Chủ Nhật, 11 tháng 11, 2012

(1) TÂY TẠNG “VẾT DAO TRÍ MẠNG" GÓP PHẦN LÀM SỤP ĐỔ TRUNG QUỐC!

Trước khi bị Tàu đỏ cưỡng đoạt bằng vũ lực, Tây Tạng (Tibet) là một quốc gia độc lập lâu đời tại Trung Á. Ðây là một vùng đất quanh năm suốt tháng tuyết phủ vạn niên, được coi như nóc nhà của thế giới vì có độ cao hơn mặt biển 5000m. Sát biên giới phía nam lại có đỉnh núi Everest cao ngát từng xanh (29028 ft hay 8848m). Ðây là miền đất bao đời được coi như vô ưu vì người Tạng luôn khép kín không tranh giành với thế giới, một vùng đất mang nhiều huyền bí tới nay vẫn không mấy người biết được.

Tây Tạng có diện tích 1.892. 393 sq.ml, dân số trên 6 triệu người theo Phật Giáo Mật Tông (Kim Cương Thừa), bắc giáp Tân Cương, Phía đông tiếp cận với các tỉnh Thanh Hải, Tứ Xuyên, Vân Nam. Phiá tây nam có chung biên giới với Ấn Ðộ, Nepal, Bhutan, Miến Ðiện. Thủ phủ đóng tại Lhasa cũng là thành phố lớn nhất nước. Ðược bao bọc bốn bề là núi non hùng vỹ, phía nam có dãy Hymalaya, dãy Karakoram ở phía tây, ngọn núi Côn Luân (Kunlun) ở phía bắc. Bởi vậy Tây Tạng được coi như là vùng đất hẻo lánh nhất hoàn cầu.



Theo khảo cứu của các nhà địa chất học, thì vùng này trước đây vốn nằm sâu trong lòng biển cả, qua các dấu vết trầm tích còn lưu lại nên người ta có thể phỏng đoán đã xảy ra chừng 40 triệu năm về trước. Sau đó nhờ có trận động đất do các lục địa va chạm vào nhau, tạo thành dãy Hy Mã Lạp Sơn và cao nguyên Tây Tạng. Hiện tại nhiều hồ nước ở đây còn để lại vô số xác động vật biển đã hóa thạch. Ðây là vùng có mật độ dân số thưa thớt nhất trong đế quốc Tàu đỏ, nơi phát xuất của nhiều con sông lớn của Châu Á như Hằng Hà, Ấn Hà (Ấn Ðộ), Mekong, Hoàng Hà, Dương Tử..

1- LỊCH SỬ VƯƠNG QUỐC TÂY TẠNG:
Khu vực A Lý nằm trong lãnh thổ Tây Tạng ngày nay được coi là một vùng đất hẻo lánh nhưng hơn ngàn năm về trước lại là cương vực của một vương quốc hùng mạnh, có một nền Phật Giáo cực thịnh, tồn tại tới đầu thế kỷ XVII thì bị diệt vong.

Hiện tất cả các di chỉ của vương quốc Cổ Cách vẫn còn được lưu giữ tại Huyện Thành Thát Ðạt, nằm trên độ cao 3700m, có diện tích 22.500 km2. Thành quách cổ được tìm thấy ở bờ nam sông Tương Tuyền, trên núi Hoàng thổ cao chừng 300m, cách huyện lỵ khoảng 18 cây số, nay đã hoang tàn đứng trơ gan cùng tuế nguyệt. Vùng này từ thế kỷ thứ VII (Sau Tây Lịch) trở về trước là một phần lãnh thổ ở phía đông nước Tượng Hùng rộng lớn đã trải qua 18 đời vua. Vào thế kỷ thứ VII (sau TL), Tượng Hùng bị Thổ Phồn thôn tính nhưng đến thế kỷ thứ IX thì trở nên suy yếu vì sự xung đột tranh giành quyền lực giữa Tập Ðoàn Tăng Lữ Phật Giáo và Quý Tộc. Cuối cùng Lang Ðạt Ma gây cuộc chính biến, đoạt quyền vua, thẳng tay “Hủy Phật, diệt Pháp” đốt kinh sách, phá hũy chùa chiền, giết hại tăng lữ.. khiến cho ai cũng căm thù oán hận, vì vậy các tín đồ Phật giáo đã nhất tề đứng dậy chống lại nên Lang Dạt Ma bị tiêu diệt.

Nhưng tình hình trong nước vừa yên thì vương thất Thổ Phồn lại bắt đầu xâu xé giành giựt quyền lực, cộng thêm tệ nạn nô lệ, đã khiến cho vương triều này tan rã. Thời gian này, con cháu của Lang Ðạt Ma lại đứng lên lãnh đạo dân chúng, men theo dòng sông Nhã Lỗ Tạng Bố về hướng Thát Dạt. Ở đây người con của Lang Ðạt Ma là Ðức Tổ thành lập vương quốc Cổ Cách, từ đó cho tới khi bị diệt vong, đã chiếm một địa vị rất quan trọng trong lịch sử của Tây Tạng, suốt thời kỳ nội chiến phân liệt kéo dài gần 400 năm, sau khi Thổ Phồn bị tiêu diệt.

Ðây là vương quốc lấy Phật Giáo làm Quốc Giáo. Hoàng tử thứ hai của nhà vua đã xuất gia tu hành, hoằng dương Phật Pháp, sau này trở thành một vị cao tăng nổi tiếng của Tây Tạng. Nhà vua còn mời các vị cao tăng Phật giáo từ Ấn Ðộ sang thuyết pháp, giúp Phật Giáo Cổ Cách và Tây Tạng càng lúc càng cực thịnh. Năm 1624 một tu sĩ Bồ Ðào Nha tên Anderla vào tận vương quốc, được quốc vương lẫn hoàng hậu trọng dụng, cho phép truyền đạo Thiên Chúa và thiết lập giáo đường đầu tiên ở Tây Tạng. Hành động này đã làm dân chúng phẫn nộ cùng với các vị Lạt Ma đứng dậy vào năm 1635, lật đổ quốc vương, triệt hạ giáo đường và trục xuất các nhà truyền đạo Thiên Chúa ra khỏi Tây Tạng. Vương quốc Cổ Cánh cũng bị tiêu diệt sau 700 tồn tại.

Nói chung Tây Tạng từ thế kỷ thứ VII ( sau TL), mới bắt đầu giao tiếp với người Hán ở phía đông và các nước láng giềng khác để giao thương và trao đổi văn hóa. Từ năm 710 về sau, thời vua Tride Zhotsan, Phật giáo chính thức trở thành quốc giáo của Tây Tạng. Thời vua Trison Detsen (755-779) Tây Tạng xua quân chiếm nhiều đất đai phía tây của Trung Hoa. Năm 763 thời mạt Ðường, kinh đô Tràng An trong tỉnh Thiểm Tây bị Tây Tạng chiếm, khiến người Tàu phải triều cống Tây Tạng, đồng thời hai bên ký hiệp ước phân định biên giới từ đó. Thế kỷ XIII Mông Cổ xâm chiếm và đô hộ Tây Tạng, chia nước này thành nhiều khu vực để cai trị. Thời nhà Minh (1368-1644) vẫn duy trì chính sách chia để trị tại Tây Tạng, làm cho quốc gia này càng lúc càng suy yếu. Nhà Thanh (1644-1911) thay đổi chính sách cai trị Tây Tạng, ban phát nhiều quyền hành cho các vị Ðại Lạt Lạt Ma coi như là vị lãnh đạo tinh thần của nhân dân Tây Tạng.

Ngoài cái nạn bị Hán tộc và Mông Cổ xâm lăng đô hộ,Tây Tạng còn bị Ấn Ðộ và Nepal xâm lăng nhiều lần. Tới thế kỷ XIX thực dân Anh sau khi chiếm được Ấn Ðộ, Miến Ðiện và A Phú Hãn, bắt đầu xâm nhập Xứ Tuyết vào năm 1903 nhưng vì không chịu nổi thời tiết khắc nghiệt và sự đối kháng của nghĩa quân, nên đã bỏ Tây Tạng, sau khi đã ký một hiệp ước với nhà Thanh không can thiệp vào nội bộ của nước này nữa.

Năm 1914 bắt đầu đệ nhất thế chiến, thực dân Anh lại dòm ngó Tây Tạng, mở hội nghị tại Ấn Ðộ, đòi chia nước này thành hai phần, một nửa giao cho Tàu, phần kia thuộc Anh nhưng bị thất bại. Năm 1949 Trung Cộng chiếm được lục dịa Trung Hoa. Tháng 10 cùng năm, Mao Trạch Ðông xua 80.000 Hồng quân tấn công và cưỡng chiếm nước này, sáp nhập vào đế quốc đỏ tới ngày nay.

Phật Giáo Tây Tạng: 
Kể từ năm 747, Phật giáo được coi là quốc giáo của Tây Tạng, thời gian này có Ðại sư Padmasambhava là người đầu tiên từ Ấn Ðộ tới thuyết giảng kinh sách. Tuy nhiên Phật giáo Tây Tạng vẫn có nhiều khác biệt với Phật giáo Ấn Ðộ, nên được gọi là Mật Tông Giáo. Cả nước có hơn 16.000 thiền viện. Danh xưng Ðạt Lai Lạt Ma (Vị sư với biển kiến thức) được chính Thành Cát Tư Hãn vì ngưỡng mộ vị đại sư Tây Tạng lúc đó nên đã ban cho danh xưng trên và được sử dụng cho tới ngày nay.

Ðối với nguời Tây Tạng, Ðạt Lai Lạt Ma chính là những vị lãnh tụ tinh thần của họ với niềm tin. Các vị đó chính là những hậu kiếp của Phật sau khi đã đầu thai qua một vòng luân hồi (Samsara). Những cao tăng dựa vào những lời trăn trối cuối cùng mà vị Lạt Ma tiền nhiệm để lại hay các dấu hiệu đặc biệt, để tìm ra đứa trẻ mới sinh lập lên vị Ðạt Lai Lạt Ma kế tiếp.

Theo Phật sử Tây Tạng, Ðại Sư Sonam Gyatso, viện trưởng tu viện Drepung là người đầu tiên được ban danh xưng Ðạt Lai Lạt Ma, đồng thời ngài cũng là chưởng môn của giáo phái Gelugpa (Mũ vàng). Trong khi đó Ðạt Lai Lạt Ma thứ 6 lại là một Ðại sư người Mông Cổ tên Gushri được thụ phong năm 1642. Chính ông đã lập ra thể chế thần quyền để lãnh đạo Tây Tạng, bấy giờ coi như một chư hầu của Trung Hoa kể từ năm 1720.

Hiện tại Tây Tạng được lãnh đạo bởi Ðại Sư Tenzin Gyatso, là vị Ðại Lai Lạt Ma thứ 14 của nước này, mặc dù ngài đã lưu vong từ năm 1959 tại Ấn Ðộ. Là người đạo đức, thông minh, tài hoa với tấm lòng vị tha nhân ái của một Phật Tử, cộng với một tầm tư tưởng gần như quán tuyệt, nên ngài đã được nhận lãnh giải Nobel Hoà Bình vào năm 1989. Ngoài ra ngài còn viết tác phẩm nổi tiếng “Violence and Compassion (Bạo lực và tình thương)”.

Tuy nhiên chính Nữ ký giả người Pháp Alexandra David Neel mới là người đã vực Tây Tạng huyền bí đến với ánh sáng nhân loại. Năm 1924, cô một mình trèo non lội suối tìm tới thủ phủ Lhasa, nhờ vậy đã ghi lại cuộc sống thần bí của các vị sư kể cả dân thường, giúp thế giới phần nào, biết về một đất nước coi như cô lập hằng ngàn năm giữa băng tuyết. Ngoài ra còn có Ðại Sư Tây Tạng Lobsang Rampa, ông đã ghi lại sự huyền bí của đất nước mình, qua hồi ký “The Rampa Story” đã gây được sự cuốn hút của thế giới bên ngoài. Tác phẩm trên đã được nhà văn nổi tiếng hải ngoại là Nguyên Phong, phóng tác thành “Tây Tạng Huyền Bí” .

Nhưng vị Ðạt Lai Lạt Ma VI Tsangyang Gyatso dù bị kết tội là “nổi loạn” nhưng ngài lại là một huyền thoại của xứ tuyết. Mất tích vào năm 33 tuổi trên đường lưu đày nhưng tới nay những tình ca của ông để lại đã trở thành những bản dân ca nổi tiếng, được lưu truyền khắp hang cùng ngõ hẹp của Tây Tạng. Là người yêu nước, nên ngài đã từ khước quyền lực tối cao của một vị lãnh tụ tinh thần, để chống lại sự kềm kẹp của Mông Cỗ lẫn nhà Thanh đang đàn áp cai trị đất nước Tây Tạng. Ðây là một bài thơ tiêu biểu của vị Lạt Ma thứ VI, bày tỏ nổi tuyệt vọng của đất nước mình, đưọc viết vào năm 1706 khi bị quân Mông Cổ bắt ra khỏi điện Potala:

“Hạt trắng ơi hạt trắng
Cho ta mượn cánh nào
Ta chẳng bay xa đâu
Ðến Lithang ta sẽ quay về.. “

Các Tu Viện Nổi Tiếng Tại Tây Tạng: 
-- Cung Ðiện Potala: Nói đến Tây Tạng là phải nói tới Cung Ðiện bằng vàng Potala, theo tiếng Phạn có nghĩa là “Thánh địa của Quan Thế Âm Bồ Tát” . Riêng người Tây Tạng thì quan niệm: Đây là nơi tụ tập của các vị thần thánh trên trời. Cung điện có hơn 10.000 phòng, được khởi đầu xây cất vào thế kỷ thứ VII đời quốc vương Tùng Chất Can Bố. Ban đầu cung điện chỉ có 999 phòng. Đến thế kỷ XVII Ðạt Lai Lạt Ma thứ V trùng tu và mở rộng lên tới 10.000 phòng như hiện nay. Ðây là một công trình kỳ vĩ nhất thế giới, có chiều cao 120m, trải rộng trên một diện tích 360 km2, gồm 13 tầng lầu, mái được mạ vàng. Riêng lễ đăng quang của các vị Lạt Ma, thường được tổ chức tại ngôi đền thiêng liêng Jokhang nằm trong trung tâm thủ phù Lhasa.

Ðiện Potala cũng là nơi phát sinh ra nhiều huyền thoại kỳ bí của người Tây Tạng, từ con số phòng 999 được trang hoàng bằng 1 triệu lượng vàng ròng, cho tới những bí mật bên trong của mỗi căn phòng, được thiết lập sâu trong lòng đất núi. Ngôi đền cũng đánh dấu mối tình lịch sử giữa quốc vương Tùng Chất của Tây Tạng và công chúa Văn Thánh, con vua Ðường Thái Tôn vì nước ngàn dặm ra đi, làm ta chạnh nhớ tới Huyền Trân Công Chúa của Ðại Việt, cũng vì nước mà hy sinh, ngàn năm sử xanh bia miệng còn lưu dấu.

-- Tu Viện Tashilunpo Huyền Bí: Ðây là nơi trú ngụ của vi Ban Thềm Lạt Ma (Panchen Latma), vị lãnh đạo tinh thần của Tây Tạng đứng vào hàng thứ hai sau Ðạt Lai Lạt Ma. Ðó cũng là một bảo tàng viện nghệ thuật của Phật Giáo Mật Tông Tây Tạng với tượng Phật bằng đồng lớn nhất thế giới. Tu viện tọa lạc tại thành phố Xigaze nguyên là cố đô nay đứng thứ nhì sau thủ phủ Lhasa. Ðược xây dựng từ năm 1447, trải qua nhiều thế kỷ phát triển, hiện tu viện chiếm một diện tích 18,5 ha với 3600 phòng và 50 giảng đường được chạm khắc tinh vi tuyệt đẹp. Trước khi Trung Cộng chiếm Tây Tạng, đây là nơi hoằng dương Phật Pháp của hơn 3600 vị Lạt Ma nhưng nay chỉ còn không hơn 700 người, phần lớn được đảng chọn và đưa từ lục địa Trung Hoa lên đây tu học để thay dần các vị Lạt Ma Tây Tạng. Phật sống Chiazha Quamba Chili được Tàu đỏ dựng lên trú ngụ tại đây từ lúc 7 tuổi.

Tu viện là một mê cung đầy bóng tối từ phòng ốc, hành lang cho tới các sân lộ thiên. Ánh sáng mặt trời chỉ rọi chiếu tu viện vào lúc bình minh và buổi xế chiều sau khi vượt thoát khỏi ngọn núi đồ sộ Thượng Tích nằm phía sau lưng. Có nhiều tượng Phật được trang trí khắp các nguyện đường. Hằng năm vào tháng 6, trên một bức tường gạch hình chữ nhật 32 x 42 m, nằm về phía đông bắc tu viện. Ðể đón chào khách hành hương từ muôn phương về, các vị Lạt Ma đã căng trên bức tường đó, mỗi ngày một bức tranh lụa khổng lồ, vẽ hình Ðức Phật qua ba trạng thái: quá khứ, hiện tại và vị lai. Trong lúc đó căn phòng sơn màu đỏ thẳm ở phía tây bắc lại là nơi trưng bày Tượng Ðồng Ðức Phật Quan Thế Âm Bồ Tát lớn nhất thế giới. Tượng được trang hoàng bằng vàng ngọc, mã não, san hô quý báu, do công sức của 110 người thợ làm việc ròng rã suốt 4 năm liên tục mới hoàn thành. Khắp phòng còn treo la liệt những bức tranh vẽ hình Ðức Thế Tôn và Ðạt Lai Lạt Ma I là Zongkaba (1358-1419), người đã sáng lập ra Hoàng Phái Tây Tạng.

-- Nữ Thiền Viện Phật Giáo Tây Tạng Trên Ðỉnh Hy Mã Lạp Sơn: Ðó là tu viện Chubchizhal nằm chót vót trên một đỉnh núi cao, hiện có hơn 500 nữ tu sống một cuộc đời kham khổ về vật chât nhưng tâm hồn thì vô ưu thanh thản. Có điều kỳ lạ là xưa nay chẳng ai nhắc tới họ, kể cả sách vở hướng dẫn du lịch, luôn cả khách vãng lai tới thăm viếng tu viện.

Có thể vì mọi người nhầm lẫn họ với các nam tu sĩ vì cả hai giới đều ăn mặc giống nhau với sắc phục áo cà sa màu đỏ tía, đầu cạo trọc đội mũ ni bằng len màu da cam, lưng đeo chiếc túi vải màu hoàng yến. Tu viện ở kế cận ngôi làng nhỏ tên Karaha, được xây dựng bằng đất khô trên núi Hy Mã, nằm trên cao độ 3800m trong khu rừng về phía tây Ấn Ðộ, được mệnh danh là Tiểu Tây Tạng (Ladakh Zanskar). Ðường từ thủ phủ Lhasa tới đây gian nan khốn khó, vì lên đèo xuống dốc và bị tắc nghẽn trong 8 tháng mùa đông và những khối băng tuyết ở đâu đó lăn ra giữa đường. Cuối cùng là chiếc cầu ván bắc ngang con sông Zankars đầy ghềnh thác và dòng nước xám sịt sâu thẳm rợn người. Phía bên kia là ngôi làng Karsha cách tu viện nửa giờ đi bộ.

Vào tu viện khách có cảm tưởng như đang lạc vào chốn mê cung được khoét sâu trong lòng núi với những cái cửa thấp và hẹp của hơn 20 cái lều bằng đất, mỗi cái có hai tầng: phía trên là phòng ngủ, còn tầng duới là nhà bếp, nhà vệ sinh tối om. Chính giữa tu viện là một cái sân lộ thiên dùng phơi củi, cỏ khô và các loại phân bò, dê… dùng làm chất đốt duy nhất trong mùa đông. Ðại Lạt Ma Lobzang Khedun, trụ trì tại một tu viện nổi tiếng của Tây Tạng ở phía tây Ấn Ðộ, có tới dây thuyết giảng kinh kệ. Tu viện độc lập về tài chánh cũng như không trực thuộc một hệ thống nào của giáo hội. Nghèo khổ, thất học nhưng tâm hồn của các vị nữ tu Tây Tạng thì hĩ xả vô bờ bến. Chính họ đã đem lại sự sống còn cho rừng núi Hy Mã Lạp Sơn, ngày ngày tận tình giúp đỡ cho nhân thế … thực thi đúng lòng nhân ái vô bờ của Ðức Phật.
còn tiếp

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét