Thuyền nhân (boat people), thùng nhân (container people), nạn buôn lậu người (human smuggling) hoặc buôn người (human trafficking) là những điều nhức nhối của xã hội VN trong suốt nửa thế kỷ qua, làm uy tín của đất nước VN tụt thảm hại trong mắt dư luận quốc tế. Đảng và Nhà nước nên tổng kết, tự kiểm điểm những sai lầm của mình đã gây ra tình trạng này. Sẽ đến lúc phải xây dựng một vài tượng đài tưởng niệm những thuyền nhân và thùng nhân đã tử vong thảm khốc, thê thảm ở xứ người. Trước mắt có thể mua chiếc container mà 39 người đã tử vong trong đó mang về đặt ở vùng quê Nghệ Tĩnh để làm đài tượng niệm và cảnh báo những người có ý định vượt biên bất hợp pháp... Tại thành phố Grand-Saconnex nằm sát thành phố Geneve ở Thụy Sĩ, năm 2006 đã khánh thành 1 bia tưởng niệm thuyền nhân Việt Nam. Bia được đặt trong khuôn viên của một trong các công viên đẹp nhất của thành phố Grand Saconnex; trong công viên có lâu đài "Château Pictet" rất đẹp. Bia nằm cách nơi đặt trụ sở Phái đoàn đại diện thường trực của Chính phủ VN tại Liên hợp quốc, Tổ chức thương mại thế giới và các tổ chức quốc tế khác khoảng 2 cây số và nằm giữa khu vực có rất nhiều cơ quan quốc tế và nơi ở các các nhân viên ngoại giao. Tôi thường đi dạo trên công viên này, rất thích vì đây là một nơi rất yên bình, cây cỏ rất xinh tươi... Xem ảnh dưới.
BPSOS: Các đường dây buôn người rất ‘tinh vi’ và ‘tàn ác’
Các đường dây buôn người, vốn bị cáo buộc là thủ phạm đằng sau thảm kịch 39 người chết trong thùng xe đông lạnh ở Anh, có ‘hoạt động hết sức tinh vi’ nhằm đưa nạn nhân vào tròng và ‘kiếm được rất nhiều tiền’, một chuyên gia về phòng chống buôn người nói với VOA.
Cảnh sát đang khám nghiệm hiện trường chiếc xe container
nơi phát hiện 39 thi thể di dân lậu ở Essex, Anh quốc
Thảm họa 39 người xảy ra vào cuối tháng 10 ở Essex, Anh quốc, khi người ta phát hiện trong một chiếc xe container đông lạnh có thi thể của 39 người nhập cư lậu. Mặc dù phía Anh vẫn chưa kết luận về quốc tịch các nạn nhân nhưng nhiều khả năng phần đông trong số này là người Việt Nam đi từ hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh.
‘Đường dây nhiều mắt xích’
Trao đổi với VOA, Tiến sỹ Nguyễn Đình Thắng, giám đốc tổ chức Ủy ban Cứu người Vượt biển (BPSOS) có trụ sở ở tiểu bang Virginia, Mỹ, nhận định rằng 39 người này là nạn nhân của nạn buôn lậu người (human smuggling) hoặc buôn người (human trafficking).
Theo lời ông Thắng giải thích thì những người này từ đầu đã đi theo đường dây buôn lậu người, tức là chỉ đưa người nhập cư lậu từ nước này sang nước khác. Nếu như họ còn sống và được đưa vào Anh trót lọt thì rất có thể họ sẽ trở thành nạn nhân của nạn buôn người, tức là bị bóc lột, bạo hành và lạm dụng.
“Nạn nhân buôn người là những người cư trú bất hợp pháp. Họ hoàn toàn không được sự bảo vệ của luật pháp, không có công ăn việc làm, hoàn toàn bị khống chế,” ông giải thích.
“Họ đã vay nợ rất nặng ở Việt Nam nên phải làm việc trả nợ. Họ phải lao động quần quật theo lệnh chủ, nếu không người nhà của họ ở Việt Nam sẽ bị xiết nợ và bị mất hết nhà cửa,” ông nói thêm.
Ông mô tả các đường dây buôn người/buôn lậu người này là hoạt động theo nhiều tầng: thấp nhất là cò, rồi đến môi giới và cuối cùng là đường dây vận chuyển người xuyên biên giới.
‘Cò’ là những người sâu sát nhất ở các làng xóm, thôn quê. “Họ đi vào các làng, gặp gỡ những người quen biết rồi rỉ tai, rủ họ đi qua bên Anh kiếm việc chẳng hạn,” ông nói.
Một khi nạn nhân đã mắc bẫy của cò thì họ sẽ được chuyển qua cho cấp môi giới vốn là ‘người đứng ra điều động tất cả mọi chuyện’, theo ông Thắng.
“Trong các đường dây xuất khẩu lao động thì môi giới là người làm việc chính thức với các doanh nghiệp tuyển dụng lao động còn trong các đường dây buôn người thì môi giới chính là bọn xã hội đen,” ông giải thích.
Đến khi nạn nhân nộp tiền xong thì những kẻ môi giới này ‘sẽ kết nối với đường dây lo cho họ đi từng chặng’. Mỗi chặng có một đường dây vận chuyển, thường là một tổ chức tội phạm ở nước đó, đứng ra chịu trách nhiệm, chẳng hạn như từ Việt Nam sang đến biên giới Trung Quốc, rồi đường dây ở Trung Quốc, đường dây ở Nga, đường dây ở Ukraine…, ông Thắng giải thích.
Do tổ chức theo kiểu mắt xích ‘hàng ngang’ không có sự lãnh đạo, điều hành thống nhất nên ông Thắng gọi là ‘rắn không đầu’ mà theo ông ‘rất khó diệt’.
“Tiêu diệt trọn vẹn mạng lưới buôn người này đòi hỏi phải có sự hợp tác, liên lạc của nhiều quốc gia như Việt Nam, Trung Quốc, Nga và Ukraine mà điều này rất hiếm khi xảy ra,” ông cho biết. “Trong mỗi quốc gia này chúng đều có sự bảo kê của giới chức’.
“Ngay như ở Việt Nam chẳng hạn nếu chúng ta chặn được đầu này thì ngay lập tức sẽ có các nhóm khác tái lập lại đường dây để móc nối sang Trung Quốc,” ông giải thích.
Tung hỏa mù
Các nạn nhân, nhất là người dân quê thiếu hiểu biết, rất dễ trở thành nạn nhân của bọn buôn người vì phương thức lừa đảo ‘rất tinh vi’, ông Thắng nói.
Trước hết, họ có người làm ‘chim mồi’ đi trước để làm bằng chứng dẫn dụ những người khác tin theo, ông Thắng mô tả. Họ lôi kéo một nạn nhân nào đấy đã qua được Anh vào đường dây của họ. Người đấy sẽ viết thư, gửi tiền về cho gia đình thông báo về cuộc sống mới của họ bên Anh.
“Người cò sẽ lấy đó mà đi nói với mọi người trong làng rằng ‘Đấy thấy chưa, gia đình đấy có con đi rồi đây này, nó kiếm được mấy ngàn đô la một tháng. Quý vị đi theo đi’,” ông Thắng nói.
“Người dân quê đâu có biết gì. Họ thấy có người gửi tiền về xây nhà cao cửa rộng thì đinh ninh rằng gia đình mình cũng có thể được như vậy mà đâu biết rằng chính gia đình ấy hay người con của gia đình ấy cũng nằm trong đường dây buôn người.”
Trong bài viết “Những cái chết đến từ thôi thúc ‘thoát nghèo’” đăng trên VOA, tác giả trích dẫn từ cuốn sách Poor Economics từng được dịch sang tiếng Việt là ‘Hiểu Nghèo Thoát Nghèo’ của hai kinh tế gia Abhijit Banerjee và Esther Duflo. Cuốn sách nói về những điều chính yếu về người nghèo và sự nghèo. Trong đó hai điều đầu tiên là: Người nghèo thường thiếu thông tin cấp thiết và dễ tin vào những điều không thật. Niềm tin không đúng sẽ dẫn đến những lựa chọn sai lầm với những hệ lụy bất lường. Thứ nhì là người nghèo phải gánh trên vai quá nhiều trách nhiệm, đời sống và công việc bấp bênh và phải tự lo toan mọi chuyện so với người giàu có.
Hai kinh tế gia Abhijit Banerjee và Esther Duflo vừa được giải thưởng Nobel Kinh Tế năm nay cho nghiên cứu của mình.
Trở lại với vấn nạn buôn người. Theo giải thích của tiến sĩ Nguyễn Đình Thắng, những nạn nhân đầu tiên sau đó lại ‘trở thành thủ phạm’. Họ gia nhập vào đường dây buôn người và lấy mình làm mồi để nhử thêm những người khác ở trong làng, thậm chí ở trong họ của mình, ông Thắng nói và cho biết ông ‘biết rất nhiều trường hợp như vậy’.
“Đó là cách mà họ kiếm thêm được thu nhập, có ăn chia để họ có tiền mà trả nợ,” ông nói và giải thích rằng những ‘nhà cao cửa rộng’ ở các làng quê Việt Nam mà dân làng Việt Nam thấy là ‘của những người tham gia vào đường dây buôn người’ còn thu nhập lên đến vài ngàn đô la một tháng mà những kẻ buôn người hứa hẹn ‘là không thể nào có được’.
Khi được hỏi tại sao những người sang đến bên Anh trở thành nạn nhân của nạn buôn người không thông báo tình trạng của họ về cho gia đình ở Việt Nam biết để cảnh tỉnh những người khác, ông Thắng nói rằng hoặc là ‘họ bị mất liên lạc’ hoặc ‘họ đâu dám lên tiếng’.
“Nếu lên tiếng thì họ sẽ bị thủ tiêu ngay, còn thân nhân của họ ở trong nước cũng có thể bị sách nhiễu vì bọn môi giới, bọn xã hội đen sẽ cử người đến đe dọa,” ông nói. “Còn nếu không tiếp tục làm việc, nếu bỏ trốn thì không có thu nhập để trả nợ. Cả dòng họ có thể sẽ bị mất hết tài sản vì họ đã thế chấp toàn bộ nhà cửa ruộng vườn để có tiền ra đi.”
Ông cũng nói rằng chỉ cần 1, 2 người trong làng gửi tiền về ‘cũng đủ làm chim mồi rồi’.
Có sự bảo kê?
Về vai trò của chính quyền trong con đường di dân lậu ồ ạt này, ông Thắng khẳng định ‘chắc chắn có sự bảo kê’ với mục đích là ‘được chia chác’ trong miếng bánh lợi ích quá lớn.
“Chính quyền cộng sản Việt Nam theo dõi rất kỹ lưỡng vấn đề lưu trú, đi lại của người dân, nhất là ra khỏi biên giới quốc gia,” ông phân tích. “Đi cả 100 người có khi cả ngàn người một lúc thì không thể không có bảo kê (của chính quyền địa phương).”
“Chắc chắn giới chức trong xã ấy, trong làng ấy đều biết nhưng họ vẫn cho đi bởi vì có sự trao đổi này kia về quyền lợi,” ông nói thêm và lưu ý rằng cho mỗi chuyến đi mỗi nạn nhân phải trả phí từ 30.000 đến 60.000 đô la Mỹ tùy theo dạng đi thường hay đi VIP.
Qua thảm kịch ở Essex, ông Thắng nói rằng nếu chính quyền Việt Nam thật sự muốn điều tra mạng lưới buôn người thì ‘đó là điều rất dễ’.
“Chỉ cần truy từ những người cò trở lên là ra hết đường dây thôi vì cò phần lớn là người ở địa phương,” ông nói. “Chúng tôi còn biết huống hồ các cơ quan công lực ở Việt Nam lại không biết à?”
“Qua vụ 39 người này, dư luận cần phải lên tiếng ép chính quyền Việt Nam từ trung ương đến địa phương phải khui ra tất cả các đường dây buôn người này. Tất cả các quan chức dính líu phải bị xử trị, các thủ phạm phải bị đi tù và tài sản của họ phải bị tịch thu để bồi thường cho các nạn nhân đã chết,” ông yêu cầu.
‘Kế hoạch toàn diện’
Ông Thắng cho biết tổ chức BPSOS của ông đã từng ‘dự đoán trước nhiều người dân hai tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh sẽ trở thành nạn nhân buôn người sau thảm họa môi sinh hồi năm 2016 (do tập đoàn Formosa xả thải gây ra)’.
“Ngư nghiệp hoàn toàn không thể khôi phục. Nhiều người bán hết tàu thuyền đánh cá của họ. Họ làm ruộng không được chứ đừng nói lên thành phố làm những việc đòi hỏi kiến thức, kỹ năng mà họ hoàn toàn không có. Họ phải sống làm sao đây,” ông nói.
“Khi đó họ thấy có đường dây hứa hẹn rất nhiều. Tuy đóng 60.000 đô la nhưng chỉ một năm là trả hết nợ sau đó còn có tiền dành dụm để gửi về giúp gia đình. Do đó, họ vay nợ, gom góp tiền bạc của thân nhân và vay nặng lãi với lãi suất có chỗ đến 60% một năm để đi nước ngoài,” ông nói thêm.
Ông chỉ trích chính quyền là ‘không đền bù thỏa đáng’ sau thảm họa Formosa, ‘không tạo công ăn việc làm cho người dân mà để họ tự lo’.
“Đó là lỗ hổng để bọn xã hội đen nhảy vào khai thác,” ông cho biết và nói rằng ngay sau sự cố Formosa tổ chức của ông ‘đã báo động cho các giáo xứ ở Nghệ An, Hà Tĩnh biết’ để đề phòng ‘kẻ gian trục lợi’.
“Các vị linh mục biết nhưng không có đủ năng lực và không có kinh nghiệm để đưa ra chương trình (phòng chống).”
“Nếu không làm gì sẽ có thêm nhiều nạn nhân nữa,” ông nói và kêu gọi các tổ chức tôn giáo và xã hội dân sự cùng hành động để ‘tìm cách giải cứu và phá vỡ tất cả các đường dây buôn người và buôn lậu người’.
Ông Thắng nói một trong những việc cần làm ngay là ‘giáo dục người dân, nói cho họ hiểu’.
Ông cũng đưa ra những lời khuyên cho người dân để tránh thành con mồi của bọn buôn người.
“Thứ nhất, nếu được rủ rê đi lao động bên Anh nhưng là đi lén đi lậu bằng thị thực du lịch chẳng hạn thì chắc chắn mình bị lừa vì đi xuất khẩu lao động phải có hợp đồng đâu ra đó,” ông nói.
Lời khuyên thứ hai mà ông Thắng đưa ra là ‘phối kiểm những chỗ hay công ty mà người dân được hứa hẹn sẽ cho họ chỗ làm việc’ và cho biết BPSOS có thể giúp phối kiểm nhờ vào mạng lưới cộng tác viên của họ ở khắp nơi trên thế giới.
“Thứ ba trước khi lên đường phải nắm được một số địa chỉ, email, facebook, số điện thoại cầu cứu nếu mọi việc không như dự tính,” ông nói thêm. “Thân nhân cũng phải nắm các đầu mối liên lạc này để phòng khi người thân mình bị mất liên lạc hay bị bóc lột thì thậm chí có thể liên lạc ngay để nhờ giải cứu.”
Ngọc Lễ (VOA)
‘Đường dây nhiều mắt xích’
Trao đổi với VOA, Tiến sỹ Nguyễn Đình Thắng, giám đốc tổ chức Ủy ban Cứu người Vượt biển (BPSOS) có trụ sở ở tiểu bang Virginia, Mỹ, nhận định rằng 39 người này là nạn nhân của nạn buôn lậu người (human smuggling) hoặc buôn người (human trafficking).
Theo lời ông Thắng giải thích thì những người này từ đầu đã đi theo đường dây buôn lậu người, tức là chỉ đưa người nhập cư lậu từ nước này sang nước khác. Nếu như họ còn sống và được đưa vào Anh trót lọt thì rất có thể họ sẽ trở thành nạn nhân của nạn buôn người, tức là bị bóc lột, bạo hành và lạm dụng.
“Nạn nhân buôn người là những người cư trú bất hợp pháp. Họ hoàn toàn không được sự bảo vệ của luật pháp, không có công ăn việc làm, hoàn toàn bị khống chế,” ông giải thích.
“Họ đã vay nợ rất nặng ở Việt Nam nên phải làm việc trả nợ. Họ phải lao động quần quật theo lệnh chủ, nếu không người nhà của họ ở Việt Nam sẽ bị xiết nợ và bị mất hết nhà cửa,” ông nói thêm.
Ông mô tả các đường dây buôn người/buôn lậu người này là hoạt động theo nhiều tầng: thấp nhất là cò, rồi đến môi giới và cuối cùng là đường dây vận chuyển người xuyên biên giới.
‘Cò’ là những người sâu sát nhất ở các làng xóm, thôn quê. “Họ đi vào các làng, gặp gỡ những người quen biết rồi rỉ tai, rủ họ đi qua bên Anh kiếm việc chẳng hạn,” ông nói.
Một khi nạn nhân đã mắc bẫy của cò thì họ sẽ được chuyển qua cho cấp môi giới vốn là ‘người đứng ra điều động tất cả mọi chuyện’, theo ông Thắng.
“Trong các đường dây xuất khẩu lao động thì môi giới là người làm việc chính thức với các doanh nghiệp tuyển dụng lao động còn trong các đường dây buôn người thì môi giới chính là bọn xã hội đen,” ông giải thích.
Đến khi nạn nhân nộp tiền xong thì những kẻ môi giới này ‘sẽ kết nối với đường dây lo cho họ đi từng chặng’. Mỗi chặng có một đường dây vận chuyển, thường là một tổ chức tội phạm ở nước đó, đứng ra chịu trách nhiệm, chẳng hạn như từ Việt Nam sang đến biên giới Trung Quốc, rồi đường dây ở Trung Quốc, đường dây ở Nga, đường dây ở Ukraine…, ông Thắng giải thích.
Do tổ chức theo kiểu mắt xích ‘hàng ngang’ không có sự lãnh đạo, điều hành thống nhất nên ông Thắng gọi là ‘rắn không đầu’ mà theo ông ‘rất khó diệt’.
“Tiêu diệt trọn vẹn mạng lưới buôn người này đòi hỏi phải có sự hợp tác, liên lạc của nhiều quốc gia như Việt Nam, Trung Quốc, Nga và Ukraine mà điều này rất hiếm khi xảy ra,” ông cho biết. “Trong mỗi quốc gia này chúng đều có sự bảo kê của giới chức’.
“Ngay như ở Việt Nam chẳng hạn nếu chúng ta chặn được đầu này thì ngay lập tức sẽ có các nhóm khác tái lập lại đường dây để móc nối sang Trung Quốc,” ông giải thích.
Tung hỏa mù
Các nạn nhân, nhất là người dân quê thiếu hiểu biết, rất dễ trở thành nạn nhân của bọn buôn người vì phương thức lừa đảo ‘rất tinh vi’, ông Thắng nói.
Trước hết, họ có người làm ‘chim mồi’ đi trước để làm bằng chứng dẫn dụ những người khác tin theo, ông Thắng mô tả. Họ lôi kéo một nạn nhân nào đấy đã qua được Anh vào đường dây của họ. Người đấy sẽ viết thư, gửi tiền về cho gia đình thông báo về cuộc sống mới của họ bên Anh.
“Người cò sẽ lấy đó mà đi nói với mọi người trong làng rằng ‘Đấy thấy chưa, gia đình đấy có con đi rồi đây này, nó kiếm được mấy ngàn đô la một tháng. Quý vị đi theo đi’,” ông Thắng nói.
“Người dân quê đâu có biết gì. Họ thấy có người gửi tiền về xây nhà cao cửa rộng thì đinh ninh rằng gia đình mình cũng có thể được như vậy mà đâu biết rằng chính gia đình ấy hay người con của gia đình ấy cũng nằm trong đường dây buôn người.”
Trong bài viết “Những cái chết đến từ thôi thúc ‘thoát nghèo’” đăng trên VOA, tác giả trích dẫn từ cuốn sách Poor Economics từng được dịch sang tiếng Việt là ‘Hiểu Nghèo Thoát Nghèo’ của hai kinh tế gia Abhijit Banerjee và Esther Duflo. Cuốn sách nói về những điều chính yếu về người nghèo và sự nghèo. Trong đó hai điều đầu tiên là: Người nghèo thường thiếu thông tin cấp thiết và dễ tin vào những điều không thật. Niềm tin không đúng sẽ dẫn đến những lựa chọn sai lầm với những hệ lụy bất lường. Thứ nhì là người nghèo phải gánh trên vai quá nhiều trách nhiệm, đời sống và công việc bấp bênh và phải tự lo toan mọi chuyện so với người giàu có.
Hai kinh tế gia Abhijit Banerjee và Esther Duflo vừa được giải thưởng Nobel Kinh Tế năm nay cho nghiên cứu của mình.
Trở lại với vấn nạn buôn người. Theo giải thích của tiến sĩ Nguyễn Đình Thắng, những nạn nhân đầu tiên sau đó lại ‘trở thành thủ phạm’. Họ gia nhập vào đường dây buôn người và lấy mình làm mồi để nhử thêm những người khác ở trong làng, thậm chí ở trong họ của mình, ông Thắng nói và cho biết ông ‘biết rất nhiều trường hợp như vậy’.
“Đó là cách mà họ kiếm thêm được thu nhập, có ăn chia để họ có tiền mà trả nợ,” ông nói và giải thích rằng những ‘nhà cao cửa rộng’ ở các làng quê Việt Nam mà dân làng Việt Nam thấy là ‘của những người tham gia vào đường dây buôn người’ còn thu nhập lên đến vài ngàn đô la một tháng mà những kẻ buôn người hứa hẹn ‘là không thể nào có được’.
Khi được hỏi tại sao những người sang đến bên Anh trở thành nạn nhân của nạn buôn người không thông báo tình trạng của họ về cho gia đình ở Việt Nam biết để cảnh tỉnh những người khác, ông Thắng nói rằng hoặc là ‘họ bị mất liên lạc’ hoặc ‘họ đâu dám lên tiếng’.
“Nếu lên tiếng thì họ sẽ bị thủ tiêu ngay, còn thân nhân của họ ở trong nước cũng có thể bị sách nhiễu vì bọn môi giới, bọn xã hội đen sẽ cử người đến đe dọa,” ông nói. “Còn nếu không tiếp tục làm việc, nếu bỏ trốn thì không có thu nhập để trả nợ. Cả dòng họ có thể sẽ bị mất hết tài sản vì họ đã thế chấp toàn bộ nhà cửa ruộng vườn để có tiền ra đi.”
Ông cũng nói rằng chỉ cần 1, 2 người trong làng gửi tiền về ‘cũng đủ làm chim mồi rồi’.
Có sự bảo kê?
Về vai trò của chính quyền trong con đường di dân lậu ồ ạt này, ông Thắng khẳng định ‘chắc chắn có sự bảo kê’ với mục đích là ‘được chia chác’ trong miếng bánh lợi ích quá lớn.
“Chính quyền cộng sản Việt Nam theo dõi rất kỹ lưỡng vấn đề lưu trú, đi lại của người dân, nhất là ra khỏi biên giới quốc gia,” ông phân tích. “Đi cả 100 người có khi cả ngàn người một lúc thì không thể không có bảo kê (của chính quyền địa phương).”
“Chắc chắn giới chức trong xã ấy, trong làng ấy đều biết nhưng họ vẫn cho đi bởi vì có sự trao đổi này kia về quyền lợi,” ông nói thêm và lưu ý rằng cho mỗi chuyến đi mỗi nạn nhân phải trả phí từ 30.000 đến 60.000 đô la Mỹ tùy theo dạng đi thường hay đi VIP.
Qua thảm kịch ở Essex, ông Thắng nói rằng nếu chính quyền Việt Nam thật sự muốn điều tra mạng lưới buôn người thì ‘đó là điều rất dễ’.
“Chỉ cần truy từ những người cò trở lên là ra hết đường dây thôi vì cò phần lớn là người ở địa phương,” ông nói. “Chúng tôi còn biết huống hồ các cơ quan công lực ở Việt Nam lại không biết à?”
“Qua vụ 39 người này, dư luận cần phải lên tiếng ép chính quyền Việt Nam từ trung ương đến địa phương phải khui ra tất cả các đường dây buôn người này. Tất cả các quan chức dính líu phải bị xử trị, các thủ phạm phải bị đi tù và tài sản của họ phải bị tịch thu để bồi thường cho các nạn nhân đã chết,” ông yêu cầu.
‘Kế hoạch toàn diện’
Ông Thắng cho biết tổ chức BPSOS của ông đã từng ‘dự đoán trước nhiều người dân hai tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh sẽ trở thành nạn nhân buôn người sau thảm họa môi sinh hồi năm 2016 (do tập đoàn Formosa xả thải gây ra)’.
“Ngư nghiệp hoàn toàn không thể khôi phục. Nhiều người bán hết tàu thuyền đánh cá của họ. Họ làm ruộng không được chứ đừng nói lên thành phố làm những việc đòi hỏi kiến thức, kỹ năng mà họ hoàn toàn không có. Họ phải sống làm sao đây,” ông nói.
“Khi đó họ thấy có đường dây hứa hẹn rất nhiều. Tuy đóng 60.000 đô la nhưng chỉ một năm là trả hết nợ sau đó còn có tiền dành dụm để gửi về giúp gia đình. Do đó, họ vay nợ, gom góp tiền bạc của thân nhân và vay nặng lãi với lãi suất có chỗ đến 60% một năm để đi nước ngoài,” ông nói thêm.
Ông chỉ trích chính quyền là ‘không đền bù thỏa đáng’ sau thảm họa Formosa, ‘không tạo công ăn việc làm cho người dân mà để họ tự lo’.
“Đó là lỗ hổng để bọn xã hội đen nhảy vào khai thác,” ông cho biết và nói rằng ngay sau sự cố Formosa tổ chức của ông ‘đã báo động cho các giáo xứ ở Nghệ An, Hà Tĩnh biết’ để đề phòng ‘kẻ gian trục lợi’.
“Các vị linh mục biết nhưng không có đủ năng lực và không có kinh nghiệm để đưa ra chương trình (phòng chống).”
“Nếu không làm gì sẽ có thêm nhiều nạn nhân nữa,” ông nói và kêu gọi các tổ chức tôn giáo và xã hội dân sự cùng hành động để ‘tìm cách giải cứu và phá vỡ tất cả các đường dây buôn người và buôn lậu người’.
Ông Thắng nói một trong những việc cần làm ngay là ‘giáo dục người dân, nói cho họ hiểu’.
Ông cũng đưa ra những lời khuyên cho người dân để tránh thành con mồi của bọn buôn người.
“Thứ nhất, nếu được rủ rê đi lao động bên Anh nhưng là đi lén đi lậu bằng thị thực du lịch chẳng hạn thì chắc chắn mình bị lừa vì đi xuất khẩu lao động phải có hợp đồng đâu ra đó,” ông nói.
Lời khuyên thứ hai mà ông Thắng đưa ra là ‘phối kiểm những chỗ hay công ty mà người dân được hứa hẹn sẽ cho họ chỗ làm việc’ và cho biết BPSOS có thể giúp phối kiểm nhờ vào mạng lưới cộng tác viên của họ ở khắp nơi trên thế giới.
“Thứ ba trước khi lên đường phải nắm được một số địa chỉ, email, facebook, số điện thoại cầu cứu nếu mọi việc không như dự tính,” ông nói thêm. “Thân nhân cũng phải nắm các đầu mối liên lạc này để phòng khi người thân mình bị mất liên lạc hay bị bóc lột thì thậm chí có thể liên lạc ngay để nhờ giải cứu.”
Ngọc Lễ (VOA)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét