bị hạn chế như ở Việt Nam, để đảm bảo số người ứng cử nhiều hơn số người trúng cử, muốn bầu ra 500 đại biểu Quốc hội thì phải chấp nhận ít nhất 1000 người ứng cử. Như vậy sẽ có thêm ít nhất 1000 - 832 = 168 người có cơ hội lọt vào danh sách ứng cử chính thức, tăng 20,19% so với kỳ bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIII vào năm 2011. Đó rõ ràng là một cải thiện dân chủ.
Quy tắc "mỗi đơn vị bầu cử chỉ được bầu một đại biểu Quốc hội" có lợi hơn hẳn như vậy, tại sao nó không được áp dụng ở Việt Nam? Có lẽ do thế lực cầm quyền chẳng lo cải thiện dân chủ, mà chỉ muốn hạn chế danh sách ứng cử, nhằm gia tăng khả năng trúng cử của bản thân và đồng đội. Nếu mỗi đơn vị bầu cử chỉ được bầu một đại biểu, thì kể cả trong trường hợp chỉ có hai người ứng cử, vẫn có thể trượt cả hai khi họ đều đạt 50% số phiếu bầu, nghĩa là không ai "được quá nửa số phiếu hợp lệ". Còn nếu mỗi đơn vị bầu cử được bầu hai đại biểu từ ba người ứng cử, hoặc bầu ba đại biểu từ bốn hay năm người ứng cử, thì khi những người ứng cử có uy tín gần giống nhau, tất cả họ đều có thể "được quá nửa số phiếu hợp lệ". Một lần nữa ta thấy được tính chất phản động của "sát thủ hóa trang thánh thiện", là cản trở việc áp dụng quy tắc bầu cử hợp lý. Một lý do khác khiến nhà cầm quyền khó chấp nhận quy tắc "mỗi đơn vị bầu cử chỉ được bầu một đại biểu Quốc hội", là họ khó cài người từ trung ương về ứng cử ở địa phương. Bởi khi đó, nếu người ứng cử của địa phương trúng cử thì người của trung ương trượt; còn nếu người của trung ương trúng cử thì chẳng có ai đại diện cho địa phương.
Hà Nội, ngày 21/3/2016
Hoàng Xuân Phú
(Blog Hoàng Xuân Phú)
http://hpsc.iwr.uni-heidelberg.de/hxphu/index.php?page=readwriting&w=BauCuKieuGiKhiTeNgayTuLuat-20160321
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét