Ngân sách chi thường xuyên gấp ba lần chi đầu tư
Minh bạch trong chi tiêu là yêu cầu đặt ra, để trên cơ sở đó các đại biểu thay mặt người dân biểu quyết số tiền thuế mà họ chịu chi cho việc tiêu của Chính phủ. Chúng tôi cung cấp bức tranh chung về tình hình thu chi ngân sách và thông qua đó, các chuyên gia kinh tế nêu quan điểm về cách ứng xử trên cơ sở lợi ích chung của nền kinh tế.
Bội chi, thu không đủ chi, là tình trạng thường xuyên của ngân sách nước ta. Thu giảm không đủ chi như dự toán đã đành, nhưng không đủ chi còn do chi vượt quá mức dự toán. Đằng sau bức tranh này còn là sự mất cân đối nghiêm trọng giữa chi thường xuyên và chi cho đầu tư phát triển, ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế.
Chủ yếu là chi thường xuyên
Trong nghiên cứu “Bàn về tính bền vững và kỷ luật trong chính sách tài khóa”, tác giả - TS Vũ Sỹ Cường ở học viện Tài chính đã đưa ra bảng “Cơ cấu chi cân đối ngân sách Nhà nước” như bên dưới. (bài trong trang gốc không có bảng số)
Nhìn vào đó, có thể thấy khoản chi lớn nhất trong tổng chi ngân sách nhà nước (NSNN) chính là chi thường xuyên - chi cho bộ máy nhà nước. Tỷ trọng chi thường xuyên đã tăng hơn 10 điểm % trong giai đoạn 2005- 2012. Sự gia tăng tỷ trọng chi thường xuyên cũng có nghĩa là khó giảm thâm hụt ngân sách giai đoạn tới hơn vì chi thường xuyên khó cắt giảm hơn chi cho đầu tư phát triển.
Chi tiêu cho quản lý hành chính liên tục tăng với tốc độ tăng giai đoạn 2008-2012 là 31,7% mỗi năm trong khi con số này giai đoạn 2001-2005 chỉ là 17%. Ví dụ riêng số chi quản lý hành chính cho các cơ quan trung ương đã tăng hơn 11 lần từ 3.000 tỉ đồng năm 2004 lên 34.000 tỉ năm 2013 (dự toán). Điều này cho thấy Việt Nam không đạt được kết quả tốt trong việc cải cách bộ máy hành chính để giảm chi tiêu công.
Không khó để lý giải điều này. Kết quả giám sát “Việc thực hiện chính sách, pháp luật trong công tác tuyển dụng, đào tạo, bổ nhiệm đối với đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức”của Ủy ban thường vụ Quốc hội mới đây cho thấy chỉ trong ba năm 2010 – 2012, số cán bộ công chức đã tăng hơn 35 ngàn người (sau khi trừ số người nghỉ), bằng 9,3% tổng số. Số viên chức còn tăng nhiều hơn với trên 200 ngàn người, bằng 18,2% tổng số. Tất nhiên, đi cùng với đó là chi lương và các chế độ.
Một trong những khoản chi có vai trò ngày càng lớn trong tổng chi NSNN được TS Cường chỉ ra là chi trả nợ (gồm cả lãi và gốc). Với nhiều khoản vay từ những năm 1990 thì đến nay đã bắt đầu tới hạn trả nợ, do vậy hàng năm số nợ phải trả đã chiếm tỷ trọng khoảng 10 – 12% tổng chi NSNN. Về xu thế, số nợ này sẽ tăng dần lên trong những năm tới và điều đó cũng có thể là nguyên nhân ảnh hưởng đến tính bền vững của NSNN trong tương lai. Trong những năm gần đây 2009-2012 chi NSNN cho trả nợ đã vượt qua khoản thu bằng dầu thu, mặc dù trong giai đoạn 2003-2008, chi trả nợ chỉ chiếm khoảng 60 % so với thu từ dầu thô.
Bội chi là bội chi nào?
Xem xét sâu hơn các khoản chi thường xuyên sẽ thấy khoản chi có số vượt dự toán lớn nhất cũng lại là chi quản lý hành chính (trung bình giai đoạn 2005-2012 vượt 25,7 % mỗi năm) tiếp theo là chi sự nghiệp kinh tế (9,9 % mỗi năm), chi cho sự nghiệp xã hội như y tế, giáo dục, văn hóa… (chỉ là vượt trung bình 1,9 % mỗi năm). Như vậy không chỉ tăng nhanh về quy mô mà kỷ luật tài khóa của các khoản chi cho quản lý nhà nước cũng là kém nhất.
Sâu hơn nữa, TS Cường phân tích: Nếu tính toán theo phân loại của Việt Nam thì trong tổng chi cân đối NSNN có một khoản chi chiếm tỷ lệ cao hàng năm là chi chuyển nguồn, chi đã xuất quỹ chuyển quyết toán năm sau. Khoản chi này chiếm đến hơn 21 % tổng chi NSNN vào năm 2008, năm 2010 và năm 2011.
Chi chuyển nguồn lớn hàng năm làm cho tính chính xác, minh bạch về chi tiêu và thâm hụt NSNN không phản ánh đúng với thực tế từ đó sẽ ảnh hưởng không tốt tới việc triển khai các giải pháp trong điều hành kinh tế vĩ mô. Chi chuyển nguồn tăng lên hoàn toàn là nguyên nhân chủ quan, là cách thức quản lý, điều hành chi tiêu, cho nên nếu muốn các chính sách của chính phủ có hiệu lực hiệu quả tốt hơn thì không nên để chi chuyển nguồn tăng cao trong những năm tới.
Thâm hụt NSNN ở mức cao, liên tục trong khi nguồn thu đang ngày càng không bền vững do lệ thuộc nhiều vào khoản thu từ đất sẽ dẫn tới việc tăng nợ công. Nhất là khi trần nợ công mà Chính phủ vẫn đang lạc quan là chưa chạm đỉnh hiện nay, theo TS Cường, vẫn chưa tính đủ các gánh nặng nơ tiềm tàng từ hoạt động của khu vực ngoài ngân sách như của bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, khu vực ngân hàng và đặc biệt là khu vực doanh nghiệp nhà nước.
Người Đô Thị. Tranh TL
Chi tiêu cho quản lý hành chính liên tục tăng với tốc độ tăng giai đoạn 2008-2012 là 31,7% mỗi năm trong khi con số này giai đoạn 2001-2005 chỉ là 17%. Ví dụ riêng số chi quản lý hành chính cho các cơ quan trung ương đã tăng hơn 11 lần từ 3.000 tỉ đồng năm 2004 lên 34.000 tỉ năm 2013 (dự toán). Điều này cho thấy Việt Nam không đạt được kết quả tốt trong việc cải cách bộ máy hành chính để giảm chi tiêu công.
Không khó để lý giải điều này. Kết quả giám sát “Việc thực hiện chính sách, pháp luật trong công tác tuyển dụng, đào tạo, bổ nhiệm đối với đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức”của Ủy ban thường vụ Quốc hội mới đây cho thấy chỉ trong ba năm 2010 – 2012, số cán bộ công chức đã tăng hơn 35 ngàn người (sau khi trừ số người nghỉ), bằng 9,3% tổng số. Số viên chức còn tăng nhiều hơn với trên 200 ngàn người, bằng 18,2% tổng số. Tất nhiên, đi cùng với đó là chi lương và các chế độ.
Một trong những khoản chi có vai trò ngày càng lớn trong tổng chi NSNN được TS Cường chỉ ra là chi trả nợ (gồm cả lãi và gốc). Với nhiều khoản vay từ những năm 1990 thì đến nay đã bắt đầu tới hạn trả nợ, do vậy hàng năm số nợ phải trả đã chiếm tỷ trọng khoảng 10 – 12% tổng chi NSNN. Về xu thế, số nợ này sẽ tăng dần lên trong những năm tới và điều đó cũng có thể là nguyên nhân ảnh hưởng đến tính bền vững của NSNN trong tương lai. Trong những năm gần đây 2009-2012 chi NSNN cho trả nợ đã vượt qua khoản thu bằng dầu thu, mặc dù trong giai đoạn 2003-2008, chi trả nợ chỉ chiếm khoảng 60 % so với thu từ dầu thô.
Bội chi là bội chi nào?
Xem xét sâu hơn các khoản chi thường xuyên sẽ thấy khoản chi có số vượt dự toán lớn nhất cũng lại là chi quản lý hành chính (trung bình giai đoạn 2005-2012 vượt 25,7 % mỗi năm) tiếp theo là chi sự nghiệp kinh tế (9,9 % mỗi năm), chi cho sự nghiệp xã hội như y tế, giáo dục, văn hóa… (chỉ là vượt trung bình 1,9 % mỗi năm). Như vậy không chỉ tăng nhanh về quy mô mà kỷ luật tài khóa của các khoản chi cho quản lý nhà nước cũng là kém nhất.
Sâu hơn nữa, TS Cường phân tích: Nếu tính toán theo phân loại của Việt Nam thì trong tổng chi cân đối NSNN có một khoản chi chiếm tỷ lệ cao hàng năm là chi chuyển nguồn, chi đã xuất quỹ chuyển quyết toán năm sau. Khoản chi này chiếm đến hơn 21 % tổng chi NSNN vào năm 2008, năm 2010 và năm 2011.
Chi chuyển nguồn lớn hàng năm làm cho tính chính xác, minh bạch về chi tiêu và thâm hụt NSNN không phản ánh đúng với thực tế từ đó sẽ ảnh hưởng không tốt tới việc triển khai các giải pháp trong điều hành kinh tế vĩ mô. Chi chuyển nguồn tăng lên hoàn toàn là nguyên nhân chủ quan, là cách thức quản lý, điều hành chi tiêu, cho nên nếu muốn các chính sách của chính phủ có hiệu lực hiệu quả tốt hơn thì không nên để chi chuyển nguồn tăng cao trong những năm tới.
Thâm hụt NSNN ở mức cao, liên tục trong khi nguồn thu đang ngày càng không bền vững do lệ thuộc nhiều vào khoản thu từ đất sẽ dẫn tới việc tăng nợ công. Nhất là khi trần nợ công mà Chính phủ vẫn đang lạc quan là chưa chạm đỉnh hiện nay, theo TS Cường, vẫn chưa tính đủ các gánh nặng nơ tiềm tàng từ hoạt động của khu vực ngoài ngân sách như của bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, khu vực ngân hàng và đặc biệt là khu vực doanh nghiệp nhà nước.
Người Đô Thị. Tranh TL
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét