Tại sao ông Tập Cận Bình không thể xâm lược Đài Loan bằng vũ lực
Sau khi Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đắc cử nhiệm kỳ thứ ba tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 20 vào tháng 10/2022, giới quan sát đã phỏng đoán về những bước đi tiếp theo của ông Tập. Động thái đáng lo ngại nhất là ông Tập sẽ xâm chiếm Đài Loan bằng vũ lực.Đặc biệt là sau chiến tranh Nga - Ukraine, Hoa Kỳ, Liên minh Châu Âu (EU) và các viện nghiên cứu ở nhiều quốc gia đã chuyển sự chú ý sang Trung Quốc vì lo ngại rằng, Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) sẽ nhân cơ hội này để phát động chiến tranh chống lại Đài Loan.
Một số chuyên gia về Trung Quốc cũng cảnh báo rằng, giấc mộng của ông Tập Cận Bình là duy trì quyền lực suốt đời. Do đó, ông cần phải tạo được một "kỳ tích lịch sử quan trọng" đối với ĐCSTQ, đó là thống nhất Đài Loan bằng vũ lực. Nhưng chúng ta cần phải xem xét bốn lý do giải thích tại sao việc ông Tập phát động cuộc chiến này là phi thực tế.
1) Công nghệ
Mặc dù Trung Quốc là một quốc gia sản xuất lớn, nhưng vẫn chưa phải là một cường quốc trong lĩnh vực sản xuất. Hầu như tất cả các công nghệ chủ chốt đều nằm trong tay các quốc gia khác.
Ví dụ, vào ngày 16/4/2018, Bộ Thương mại Hoa Kỳ đã công bố lệnh cấm 7 năm đối với các công ty Hoa Kỳ bán linh kiện cho ZTE Corp, nhà sản xuất thiết bị viễn thông Trung Quốc. Hoạt động kinh doanh của ZTE ngay lập tức rơi vào tình trạng "chấn động". Theo nguồn tin của Đài Tiếng nói Hoa Kỳ (VOA), ông Tập đã gọi điện cho Tổng thống Mỹ lúc bấy giờ là ông Donald Trump và hỏi liệu ông Trump có thể giúp đưa ZTE trở lại hoạt động kinh doanh bình thường được hay không.
Ông Trump đã hỏi ngược lại rằng, ông Tập sẽ đánh đổi những gì. Theo đó, ông Tập cho biết ông sẽ nộp phạt 500 triệu USD và sa thải những quản lý và ban giám đốc của công ty. Ông Trump đã "mặc cả" cái giá là 1,5 tỷ USD. Ngoài ra, cựu Tổng thống Mỹ muốn nâng mức độ đảm bảo an ninh lên bằng việc ZTE phải mua một số lượng lớn linh kiện của Mỹ. Sau một vài thương lượng, ông Tập đã giảm khoản tiền phạt 1,5 tỷ USD của ông Trump xuống còn 1,3 tỷ USD.
Một ví dụ khác là Huawei. Các biện pháp trừng phạt của Mỹ đối với gã khổng lồ viễn thông Trung Quốc đã khiến hoạt động kinh doanh điện thoại di động của hãng này sụt giảm nghiêm trọng. Chỉ có khoảng 35 triệu chiếc điện thoại di động Huawei được bán ra vào năm 2021, giảm 81,6% so với cùng kỳ năm 2020.
Chúng ta đều biết rằng, ĐCSTQ vốn duy trì sự ổn định thông qua hệ thống camera giám sát dày đặc, nhận dạng khuôn mặt, thu thập dữ liệu người dân nước này, v.v. Chính quyền Bắc Kinh kiểm soát người dân dựa vào sức mạnh xử lý và lưu trữ dữ liệu. Nếu không có chip, ĐCSTQ không thể kiểm soát xã hội. Do đó, một lệnh cấm vận công nghệ cao sẽ gây nguy hiểm trực tiếp cho chính quyền Bắc Kinh.
Một số người có thể lập luận rằng, dưới thời đại Mao Trạch Đông, ĐCSTQ đã đạt được sự kiểm soát xã hội chặt chẽ mà không cần đến công nghệ tiên tiến. Hơn nữa, tại sao Triều Tiên có thể kiểm soát gần như tuyệt đối dân số, mặc dù nước này rất nghèo?
Chúng ta cần phải nhớ rằng mọi quyết định đều phải trả giá. Hình thức cai trị ít tốn kém nhất là sự phục tùng vô điều kiện của người dân. Nói cách khác, một hiện tượng phổ biến ở các quốc gia này là chế độ cai trị tôn vinh nhà lãnh đạo cấp cao nhất giống như "một vị thần". Bằng cách làm cho người lãnh đạo trở thành một nhân vật lôi cuốn, một "nhà thông thái", giống như một vị thần mà mọi người tôn thờ, điều đó hầu như không quá tốn kém, vì thực tế là nhà lãnh đạo đã chinh phục được trái tim của hầu hết người dân. Tuy nhiên, Trung Quốc không đạt được điều đó ở thời điểm hiện tại.
Quá nhiều người dân Trung Quốc đã đặt cho ông Tập đủ loại biệt danh "miệt thị". Nền tảng truyền thông xã hội Trung Quốc Xiaohongshu (có nghĩa là “cuốn sách nhỏ màu đỏ”, giống như những gì Hồng vệ binh nắm giữ trong Cách mạng Văn hóa dưới thời Mao) đã làm rò rỉ 564 từ nhạy cảm liên quan đến ông Tập mà ĐCSTQ cố gắng kiểm duyệt, chẳng hạn như “Xi Baozi” (“Baozi” là một loại bánh bao hấp của Trung Quốc) và “Xi Zhutou” (“Zhutou” có nghĩa là đầu heo rừng).
Do đó, ĐCSTQ chỉ có thể dựa vào các thế lực bên ngoài như công nghệ cao để duy trì sự cai trị của mình. Nếu ông Tập phát động cuộc xâm lược Đài Loan, thì cũng là lúc quyền lực của chính ông đối mặt với nguy cơ bị hủy diệt.
2) Nền kinh tế
Nếu sự cai trị của ĐCSTQ chủ yếu dựa vào công nghệ cao, thứ cũng tốn kém không ít, thì ĐCSTQ không thể khiến nền kinh tế nước này sụp đổ hoàn toàn. Trong ngân sách hàng năm của Trung Quốc, có một khoản lớn được gọi là “chi phí duy trì sự ổn định” để duy trì hoạt động của bộ máy đàn áp, chẳng hạn như tiền lương và trang thiết bị của cảnh sát vũ trang, chi phí cho các dịch vụ tình báo, cùng những chi phí khác.
Kể từ năm 2011, chi phí duy trì ổn định của ĐCSTQ đã vượt quá chi tiêu quân sự của nước này, tương đương với việc tiến hành chiến tranh chống lại người dân Trung Quốc hàng năm. Nếu nền kinh tế sụp đổ, hệ thống duy trì ổn định sẽ "tê liệt" vì cảnh sát vũ trang không bảo vệ ĐCSTQ vì lòng trung thành và sứ mệnh, mà chỉ để "nhận lương".
Nếu ĐCSTQ tiến hành một cuộc xâm lược Đài Loan, các biện pháp trừng phạt kinh tế sau đó và việc cộng đồng quốc tế ngừng giao thương với Trung Quốc sẽ không chỉ khiến nền kinh tế của nước này lao dốc mà còn khiến cuộc sống của người dân trở nên điêu đứng.
Sau vụ thảm sát Thiên An Môn năm 1989, ĐCSTQ đã sử dụng tính hiệu quả trong phán quyết của mình để làm cho nó có vẻ hợp pháp; tức là chế độ này chưa được ủy quyền hợp pháp. Nhưng vì cuộc sống của người dân đã được cải thiện nhờ chính sách cải cách và mở cửa, cùng với việc Trung Quốc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), họ không đặt câu hỏi tại sao ĐCSTQ là đảng cầm quyền duy nhất. Tuy nhiên, suy thoái kinh tế sẽ biến tính hợp pháp của sự cai trị của ĐCSTQ thành một vấn đề nổi cộm. Đó là lý do ông Tập không đủ sức tấn công Đài Loan.
Lý do thứ ba là sự quan tâm của ông Tập Cận Bình đối với việc đảm bảo an toàn cho chiếc ghế quyền lực của chính mình.
Lý do thứ tư là liệu ông Tập có thể giành chiến thắng trong cuộc chiến này hay không. Hai vấn đề này sẽ được khám phá trong phần thứ hai của loạt bài xã luận này.
Phần 1 đã phân tích về hai lý do tại sao ông Tập Cận Bình không thể xâm lược Đài Loan bằng vũ lực.
Một là Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) sẽ mất đi công nghệ tiên tiến - thứ mà chính quyền Bắc Kinh dùng để duy trì sự cai trị của mình.
Hai là suy thoái kinh tế sẽ đe dọa nghiêm trọng đến tính hợp pháp của sự cai trị của ĐCSTQ.
Cùng phân tích hai lý do tiếp theo trong phần 2 của loạt bài này.
Một cuộc xâm lược Đài Loan bằng vũ lực có nghĩa là ông Tập Cận Bình sẽ phải giao nộp những vũ khí tối tân nhất, cũng như quyền chỉ huy quân đội cho một bên thứ ba. Điều này rất nguy hiểm cho ông Tập, bởi vì người ta sẽ không biết những binh lính của ĐCSTQ sẽ chĩa súng vào đâu khi họ sở hữu vũ khí trong tay.
Mọi người đều biết rằng, vụ thảm sát Thiên An Môn xảy ra vào ngày 4/6/1989. Vào ngày này, nhà lãnh đạo Trung Quốc lúc bấy giờ, ông Đặng Tiểu Bình, đã huy động đến 300.000 quân dã chiến để đàn áp và tấn công sinh viên cũng như những công dân đòi quyền dân chủ. Trên thực tế, không có nhiều sinh viên ở lại ở Quảng trường Thiên An Môn vào thời điểm đó. Nghĩa là ông Đặng chỉ cần huy động 10.000 quân là xong việc, nhưng tại sao ông ta lại phải huy động đến 300.000 quân?
Lý do rất đơn giản: ông Đặng không chắc liệu quân đội có tuân theo mệnh lệnh nếu ông chỉ huy động 10.000 quân hay không, hoặc liệu họ có xông vào Trung Nam Hải cùng với các sinh viên hay không. Rõ ràng ông chỉ cảm thấy "an tâm" sau khi huy động 300.000 quân và chia thành nhiều nhóm nhỏ. Bởi vì không ai biết chắc liệu các cánh quân khác có tuân theo mệnh lệnh của ông Đặng hay không. Lúc đó, mỗi vị chỉ huy sẽ cho rằng, nếu anh ta đứng về phía sinh viên, anh ta sẽ bị bao vây và tiêu diệt bởi những người lính khác. Kết quả là, các đội quân khác nhau đóng vai trò là "rào cản lẫn nhau".
Ông Đặng Tiểu Bình là một thành viên sáng lập của quân đội ĐCSTQ. ĐCSTQ đã triển khai bốn cánh quân dã chiến trong cuộc nội chiến với Quốc Dân đảng, và ông Đặng là chính ủy của đội quân dã chiến thứ hai. Nói cách khác, với thâm niên quân sự và tầm vóc của ông Đặng, ông ta không thể chỉ giao vũ khí của mình cho quân đội, mà phải tính đến sự ràng buộc và cân bằng lẫn nhau giữa các cánh quân.
Ngược lại, ông Tập Cận Bình lại là người có uy tín thấp trong quân đội. Do đó, ông Tập sẽ lo lắng hơn nhiều nếu ông buộc lòng phải điều động thêm lực lượng quân sự và trang bị cho họ những vũ khí tối tân hơn trong cuộc xâm lược Đài Loan. Động thái này giống như những gì ông Đặng đã làm trong vụ thảm sát Thiên An Môn năm 1989.
Ngay cả khi Trung Quốc xâm lược Đài Loan thành công thì những vị chỉ huy vẫn có uy tín to lớn trong quân đội. Đồng thời, với lực lượng quân đội có trong tay, những người này vẫn có đủ sức ảnh hưởng để phế truất ông Tập. Những ví dụ như vậy xuất hiện không ít trong suốt chiều dài lịch sử Trung Quốc. Ông Tập hẳn là rất rõ về những "điển cố" kiểu như vậy, giống sự kiện mà mọi người dân phương Tây đều biết rất rõ: "Caesar's Crossing the Rubicon" (tạm dịch: Chuyến vượt sông Rubicon của Hoàng đế Julius Caesar).
Theo đó, Hoàng đế Julius Caesar của Đế chế La Mã đã cho quân đội của mình băng qua sông Rubicon để tiến đánh thành Rome vào năm 49 TCN, khởi đầu cho cuộc Nội chiến Caesar. Sông Rubicon là ranh giới giữa Cisaupine Gaul và Roma thuộc Ý.
Như ông Carl von Clausewitz - một danh tướng nước Phổ, tác giả của cuốn sách “Bàn về chiến tranh”, từng nói, “Chiến tranh không chỉ đơn thuần là một hành động chính trị mà còn là một công cụ chính trị thực sự, một sự tiếp nối của quan hệ chính trị, một sự thực thi điều tương tự bằng các phương tiện khác".
Chúng ta hãy tạm gác lại câu hỏi, liệu ông Tập Cận Bình có sẵn lòng chấp nhận một cuộc xâm lược Đài Loan bằng vũ lực hay không. Mục đích của việc thống nhất Đài Loan bằng vũ lực là gì, nếu hậu quả cuối cùng là tạo ra một đối thủ chính trị cho chính ông Tập Cận Bình?
Ông Tập không thể giành chiến thắng trong cuộc chiến này. Điều này đưa chúng ta đến với lý do thứ tư giải thích tại sao ông ta không thể thống nhất Đài Loan với Trung Quốc đại lục bằng vũ lực.
Theo tờ Bloomberg, Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế đã thực hiện một loạt các kịch bản chiến tranh vào tháng 8 năm nay và chứng minh rằng, ĐCSTQ không thể chiếm Đài Loan với điều kiện Mỹ không tham chiến và Nhật Bản giữ thái độ trung lập.
Nếu sự cai trị của ĐCSTQ chủ yếu dựa vào công nghệ cao, thứ cũng tốn kém không ít, thì ĐCSTQ không thể khiến nền kinh tế nước này sụp đổ hoàn toàn. Trong ngân sách hàng năm của Trung Quốc, có một khoản lớn được gọi là “chi phí duy trì sự ổn định” để duy trì hoạt động của bộ máy đàn áp, chẳng hạn như tiền lương và trang thiết bị của cảnh sát vũ trang, chi phí cho các dịch vụ tình báo, cùng những chi phí khác.
Kể từ năm 2011, chi phí duy trì ổn định của ĐCSTQ đã vượt quá chi tiêu quân sự của nước này, tương đương với việc tiến hành chiến tranh chống lại người dân Trung Quốc hàng năm. Nếu nền kinh tế sụp đổ, hệ thống duy trì ổn định sẽ "tê liệt" vì cảnh sát vũ trang không bảo vệ ĐCSTQ vì lòng trung thành và sứ mệnh, mà chỉ để "nhận lương".
Nếu ĐCSTQ tiến hành một cuộc xâm lược Đài Loan, các biện pháp trừng phạt kinh tế sau đó và việc cộng đồng quốc tế ngừng giao thương với Trung Quốc sẽ không chỉ khiến nền kinh tế của nước này lao dốc mà còn khiến cuộc sống của người dân trở nên điêu đứng.
Sau vụ thảm sát Thiên An Môn năm 1989, ĐCSTQ đã sử dụng tính hiệu quả trong phán quyết của mình để làm cho nó có vẻ hợp pháp; tức là chế độ này chưa được ủy quyền hợp pháp. Nhưng vì cuộc sống của người dân đã được cải thiện nhờ chính sách cải cách và mở cửa, cùng với việc Trung Quốc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), họ không đặt câu hỏi tại sao ĐCSTQ là đảng cầm quyền duy nhất. Tuy nhiên, suy thoái kinh tế sẽ biến tính hợp pháp của sự cai trị của ĐCSTQ thành một vấn đề nổi cộm. Đó là lý do ông Tập không đủ sức tấn công Đài Loan.
Lý do thứ ba là sự quan tâm của ông Tập Cận Bình đối với việc đảm bảo an toàn cho chiếc ghế quyền lực của chính mình.
Lý do thứ tư là liệu ông Tập có thể giành chiến thắng trong cuộc chiến này hay không. Hai vấn đề này sẽ được khám phá trong phần thứ hai của loạt bài xã luận này.
Phần 1 đã phân tích về hai lý do tại sao ông Tập Cận Bình không thể xâm lược Đài Loan bằng vũ lực.
Một là Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) sẽ mất đi công nghệ tiên tiến - thứ mà chính quyền Bắc Kinh dùng để duy trì sự cai trị của mình.
Hai là suy thoái kinh tế sẽ đe dọa nghiêm trọng đến tính hợp pháp của sự cai trị của ĐCSTQ.
Cùng phân tích hai lý do tiếp theo trong phần 2 của loạt bài này.
Một cuộc xâm lược Đài Loan bằng vũ lực có nghĩa là ông Tập Cận Bình sẽ phải giao nộp những vũ khí tối tân nhất, cũng như quyền chỉ huy quân đội cho một bên thứ ba. Điều này rất nguy hiểm cho ông Tập, bởi vì người ta sẽ không biết những binh lính của ĐCSTQ sẽ chĩa súng vào đâu khi họ sở hữu vũ khí trong tay.
Mọi người đều biết rằng, vụ thảm sát Thiên An Môn xảy ra vào ngày 4/6/1989. Vào ngày này, nhà lãnh đạo Trung Quốc lúc bấy giờ, ông Đặng Tiểu Bình, đã huy động đến 300.000 quân dã chiến để đàn áp và tấn công sinh viên cũng như những công dân đòi quyền dân chủ. Trên thực tế, không có nhiều sinh viên ở lại ở Quảng trường Thiên An Môn vào thời điểm đó. Nghĩa là ông Đặng chỉ cần huy động 10.000 quân là xong việc, nhưng tại sao ông ta lại phải huy động đến 300.000 quân?
Lý do rất đơn giản: ông Đặng không chắc liệu quân đội có tuân theo mệnh lệnh nếu ông chỉ huy động 10.000 quân hay không, hoặc liệu họ có xông vào Trung Nam Hải cùng với các sinh viên hay không. Rõ ràng ông chỉ cảm thấy "an tâm" sau khi huy động 300.000 quân và chia thành nhiều nhóm nhỏ. Bởi vì không ai biết chắc liệu các cánh quân khác có tuân theo mệnh lệnh của ông Đặng hay không. Lúc đó, mỗi vị chỉ huy sẽ cho rằng, nếu anh ta đứng về phía sinh viên, anh ta sẽ bị bao vây và tiêu diệt bởi những người lính khác. Kết quả là, các đội quân khác nhau đóng vai trò là "rào cản lẫn nhau".
Ông Đặng Tiểu Bình là một thành viên sáng lập của quân đội ĐCSTQ. ĐCSTQ đã triển khai bốn cánh quân dã chiến trong cuộc nội chiến với Quốc Dân đảng, và ông Đặng là chính ủy của đội quân dã chiến thứ hai. Nói cách khác, với thâm niên quân sự và tầm vóc của ông Đặng, ông ta không thể chỉ giao vũ khí của mình cho quân đội, mà phải tính đến sự ràng buộc và cân bằng lẫn nhau giữa các cánh quân.
Ngược lại, ông Tập Cận Bình lại là người có uy tín thấp trong quân đội. Do đó, ông Tập sẽ lo lắng hơn nhiều nếu ông buộc lòng phải điều động thêm lực lượng quân sự và trang bị cho họ những vũ khí tối tân hơn trong cuộc xâm lược Đài Loan. Động thái này giống như những gì ông Đặng đã làm trong vụ thảm sát Thiên An Môn năm 1989.
Ngay cả khi Trung Quốc xâm lược Đài Loan thành công thì những vị chỉ huy vẫn có uy tín to lớn trong quân đội. Đồng thời, với lực lượng quân đội có trong tay, những người này vẫn có đủ sức ảnh hưởng để phế truất ông Tập. Những ví dụ như vậy xuất hiện không ít trong suốt chiều dài lịch sử Trung Quốc. Ông Tập hẳn là rất rõ về những "điển cố" kiểu như vậy, giống sự kiện mà mọi người dân phương Tây đều biết rất rõ: "Caesar's Crossing the Rubicon" (tạm dịch: Chuyến vượt sông Rubicon của Hoàng đế Julius Caesar).
Theo đó, Hoàng đế Julius Caesar của Đế chế La Mã đã cho quân đội của mình băng qua sông Rubicon để tiến đánh thành Rome vào năm 49 TCN, khởi đầu cho cuộc Nội chiến Caesar. Sông Rubicon là ranh giới giữa Cisaupine Gaul và Roma thuộc Ý.
Như ông Carl von Clausewitz - một danh tướng nước Phổ, tác giả của cuốn sách “Bàn về chiến tranh”, từng nói, “Chiến tranh không chỉ đơn thuần là một hành động chính trị mà còn là một công cụ chính trị thực sự, một sự tiếp nối của quan hệ chính trị, một sự thực thi điều tương tự bằng các phương tiện khác".
Chúng ta hãy tạm gác lại câu hỏi, liệu ông Tập Cận Bình có sẵn lòng chấp nhận một cuộc xâm lược Đài Loan bằng vũ lực hay không. Mục đích của việc thống nhất Đài Loan bằng vũ lực là gì, nếu hậu quả cuối cùng là tạo ra một đối thủ chính trị cho chính ông Tập Cận Bình?
Ông Tập không thể giành chiến thắng trong cuộc chiến này. Điều này đưa chúng ta đến với lý do thứ tư giải thích tại sao ông ta không thể thống nhất Đài Loan với Trung Quốc đại lục bằng vũ lực.
Theo tờ Bloomberg, Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế đã thực hiện một loạt các kịch bản chiến tranh vào tháng 8 năm nay và chứng minh rằng, ĐCSTQ không thể chiếm Đài Loan với điều kiện Mỹ không tham chiến và Nhật Bản giữ thái độ trung lập.
Một tờ báo đăng hình các binh sĩ Quân đội Giải phóng Nhân dân (PLA) trong một cuộc diễn tập quân sự với tiêu đề “Cuộc tập trận quân sự của Trung Quốc khiến những người ủng hộ độc lập sợ hãi", tại Bắc Kinh, Trung Quốc, hôm 7/8/2002. (Ảnh: Kevin Lee/Getty Images)
Những dự báo này không tính đến tình trạng tham nhũng trong quân đội của ĐCSTQ. Sau khi ông Tập lên nắm quyền vào năm 2012, ông đã thanh trừng một số lượng lớn các tướng lĩnh quân đội, bao gồm Phó Chủ tịch Quân ủy Trung ương, Tư lệnh Quách Bá Hùng, Tư lệnh Từ Tài Hậu và Nguyên Phó Chủ nhiệm Tổng Cục hậu cần, Trung tướng Cốc Tuấn Sơn.
Thật khó để hình dung hiệu quả chiến đấu và công tác hậu cần của quân đội nếu không bị ảnh hưởng bởi tham nhũng. Các chỉ huy quân đội của ĐCSTQ đã dành phần lớn tâm huyết của mình để lấy lòng cấp trên để đạt được mục đích thăng tiến trong sự nghiệp và làm giàu, thay vì nắm vững các phương pháp chiến đấu hiện đại.
Ngay cả khi ông Tập muốn nhắm mắt làm ngơ trước những vấn đề này, thì các quan chức ở tất cả các cấp trong quân đội Trung Quốc đều nhận thức được điểm này. Vào ngày 9/8/2021, tờ South China Morning Post dẫn lời một người trong cuộc nói rằng, Bộ Ngoại giao và Bộ Quốc phòng Trung Quốc đã xảy ra mâu thuẫn về phong cách diễn ngôn. Bộ Quốc phòng cáo buộc Bộ Ngoại giao về chính sách ngoại giao “chiến lang” khiến các nước dân chủ phẫn nộ. Nguồn tin cũng tiết lộ Bộ Ngoại giao và Bộ Quốc phòng Trung Quốc đã "đấu khẩu" ngay trước mặt ông Tập.
Nếu chiến lược thống nhất Đài Loan bằng vũ lực của ông Tập Cận Bình là vì mục đích chính trị, liệu có khả năng ông Tập sẽ tiến hành một cuộc chiến tranh mà ông chắc chắn giành phần thua hay không? Nếu việc bại trận sẽ khiến ông Tập không khỏi suy sụp, vậy thì tại sao ông ta không giả vờ tham chiến và dựa vào chiến thuật trì hoãn để kéo dài thời gian cầm quyền?
Những dự báo này không tính đến tình trạng tham nhũng trong quân đội của ĐCSTQ. Sau khi ông Tập lên nắm quyền vào năm 2012, ông đã thanh trừng một số lượng lớn các tướng lĩnh quân đội, bao gồm Phó Chủ tịch Quân ủy Trung ương, Tư lệnh Quách Bá Hùng, Tư lệnh Từ Tài Hậu và Nguyên Phó Chủ nhiệm Tổng Cục hậu cần, Trung tướng Cốc Tuấn Sơn.
Thật khó để hình dung hiệu quả chiến đấu và công tác hậu cần của quân đội nếu không bị ảnh hưởng bởi tham nhũng. Các chỉ huy quân đội của ĐCSTQ đã dành phần lớn tâm huyết của mình để lấy lòng cấp trên để đạt được mục đích thăng tiến trong sự nghiệp và làm giàu, thay vì nắm vững các phương pháp chiến đấu hiện đại.
Ngay cả khi ông Tập muốn nhắm mắt làm ngơ trước những vấn đề này, thì các quan chức ở tất cả các cấp trong quân đội Trung Quốc đều nhận thức được điểm này. Vào ngày 9/8/2021, tờ South China Morning Post dẫn lời một người trong cuộc nói rằng, Bộ Ngoại giao và Bộ Quốc phòng Trung Quốc đã xảy ra mâu thuẫn về phong cách diễn ngôn. Bộ Quốc phòng cáo buộc Bộ Ngoại giao về chính sách ngoại giao “chiến lang” khiến các nước dân chủ phẫn nộ. Nguồn tin cũng tiết lộ Bộ Ngoại giao và Bộ Quốc phòng Trung Quốc đã "đấu khẩu" ngay trước mặt ông Tập.
Nếu chiến lược thống nhất Đài Loan bằng vũ lực của ông Tập Cận Bình là vì mục đích chính trị, liệu có khả năng ông Tập sẽ tiến hành một cuộc chiến tranh mà ông chắc chắn giành phần thua hay không? Nếu việc bại trận sẽ khiến ông Tập không khỏi suy sụp, vậy thì tại sao ông ta không giả vờ tham chiến và dựa vào chiến thuật trì hoãn để kéo dài thời gian cầm quyền?
Nguồn: Trên mạng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét