Chủ nghĩa tân tự do (Neo-Liberalism)
Tác giả: Trương Minh Huy Vũ - Chủ nghĩa tân tự do (neo-liberalism), còn được biết đến với tên gọi “chủ nghĩa tự do thể chế” (institutional liberalism), là một dòng nghiên cứu quan trọng trong các lý thuyết quan hệ quốc tế. Chủ nghĩa tân tự do ra đời trong những năm 1980, khi hợp tác giữa các quốc gia trở thành xu thế chủ đạo của chính trị quốc tế. 
Khác với trường phái tự do cổ điển tập trung vào câu hỏi chiến tranh hay hòa bình, chủ đề chính của chủ nghĩa tân tự do là các thể chế, định chế, quy tắc, luật pháp quốc tế và sự tương tác của các yếu tố này với lựa chọn chính sách của mỗi nhà nước.
Cùng chia sẻ giả định về một thế giới “vô chính phủ”, tức là không có một quyền lực vượt trội nào đóng vai trò “siêu nhà nước” để điều phối, tổ chức và chế tài quan hệ giữa các quốc gia, chủ nghĩa tân tự do đặt ra câu hỏi: tại sao các quốc gia lại đồng ý tổ chức và tham gia vào các thể chế quốc tế? Chúng ta biết rằng, việc gia nhập một tổ chức đồng nghĩa nhà nước phần nào phải chấp nhận từ bỏ một phần chủ quyền quốc gia và giới hạn khuôn khổ hành động của mình. Tại sao các nước lại đồng ý giao nạp chủ quyền của mình – khi không có một sức mạnh nào ép buộc – để theo đuổi con đường hợp tác quốc tế?
Để trả lời câu hỏi trên, các tác giả theo trường phái tân tự do đưa ra nhiều lập luận. Một trong những điểm quan trọng nhất là các chính phủ phải trả một cái giá cao hơn rất nhiều nếu không tham gia, hoặc quyết định tham gia trễ hơn vào hợp tác quốc tế, đặc biệt là trong khuôn khổ các thể chế quốc tế.
Cơ sở lý thuyết cho lập luận này được mô phỏng qua lý thuyết trò chơi, với ví dụ điển hình là trò chơi “thế lưỡng nan của tù nhân”. Bài học từ trò chơi này cho thấy, cũng như những người tù trong trò chơi, các quốc gia cũng thường lâm vào các huống lưỡng nan trong quan hệ quốc tế liên quan đến vấn đề có nên tham gia hợp tác với các quốc gia khác hay không.
Vai trò của quốc gia bá quyền
Bá quyền là một thuật ngữ quan trọng trong chủ nghĩa tân tự do. Bá quyền là quốc gia mạnh nhất trong hệ thống. Thuyết ổn định nhờ bá quyền cho rằng quốc gia bá quyền giúp ổn định hệ thống quốc tế và thúc đẩy hợp tác giữa các quốc gia bằng cách chấp nhận chi trả cho các “hàng hóa công”, vốn là nền tảng giúp thúc đẩy hợp tác quốc tế nhưng tốn kém và ít quốc gia nào muốn chi trả phí tổn.
Theo đó, nếu các quốc gia tự giải quyết vấn đề một cách đơn phương có thể giữ lại chủ quyền tuyệt đối, nhưng hiệu quả công việc sẽ thấp hơn hoặc phí tổn bỏ ra cũng sẽ cao hơn rất nhiều trong trường hợp chấp nhận cùng các quốc gia khác thực hiện hợp tác. Ngược lại, nếu chấp nhận giới hạn phần nào chủ quyền hành động, các quốc gia có thể thúc đẩy hiệu năng công việc và giảm phí tổn gánh chịu một mình trong việc giải quyết vấn đề.
Vai trò của quốc gia bá quyền
Bá quyền là một thuật ngữ quan trọng trong chủ nghĩa tân tự do. Bá quyền là quốc gia mạnh nhất trong hệ thống. Thuyết ổn định nhờ bá quyền cho rằng quốc gia bá quyền giúp ổn định hệ thống quốc tế và thúc đẩy hợp tác giữa các quốc gia bằng cách chấp nhận chi trả cho các “hàng hóa công”, vốn là nền tảng giúp thúc đẩy hợp tác quốc tế nhưng tốn kém và ít quốc gia nào muốn chi trả phí tổn.
Theo đó, nếu các quốc gia tự giải quyết vấn đề một cách đơn phương có thể giữ lại chủ quyền tuyệt đối, nhưng hiệu quả công việc sẽ thấp hơn hoặc phí tổn bỏ ra cũng sẽ cao hơn rất nhiều trong trường hợp chấp nhận cùng các quốc gia khác thực hiện hợp tác. Ngược lại, nếu chấp nhận giới hạn phần nào chủ quyền hành động, các quốc gia có thể thúc đẩy hiệu năng công việc và giảm phí tổn gánh chịu một mình trong việc giải quyết vấn đề.
Chính vì vậy để theo đuổi hợp tác quốc tế, các quốc gia cần chú trọng đạt được lợi phần tuyệt đối thay vì lợi phần tương đối như các nhà hiện thực đề nghị. Tuy nhiên vấn đề đặt ra là làm sao có thể biết được rằng các quốc gia khác cũng sẽ hành động tương tự và tham gia hợp tác. Theo các nhà tân tự do, vấn đề này có thể được khắc phục thông qua việc hình thành các thể chế (institutions) và định chế (regimes) nhằm thúc đẩy hợp tác quốc tế.
Thể chế hay các định chế đa phương – theo lập luận của một trong những tác giả đại diện chủ nghĩa tân tự do là Robert Keohane – có thể cung cấp thông tin cho các bên tham gia hợp tác, góp phần giảm tình trạng “thông tin bất đối xứng”, qua đó giúp các bên phần nào hiểu rõ nhau hơn và có thể xây dựng các kỳ vọng về hành vi của nhau. Mặt khác, các thể chế quốc tế cũng giúp giảm chi phí giao dịch trong quá trình giải quyết các vấn đề chung. Cuối cùng, các thể chế cũng giúp tạo ra một khuôn khổ mang tính pháp lý để điểu chỉnh hành vi của mỗi chủ thể tham gia trong chính trị quốc tế.
Thể chế hay các định chế đa phương – theo lập luận của một trong những tác giả đại diện chủ nghĩa tân tự do là Robert Keohane – có thể cung cấp thông tin cho các bên tham gia hợp tác, góp phần giảm tình trạng “thông tin bất đối xứng”, qua đó giúp các bên phần nào hiểu rõ nhau hơn và có thể xây dựng các kỳ vọng về hành vi của nhau. Mặt khác, các thể chế quốc tế cũng giúp giảm chi phí giao dịch trong quá trình giải quyết các vấn đề chung. Cuối cùng, các thể chế cũng giúp tạo ra một khuôn khổ mang tính pháp lý để điểu chỉnh hành vi của mỗi chủ thể tham gia trong chính trị quốc tế.
Cần nhắc lại rằng, một trong những giả định quan trọng nhất của lý thuyết quan hệ quốc tế là nền chính trị thế giới không tồn tại một quyền lực siêu quốc gia với vai trò tương tự như nhà nước trong nền chính trị đối nội của các quốc gia. Chính vì vậy, việc hình thành, theo đuổi và giải quyết công việc thông qua các thể chế hay luật quốc pháp tế là một cách tiếp cận giúp tiến tới mô hình quản trị toàn cầu. Việc hình thành các thể chế quốc tế cũng thể hiện mong muốn của cộng đồng thế giới trong việc tạo ra một khung ứng xử cho các mối quan hệ quốc tế, với nền tảng là pháp luật quốc tế và các chuẩn tắc thay vì sức mạnh hay vũ lực.
Chủ nghĩa tân tự do và những lập luận dựa trên dòng tư tưởng này là đối tượng phê bình và phản biện của nhiều học thuyết quan hệ quốc tế khác từ những năm 1980 đến nay. Đáng kể nhất là cuộc tranh luận giữa chủ nghĩa tân tự do và chủ nghĩa tân hiện thực được biết đến với tên gọi “Neo-Neo-Debate”. Hai học thuyết này bất đồng với nhau trên nhiều khía cạnh, từ tác động của tình trạng vô chính phủ, hiệu năng của các thể chế quốc tế trong việc giải quyết các vấn đề, đến các ưu tiên và mục tiêu theo đuổi (lợi phần tuyệt đối và tương đối) của các quốc gia.
Nguồn: Đào Minh Hồng – Lê Hồng Hiệp (chủ biên), Sổ tay Thuật ngữ Quan hệ Quốc tế, (TPHCM: Khoa QHQT – Đại học KHXH&NV TPHCM, 2013).
-------------
Chủ nghĩa tân tự do và những lập luận dựa trên dòng tư tưởng này là đối tượng phê bình và phản biện của nhiều học thuyết quan hệ quốc tế khác từ những năm 1980 đến nay. Đáng kể nhất là cuộc tranh luận giữa chủ nghĩa tân tự do và chủ nghĩa tân hiện thực được biết đến với tên gọi “Neo-Neo-Debate”. Hai học thuyết này bất đồng với nhau trên nhiều khía cạnh, từ tác động của tình trạng vô chính phủ, hiệu năng của các thể chế quốc tế trong việc giải quyết các vấn đề, đến các ưu tiên và mục tiêu theo đuổi (lợi phần tuyệt đối và tương đối) của các quốc gia.
Nguồn: Đào Minh Hồng – Lê Hồng Hiệp (chủ biên), Sổ tay Thuật ngữ Quan hệ Quốc tế, (TPHCM: Khoa QHQT – Đại học KHXH&NV TPHCM, 2013).
-------------
Chủ nghĩa tân tự do thực chất là gì?
Tìm hiểu về chủ nghĩa tân tự do? Ý nghĩa, lịch sử và các trường phái của chủ nghĩa tân tự do?
Tìm hiểu về chủ nghĩa tân tự do? Ý nghĩa, lịch sử và các trường phái của chủ nghĩa tân tự do?
Tác giả: Kean Birch, phó giáo sư, Đại học York, Canada
Tôi đấu tranh với chủ nghĩa tân tự do – như một hệ thống kinh tế có vấn đề mà chúng ta muốn thay đổi – và như một thuật ngữ phân tích mà mọi người ngày càng sử dụng để mô tả hệ thống đó.
Tôi đã đọc và viết về khái niệm này trong hơn một thập kỷ. Nhưng càng đọc, tôi càng nghĩ rằng chủ nghĩa tân tự do đang mất đi lợi thế của nó.
Do sự phổ biến ngày càng tăng của nó trong giới học thuật, phương tiện truyền thông và các cuộc thảo luận phổ biến, điều quan trọng là phải hiểu chủ nghĩa tân tự do như một khái niệm.
Chúng ta cần biết nguồn gốc và định nghĩa của nó để hiểu được tình trạng hỗn loạn chính trị và kinh tế hiện tại của chúng ta, bao gồm cả sự trỗi dậy của ‘chủ nghĩa bản địa’ đóng vai trò trong Brexit và cuộc bầu cử của Donald Trump năm 2016.
Chủ nghĩa tân tự do thường được sử dụng trong các cuộc tranh luận phổ biến trên toàn thế giới trong 40 năm qua. Nó được sử dụng để chỉ một hệ thống kinh tế trong đó thị trường ‘tự do’ được mở rộng đến mọi khía cạnh của thế giới và cá nhân. Sự chuyển đổi của nhà nước từ nhà cung cấp phúc lợi công cộng trở thành nhà thúc đẩy thị trường và cạnh tranh giúp tạo điều kiện cho sự thay đổi này.
Chủ nghĩa tân tự do thường gắn liền với các chính sách như cắt giảm thuế quan và rào cản thương mại. Ảnh hưởng của nó đã tự do hóa dòng vốn quốc tế và hạn chế quyền lực của các công đoàn. Nó đã phá vỡ các doanh nghiệp nhà nước, bán tháo tài sản công và nói chung là mở ra cuộc sống của chúng ta cho sự thống trị của tư duy thị trường (thị trường tự do, biên tập).
Với tư cách là một thuật ngữ, chủ nghĩa tân tự do ngày càng được sử dụng trên các phương tiện truyền thông đại chúng, bao gồm The New York Times, The Times (của London) và The Daily Mail.
Nó cũng được sử dụng trong các tổ chức quốc tế như Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF), Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) và Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF).
Chủ nghĩa tân tự do có phải là liều thuốc giải cho Trump?
Chủ nghĩa tân tự do bị chỉ trích vì trao cho thị trường quá nhiều quyền lực đối với cuộc sống của chúng ta. Tuy nhiên, trước sự trỗi dậy của Donald Trump và những người theo chủ nghĩa dân túy bản địa chống thương mại khác, ngày càng có nhiều người ca ngợi những đức tính của chủ nghĩa tân tự do.
Điều rõ ràng nhất từ cuộc tranh luận ngày càng phổ biến này về chủ nghĩa tân tự do – dù là từ những nhà phê bình thiên tả hay những người ủng hộ cánh hữu – là có nhiều quan điểm khác nhau về chủ nghĩa tân tự do; không chỉ ý nghĩa về mặt chính trị mà còn quan trọng không kém, ý nghĩa về mặt phân tích.
Điều này đặt ra một câu hỏi quan trọng: Làm thế nào chúng ta sử dụng thuật ngữ như “chủ nghĩa tân tự do” khi rất nhiều người có hiểu biết khác nhau về ý nghĩa của nó?
Tôi đã vật lộn với câu hỏi này khi viết cuốn sách của mình, ‘A Research Agenda for Neoliberalism’, trong đó tôi xem xét lịch sử trí tuệ của chủ nghĩa tân tự do. Tôi làm như vậy để xem xét các quan niệm khác nhau về thuật ngữ này và vạch trần những mâu thuẫn cơ bản trong cách sử dụng hàng ngày của chúng ta.
Thuật ngữ “chủ nghĩa tân tự do” có một lịch sử trí thức hấp dẫn. Nó xuất hiện từ rất lâu vào năm 1884 trong một bài viết của RA Armstrong cho tờ The Modern Review, trong đó ông định nghĩa những người theo chủ nghĩa tự do thúc đẩy sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế là “chủ nghĩa tân tự do” – gần như hoàn toàn trái ngược với nghĩa phổ biến và học thuật của nó ngày nay.
Một lần xuất hiện sớm khác là trong một bài báo năm 1898 của Charles Gide đăng trên The Economic Journal, trong đó ông sử dụng thuật ngữ này để ám chỉ một nhà kinh tế học người Ý, Maffeo Pantaleoni, người lập luận rằng chúng ta cần thúc đẩy một “thế giới hưởng thụ … trong đó cạnh tranh tự do sẽ thống trị tuyệt đối” – gần hơn với quan niệm hiện tại của chúng ta.
Được chấp nhận bởi những nhà tư tưởng tự do
Khi thế kỷ 20 bắt đầu và thế giới trải qua Thế chiến thứ nhất và Thế chiến thứ hai, thuật ngữ này đã được nhiều nhà tư tưởng tự do sử dụng, vì họ cảm thấy bị gạt ra ngoài lề bởi sự trỗi dậy của chủ nghĩa xã hội và kế hoạch hóa nhà nước.
Câu chuyện thông thường là “chủ nghĩa tân tự do” lần đầu tiên được đề xuất như một thuật ngữ để mô tả chủ nghĩa tự do được khởi động lại vào những năm 1930 sau Hội thảo Walter Lippman được tổ chức tại Paris năm 1938.
Tuy nhiên, lịch sử của nó không rõ ràng như câu chuyện này ngụ ý. Ví dụ, theo Arnaud Brennetot, thuật ngữ này sau đó chủ yếu được sử dụng để chỉ người Pháp và những người theo chủ nghĩa tự do khác có liên quan đến một nhà xuất bản có tên là La Libraire de Medicis ít nhất là cho đến đầu những năm 1950.
Vào thời điểm đó, thuật ngữ này ngày càng được sử dụng để chỉ Chủ nghĩa tự do trật tự của Đức, một trường phái ‘tân tự do’ dựa trên ý tưởng rằng thị trường cần một nhà nước mạnh để bảo vệ sự cạnh tranh – những ý tưởng là tiền thân chính của các điều kiện khuôn khổ của Liên minh Châu Âu.
Milton Friedman thậm chí còn tự gọi mình là một “người theo chủ nghĩa tân tự do” trong một bài viết năm 1951 cho tạp chí Farmand của Na Uy, mặc dù sau đó ông đã bỏ thuật ngữ này.
Đến những năm 1970, Brennetot và những người khác lập luận rằng, chủ nghĩa tân tự do là thuật ngữ chủ yếu liên quan đến sự thay đổi trọng tâm ở Mỹ Latinh từ chính sách thay thế nhập khẩu sang nền kinh tế mở, chịu ảnh hưởng của các nhà tư tưởng Trường phái Chicago như Friedman.
Vào khoảng thời gian này, chủ nghĩa tân tự do ngày càng mang nhiều hàm ý tiêu cực, đặc biệt là sau cuộc lật đổ bạo lực chính phủ của Salvador Allende ở Chile năm 1973.
Khi những năm 1980 bắt đầu, cùng với sự ra đời của kỷ nguyên tân tự do hiện đại được chấp nhận rộng rãi, thuật ngữ “chủ nghĩa tân tự do” đã gắn liền không thể tách rời với Trường kinh tế Chicago (cũng như luật và kinh doanh).
Chủ nghĩa tân tự do có một số ‘trường phái’
Khi sử dụng thuật ngữ này ngày nay, chúng ta thường dùng theo cách diễn đạt của ‘Trường phái’ Chicago, thay vì lịch sử và mối liên hệ trước đó và thay thế khác.
Nhưng điều quan trọng cần nhớ là đã có và đang có ít nhất 7 trường phái tân tự do. Một số trường phái cũ hơn, như Trường phái Chicago đầu tiên (của Frank Knight, Henry Simons, Jacob Viner), đã biến mất hoặc bị sáp nhập vào các trường phái sau này – trong trường hợp này là Trường phái Chicago thứ hai (của Milton Friedman, Aaron Director, George Stigler).
Các trường phái cũ khác, như Trường phái Ý hay Trường phái Bocconi (của Maffeo Pantaleoni, Luigi Einaudi) đã chìm vào học thuật trước khi được hồi sinh như sự hợp pháp hóa cho các chính sách thắt lưng buộc bụng hiện tại.
Các trường phái khác ít được biết đến hơn, như Trường phái Virginia (của James Buchanan, Gordon Tullock) – bản thân chịu ảnh hưởng của Trường phái Ý – đã tồn tại trong bóng tối cho đến khi có những lời chỉ trích gần đây của các nhà sử học như Nancy MacLean.
Vì những trường phái tư tưởng tân tự do này đã phát triển và biến đổi theo thời gian, nên hiểu biết của chúng ta về chúng và ảnh hưởng của chúng đối với chúng ta cũng vậy. Do đó, thật khó để xác định chủ nghĩa tân tự do với bất kỳ trường phái tư tưởng cụ thể nào mà không bỏ lỡ rất nhiều câu chuyện.
Ba mâu thuẫn
Đó là lý do chính, tại sao tôi xác định ba mâu thuẫn cốt lõi trong sự hiểu biết hiện tại của chúng ta về chủ nghĩa tân tự do trong cuốn sách mới của mình.
Đầu tiên, có quá ít phân tích được thực hiện để giải quyết mâu thuẫn giữa cái gọi là sự mở rộng của thị trường “tự do” theo chủ nghĩa tân tự do và sự gia tăng quyền lực thị trường cùng sự thống trị của các thực thể công ty và công ty độc quyền như Google và Microsoft.
Thứ hai, người ta quá nhấn mạnh vào ý tưởng rằng cuộc sống, bản sắc và chủ thể của chúng ta dưới chủ nghĩa tân tự do được định hình bởi niềm tin, thái độ và tư duy “doanh nhân”.
Ngược lại, quan điểm của tôi là cuộc sống, xã hội và nền kinh tế của chúng ta bị chi phối bởi nhiều hình thức chế độ cho thuê khác nhau – ví dụ như quyền sở hữu nhà, độc quyền sở hữu trí tuệ và kiểm soát thị trường.
Theo học giả người Anh Guy Standing, chế độ cho thuê có thể được định nghĩa là việc trích xuất thu nhập từ “quyền sở hữu, quyền sở hữu hoặc quyền kiểm soát tài sản khan hiếm hoặc bị khan hiếm một cách giả tạo”.
Cuối cùng, có rất ít sự quan tâm trong việc cố gắng hiểu vai trò quan trọng của hợp đồng và luật hợp đồng – trái ngược với “thị trường” – trong việc tổ chức chủ nghĩa tư bản tân tự do.
Tất cả những lĩnh vực này cần được giải quyết để hiểu rõ hơn về tương lai của chúng ta, nhưng chủ nghĩa tân tự do có lẽ đã đi đến hồi kết khi cung cấp cho chúng ta những công cụ phân tích cần thiết để thực hiện công việc này. Đã đến lúc tìm ra những cách mới để suy nghĩ về thế giới của chúng ta.
Hình minh họa: Donald Trump. Ảnh Slate
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét