Thế kỷ máu của chủ nghĩa cộng sản
Stephen Kotkin - Một trăm năm kể từ cuộc đảo chính của Lenin ở Nga, cái ý thức hệ dấn thân cho sự nghiệp xóa bỏ thị trường và quyền tư hữu đã để lại một chặng đường dài hủy diệt và chết chóc. Mác và người cộng sự Friedrich Engels từng tuyên bố trong Tuyên ngôn Cộng sản năm 1848, học thuyết của họ “có thể được tóm gọn trong một câu đơn nhất: bãi bỏ quyền tư hữu”.Chủ nghĩa cộng sản đi vào lịch sử như là sự kết tội chủ nghĩa tư bản, kịch liệt nhưng đầy chất lý tưởng, và hứa hẹn một thế giới tốt đẹp hơn. Những người ủng hộ chủ nghĩa cộng sản, cũng như những người cánh tả khác, đều đổ lỗi cho chủ nghĩa tư bản đã gây ra tình trạng bi thảm của nông dân và công nhân cũng như sự lan tràn của lao động nhập cư và lao động trẻ em. Những người cộng sản nhìn thấy cuộc tàn sát trong Chiến tranh Thế giới lần thứ Nhất như là hậu quả trực tiếp của sự cạnh tranh khốc liệt giữa các cường quốc để giành giật thị trường nước ngoài.
Nhưng một thế kỷ cầm quyền của chủ nghĩa cộng sản – mà ngày nay vẫn còn đứng vững ở Cuba, Bắc Hàn và Trung Quốc – đã làm rõ cái giá phải trả về nhân mạng của một chương trình chính trị quyết tâm lật đổ chủ nghĩa tư bản. Hết lần này đến lượt khác, nỗ lực xóa bỏ thị trường và quyền tư hữu đã gây ra cái chết của một số lượng người đáng kinh ngạc. Từ năm 1917 - ở Liên xô, Trung quốc, Mông cổ, Đông Âu, Đông Dương, Phi châu, Afghanistan và nhiều nước châu Mỹ Latin – chủ nghĩa cộng sản đã làm thiệt mạng ít nhất 65 triệu người, theo nghiên cứu cẩn thận của các nhà dân số học.
Những công cụ hủy diệt của chủ nghĩa cộng sản bao gồm việc trục xuất hàng loạt, các trại cưỡng bức lao động và sự khủng bố của nhà nước cảnh sát – một mô hình được lập ra bởi Lenin và đặc biệt là người kế tục ông là Joseph Stalin. Mô hình này được nhân rộng nhiều nơi. Dù chủ nghĩa cộng sản đã cố ý giết chết một lượng lớn người dân nhưng thậm chí còn nhiều nạn nhân hơn đã chết vì nạn đói - hậu quả của những dự án tàn bạo về cải tạo xã hội.
Với những tội ác mang “tầm sử thi” này, Lenin và Stalin phải chịu trách nhiệm cá nhân, cũng như Mao Trạch Đông ở Trung Quốc, Pol Pot ở Cambodia, gia tộc họ Kim ở Bắc Hàn và các nhà độc tài cộng sản khác ít tàn bạo hơn. Nhưng chúng ta đừng bỏ qua các ý tưởng đã thôi thúc những kẻ độc ác này tàn sát con người trên quy mô lớn như vậy, cũng đừng quên cái bối cảnh dân tộc thôi thúc họ đi theo các ý tưởng này. Sự nghiệp chống chủ nghĩa tư bản hấp dẫn họ do tính đúng đắn của chính nó và trong tâm trí họ, đó cũng là công cụ để các quốc gia chậm tiến nhảy vọt lên, đứng vào hàng ngũ các cường quốc.
Giờ đây, cuộc cách mạng cộng sản chủ nghĩa đã lụi tàn, nhưng một trăm năm của nó, xét như một sự nghiệp vĩ đại chống chủ nghĩa tư bản, vẫn đòi hỏi một sự phân xử thích hợp.
Vào tháng Hai năm 1917, Nga hoàng Nicholas đệ Nhị thoái vị dưới áp lực của các tướng lĩnh, những người lo ngại rằng các cuộc biểu tình và tuần hành đòi cơm áo ở thủ đô St. Petersburg đang xói mòn nỗ lực chiến tranh chống Đức và các nước đồng minh của nó. Cuộc Cách mạng tháng Hai, như tên gọi biến cố ấy, lập ra một chính phủ lâm thời không do người dân bầu lên; chính phủ này cầm quyền mà không có một nghị viện dân cử. Nông dân bắt đầu giành lấy ruộng đất và các xô-viết (tức là các ủy ban chính trị) bắt đầu được thành lập trong binh lính ở chiến trường, cũng giống như các xô-viết đã được lập ra trước đó trong các nhóm chính trị ở đô thị.
Mùa thu năm ấy, khi chiến tranh diễn ra ngày càng dữ dội, những người bolshevik của Lenin đã tiến hành một cuộc khởi nghĩa vũ trang, huy động được có lẽ không quá 10.000 người. Cuộc đảo chính của họ không nhắm lật đổ chính phủ lâm thời từ lâu đã trở nên dở sống dở chết; thay vì vậy họ chống lại các xô-viết chính ở thủ đô do những người xã hội chủ nghĩa ôn hòa hơn thống trị. Cuộc Cách mạng tháng Mười bắt đầu là một cuộc lật đổ chớp nhoáng mà những người cánh tả cấp tiến thực hiện để chống lại phần còn lại của cánh tả, thành phần tố cáo những người bolshevik vi phạm quy tắc và sau đó đã bỏ ra khỏi các xô-viết.
Những người bolshevik, cũng như nhiều đối thủ của họ - là môn đệ trung thành của Karl Marx, nhà tư tưởng cho rằng đấu tranh giai cấp là động lực vĩ đại của lịch sử. Cái mà ông gọi là chế độ phong kiến sẽ phải nhường chỗ cho chủ nghĩa tư bản, rồi đến lượt mình, chủ nghĩa tư bản sẽ bị thay thế bằng chủ nghĩa cộng sản và cuối cùng là một thế giới đại đồng không tưởng xa xăm! Marx hình dung ra một kỷ nguyên mới của tự do và sung túc, và điều kiện tiên quyết của nó là sự phá hủy “chế độ nô lệ tiền lương” và sự bóc lột của chủ nghĩa tư bản. Như ông và người cộng sự Friedrich Engels từng tuyên bố trong Tuyên ngôn Cộng sản năm 1848, học thuyết của họ “có thể được tóm gọn trong một câu đơn nhất: bãi bỏ quyền tư hữu”.
Một khi đã giành được quyền lực vào đầu năm 1918, những người bolshevik tự đổi tên thành đảng Cộng sản và họ tìm cách buộc nước Nga phải cấp tốc đi lên chủ nghĩa xã hội, đi tới giai đoạn cuối cùng của lịch sử. Hàng triệu người bắt đầu tập sống theo những phương cách mới. Tuy nhiên không ai biết chính xác xã hội mới sẽ ra làm sao. “Chúng tôi không thể mô tả đặc điểm của chủ nghĩa xã hội. Chúng tôi không biết, chúng tôi không thể nói chủ nghĩa xã hội sẽ như thế nào khi nó đạt đến hình thức hoàn hảo của nó”, Lenin kết luận như vậy vào tháng Ba năm 1918.
Nhưng với họ có một điều rõ ràng: chủ nghĩa xã hội không giống chủ nghĩa tư bản. Chế độ xã hội chủ nghĩa thay thế quyền tư hữu bằng sở hữu tập thể, thị trường thay bằng kế hoạch hóa và các nghị viện “tư sản” thay bằng “quyền lực nhân dân”. Tuy vậy vào thời điểm đóngay cả một số người cộng sản đã rút ra kết luận là trong thực tế không thể nào thực hiện được kế hoạch hóa khoa học. Còn công cuộc tập thể hóa quyền tư hữu đã đem lại quyền lực không phải cho nhân dân mà cho nhà nước.
Quá trình do người cộng sản phát động đã kéo theo sự bành trướng rộng rãi một guồng máy công an mật vụ để xử lý các vụ bắt bớ, lưu đày trong nước và hành quyết những “kẻ thù giai cấp”. Sự truất hữu các nhà tư bản cũng làm giàu cho một giai cấp mới các cán bộ nhà nước, những người nắm quyền kiểm soát tài sản quốc gia. Tất cả các đảng phái và quan điểm nằm bên ngoài học thuyết chính thống đều bị đàn áp, chính trị như là một cơ chế để điều chỉnh bị xóa bỏ.
Những mục tiêu được tuyên bố của cuộc cách mạng năm 1917 là sự sung túc và công bằng xã hội, nhưng sự tiêu diệt chủ nghĩa tư bản đã sinh ra những cơ cấu làm cho các mục tiêu đó không bao giờ đạt được.
Ở khu vực đô thị, chế độ xô-viết có khả năng dựa vào lực lượng công nhân nhà máy có vũ trang, những người mới kết nạp đảng đầy nhiệt huyết và công an chìm, dựa vào những người trẻ nôn nóng xây dựng thế giới mới. Nhưng ở nông thôn, người nông dân – có khoảng 120 triệu người như vậy – đã thực hiện cuộc cách mạng của riêng họ, lật đổ giới quý tộc và thiết lập trong thực tế quyền sở hữu ruộng đất của nông dân.
Với một đất nước bị tàn phá đang đi tới bờ vực của nạn đói, Lenin bắt buộc các cán bộ đảng còn miễn cưỡng phải chấp nhận cuộc cách mạng riêng rẽ của nông dân trong thời điểm đó. Ở nông thôn một nền kinh tế gần giống kinh tế thị trường vẫn được cho phép vận hành, bất chấp sự phản đối của các đảng viên cộng sản thuần túy.
Khi Lenin qua đời vào năm 1924, sự nhân nhượng với nông dân đã trở thành vấn đề của Stalin. Cho đến năm 1928, có chưa tới 1% diện tích đất canh tác đã được hợp tác hóa một cách tự nguyện. Vào thời điểm ấy, phần lớn các nhà máy chủ yếu đều đã do nhà nước làm chủ và chính quyền đã cam kết một kế hoạch 5 năm công nghiệp hóa. Các nhà cách mạng bực tức khi thấy giờ đây Liên xô có hai hệ thống không tương thích với nhau – chủ nghĩa xã hội ở thành phố và chủ nghĩa tư bản ở làng quê.
Stalin đã không trì hoãn. Ông áp đặt công cuộc tập thể hóa cưỡng bức trên toàn quốc, từ ven biển Baltic tới ven bờ Thái Bình Dương, bất chấp những cuộc nổi loạn của quần chúng nông dân. Ông đe dọa các cán bộ đảng, bảo họ rằng nếu như họ không nghiêm túc trong việc xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, họ hãy chuẩn bị sẵn sàng để giao quyền lực cho những nhà tư sản đang nổi lên ở nông thôn. Ông kích hoạt cuộc chiến tranh giai cấp chống lại “kulak” (trung nông và điền chủ), và bất cứ ai bảo vệ họ, áp đặt hạn ngạch (quota) cho việc bắt bớ tràn lan và lưu đày nội địa.
Stalin nói rõ nguyên lý cơ bản về ý thức hệ của ông: “Chúng ta có thể phát triển nông nghiệp theo kiểu kulak, kiểu nông trại cá nhân, bên cạnh trang trại quy mô lớn” giống như ở “Mỹ và các nước khác” hay không? Ông hỏi. “Không, chúng ta không thể. Chúng ta là đất nước Xô-viết. Chúng ta muốn xây dựng một nền kinh tế tập thể, không chỉ trong công nghiệp mà cả trong nông nghiệp”.
Và ông đã không bao giờ thoái lui, ngay cả khi, do hậu quả các chính sách của ông mà đất nước Nga rơi vào một nạn đói nữa vào các năm 1931-1933. Tập thể hóa cưỡng bức trong mấy năm ngắn ngủi đó đã cướp đi sinh mạng của khoảng từ 5 đến 7 triệu người.
Tiền lệ khủng khiếp của Liên xô đã không ngăn cản được các nhà cách mạng cộng sản khác. Mao Trạch Đông, một người cứng rắn như Stalin, đã vươn lên vị trí cao nhất của phong trào cộng sản Trung Hoa và vào năm 1949, ông và các đồng chí của ông trở thành người chiến thắng trong cuộc nội chiến ở Trung Quốc. Mao đã thấy cái giá nhân mạng khổng lồ trong cuộc thử nghiệm của Liên xô như là yếu tố nội tại của thành công!
Chính sách Đại Nhảy Vọt của Mao, một chiến dịch bạo lực diễn ra từ 1958 tới 1962, là nỗ lực tập thể hóa khoảng 700 triệu nông dân Trung Quốc và mở rộng công nghiệp về nông thôn. “Ba năm lao động cần cù và chịu đựng [để có] ngàn năm thịnh vượng”, là một trong những câu khẩu hiệu nổi bật thời đó.
Các báo cáo sai lệch về những vụ thu hoạch thắng lợi và nông dân sung sướng vui vẻ tràn ngập các khu nhà ở được cung cấp đầy đủ của giới tinh hoa cộng sản cầm quyền ở Bắc Kinh. Nhưng trong thực tế, chương trình của Mao đã dẫn tới một trong những nạn đói khủng khiếp nhất trong lịch sử, làm chết đói khoảng từ 16 đến 32 triệu người. Sau thảm họa, mà những người sống sót nói tới như là “làn gió cộng sản”, Mao dập tắt hết những lời kêu gọi ngừng tập thể hóa nông nghiệp. Như ông từng tuyên bố: “nông dân muốn tự do nhưng chúng ta muốn chủ nghĩa xã hội”.
Những mất mát khủng khiếp này vẫn không ngăn chặn được sự lặp lại tính tàn bạo cộng sản nhân danh xóa bỏ chủ nghĩa tư bản. Sau khi chinh phục được Cambodia vào năm 1975, Pol Pot và phe Khmer Đỏ của ông ta đã đuổi hàng triệu người ra khỏi các thành phố, đẩy họ về nông thôn làm việc trong các công xã và các dự án cưỡng bức lao động. Họ tìm cách biến Cambodia thành một xã hội thuần nông không có giai cấp.
Khmer Đỏ bãi bỏ đồng tiền, cấm đánh bắt cá để kinh doanh, hành quyết các tu sĩ Phật giáo, Hồi giáo; các cộng đồng thiểu số gốc Việt và gốc Hoa của đất nước bị coi là “kẻ xâm nhập”. Chế độ của Pol Pot cũng tập trung trẻ em để ngăn ngừa việc chúng bị lây nhiễm ý thức hệ từ cha mẹ “tư bản” của chúng.
Được biết đã có khoảng 2 triệu người Cambodia, tương đương một phần tư dân số vào thời ấy, đã chết vì đói rét, bệnh tật, bị hành quyết hàng loạt trong bốn năm ác mộng dưới ách cai trị của Pol Pot. Ở một số khu vực, ao chuôm nào đào lên cũng thấy sọ người.
Phân tích về giai cấp của Marx bác bỏ tính chính danh của mọi phong trào chính trị đối lập, không chỉ từ các phần tử “tư sản” mà từ ngay bên trong các phong trào cộng sản – bởi vì những người đối lập phục vụ “một cách khách quan” cho lợi ích của trật tự tư bản quốc tế. Cái lô-gic về cách mạng không ngừng nghỉ chống chủ nghĩa tư bản sẽ chỉ tới một lãnh tụ duy nhất trên đỉnh một hệ thống độc đảng.
Từ Nga tới Trung Quốc, từ Bắc Hàn tới Cuba, các nhà độc tài cộng sản đều chia sẻ những đặc điểm chung chủ yếu. Tất cả đều ít nhiều tuân theo khuôn mẫu của Lenin: một sự pha trộn hệ tư tưởng đấu tranh với những thủ đoạn vô nguyên tắc. Và tất cả đều có sức mạnh ý chí tuyệt vời – điều kiện tiên quyết để thủ đắc những gì chỉ có sự đổ máu không tính nổi mới có thể mang lại.
Tuy nhiên, trong thế kỷ vừa qua chủ nghĩa cộng sản không phải là tác nhân duy nhất thực hiện các vụ tàn sát. Sự đàn áp của chủ nghĩa quốc xã (Nazi), những cuộc chiến tranh thanh lọc sắc tộc cũng đã giết hại khoảng 40 triệu người. Và trong thời Chiến tranh Lạnh, phong trào chống cộng sản đã kích hoạt những cơn bùng phát bạo động bất ngờ và dữ dội ở Indonesia, châu Mỹ Latin và nhiều nơi khác.
Nhưng bằng chứng về nỗi kinh hoàng cộng sản nổi lên liên tục trong nhiều thập niên đã gây sốc nặng cho những người cánh tả và theo tư tưởng tự do ở phương Tây, những người cùng chia sẻ nhiều mục tiêu công bằng xã hội của các nhà cách mạng. Nhiều người phản đối Liên xô đã làm méo mó chủ nghĩa xã hội, và quy những tội ác của chế độ Xô-viết cho tình trạng lạc hậu của nước Nga, cho tính khí của Lenin và Stalin. Dù sao, Marx không bao giờ ủng hộ việc tàn sát hàng loạt hoặc các trại lao động kiểu Gulag. Không tìm đâu thấy ông biện luận rằng công an chìm, trục xuất người trên xe chở súc vật và chết đói hàng loạt là những biện pháp nên dùng để thiết lập các trang trại tập thể.
Nhưng nếu chúng ta phải học có một bài học từ một thế kỷ cộng sản thì đó chính là: để thực thi các lý tưởng của Marx thì cần phải phản bội chúng. Đòi hỏi của Marx “bãi bỏ quyền tư hữu” là tiếng kèn xung trận kêu gọi hành động – nhưng cũng là con đường kiên định dẫn tới sự hình thành nhà nước đàn áp, không bị kiểm soát.
Một số nhà xã hội chủ nghĩa bắt đầu nhận ra rằng, không thể có tự do nếu không có thị trường và sở hữu tư nhân. Khi họ bắt đầu giải hòa với sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản, hy vọng sẽ điều tiết thay vì xóa bỏ nó, họ bị cáo buộc là những kẻ phản bội. Theo thời gian, ngày càng có nhiều nhà xã hội chủ nghĩa chấp nhận kiểu nhà nước phúc lợi, hoặc kinh tế thị trường có sự phân phối. Nhưng tiếng còi kêu gọi vượt qua chủ nghĩa tư bản vẫn còn vang vọng trong một số người cánh tả.
Những thành trì cố thủ quan trọng của thế kỷ cộng sản vẫn còn tồn tại, dù không theo kiểu Marxist chính thống, ở Nga và Trung Quốc. Cả hai quốc gia này vẫn tiếp tục hoài nghi những gì có lẽ là quan trọng nhất của thị trường tự do và sở hữu tư nhân: khả năng đem lại cho người dân thường sự độc lập trong suy nghĩ và hành động, cho họ quyền theo đuổi những lợi ích của chính họ mà họ thấy phù hợp, trong đời sống riêng tư, xã hội dân sự và không gian chính trị.
Nhưng chống chủ nghĩa tư bản còn được sử dụng như một chương trình thay thế trật tự thế giới bằng một trật tự mới, trong đó những mục tiêu dân tộc chủ nghĩa từ lâu bị đè nén sẽ được hiện thực hóa. Đối với Stalin và Mao, người thừa kế những nền văn minh cổ đầy tự hào, châu Âu và Hoa Kỳ đại diện cho sức cám dỗ và mối đe dọa của một phương Tây siêu việt. Những người cộng sản tự đặt ra cho mình nhiệm vụ phải đuổi kịp và vượt qua các đối thủ tư bản chủ nghĩa và giành cho đất nước mình vị thế trung tâm trên sân khấu quốc tế. Cuộc đấu tranh cách mạng cho phép nước Nga thỏa mãn cái ý thức kéo dài nhiều thế kỷ về sứ mệnh đặc biệt của mình trên thế giới, trong khi nó cho Trung Quốc cơ hội để tuyên xưng một lần nữa là Vương quốc Trung tâm.
Sự chống đối phương Tây của Vladimir Putin, cùng với sự pha trộn đặc thù của ông trong đó niềm hoài vọng về thời đại Xô-viết hòa với sự phục hồi Chính thống giáo Nga, được xây dựng trên tiền lệ của Stalin. Về phần mình, tất nhiên Trung Quốc vẫn là cường quốc cộng sản cuối cùng, ngay cả khi Bắc Kinh quảng bá và cố gắng kiểm soát một nền kinh tế phần lớn là thị trường. Giờ đây, dưới quyền ông Tập Cận Bình, đất nước này vừa đi theo hệ tư tưởng cộng sản vừa khai thác văn hóa truyền thống Trung Hoa trong nỗ lực nâng cao vị thế quốc gia như là một sự thay thế phương Tây.
Thế kỷ máu của chủ nghĩa cộng sản đã đi tới lúc kết thúc, và chúng ta có thể bày tỏ niềm vui về sự lụi tàn của nó. Nhưng những khía cạnh đáng lo ngại trong di sản của nó thì vẫn còn dai dẳng!
Stephen Kotkin là giáo sư sử học và quan hệ quốc tế đại học Princeton và nghiên cứu viên cao cấp tại Viện Hoover của đại học Stanford. Cuốn sách mới nhất của ông, “Stalin: Chờ đợi Hitler, 1929-1941” vừa được Penguin Press xuất bản tháng trước.
Nguồn: https://www.wsj.com/articles/the-communist-century-1509726265
Stephen Kotkin: Communism’s Bloody Century
Wall Street Journal, 3 November 2017
Người dịch: Hiếu Chân
http://www.viet-studies.net/kinhte/Kotkin_BloodyCentury_WSJ.html
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét