ĐỜI SỐNG VĂN NGHỆ
THỜI ĐẦU ĐỔI MỚI
THỜI ĐẦU ĐỔI MỚI
Nguồn:
Tạp chí Văn học, Hà Nội, số 1 (tháng 1 & 2-1986)
THỬ NHÌN LẠI VĂN XUÔI MƯỜI NĂM QUA
LẠI NGUYÊN ÂN
Khoảng thời gian 10 năm không phải là ngắn đối với
những chuyển động xã hội, nhưng lại là khá ngắn đối với sự phát
triển văn học. Tuy thế, từ 1975 đến nay, trong vòng 10 năm, văn xuôi
nghệ thuật của chúng ta đã có những chuyển động đáng kể, vừa không
đứt đoạn với văn xuôi trước đó, vừa liên tục tìm tòi để phát triển,
cố gắng phản ánh và tìm câu trả lời trước rất nhiều vấn đề khác nhau
của đời sống. Dưới đây, để nêu thử một cái nhìn bao quát về cục diện
chung của văn xuôi 10 năm qua, chúng tôi sẽ dựa vào việc phân tích
loại hình một số nhóm thể tài văn xuôi trong sự vận động của
chúng.
1 - Văn xuôi chiến đấu
Trước hết xin nói đến văn xuôi chiến đấu, bao gồm
những tác phẩm viết về những cuộc kháng chiến từ sau khi nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập. Xét cả về đề tài và chủ đề,
dòng văn xuôi này chưa hề có tiền đề trong văn học trước 1945, và do
vậy sự hiện diện của nó trong văn học từ sau 1945 là một trong những
bằng chứng xác thực về tính chất mới mẻ, cách tân của văn
xuôi 40 năm qua so với truyền thống văn học trước đó. Từ sau 1945,
nói đúng hơn, từ khoảng 1947 - 1948 đến 1975, nhóm thể tài văn xuôi
chiến đấu đã phát triển mạnh mẽ và góp phần quyết định diện mạo văn
xuôi thời kỳ ấy. Sau Đại thắng mùa Xuân 1975, dòng văn xuôi này vẫn
liên tục phát triển, trong đó nổi bật lên những tác phẩm viết về sự
kiện rung chuyển vừa xảy ra: chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng.
Một
loạt tác phẩm ký như Mặt trận đông bắc Sài Gòn của Nam Hà,
Tháng ba ở Tây Nguyên của Nguyễn Khải, Bắc Hải Vân xuân 75
của Xuân Thiều, Trận đánh cuối cùng của Hữu Mai, Phía Tây
mặt trận của Hồ Phương, và sau đó một loạt tiểu thuyết như
Trong cơn gió lốc của Khuất Quang Thụy, Năm 1975 họ đã sống
như thế
của Nguyễn Trí Huân, Miền cháy của Nguyễn Minh Châu,
Bán đảo của Thái Bá Lợi v.v... đều châu tuần xung quanh các
phương diện khác nhau của sự kiện lớn nói trên.
Một điều dễ thấy là ở loạt những tác phẩm vừa dẫn đầu
thiên về ghi nhận sự kiện như các tác phẩm ký hay thiên về sự kết
hợp giữa ghi nhận sự kiện với việc đề xuất các vấn đề thông qua hư
cấu nghệ thuật như trong các tiểu thuyết thì các tác giả hầu như đều
viết trong cảm giác đang cùng thời với những điều mình miêu
tả. Do vậy cảm hứng ca ngợi và cổ vũ chiến công là nét nhất quán ở
tất cả các sáng tác này.
Cảm giác cùng thời nêu trên tất nhiên là nét
nhất quán ở tác giả của những tác phẩm mà những tập đầu được viết
ngay trong chiến tranh và lúc này đang ra tiếp những tập sau (Vùng
trời, Những tầm cao, Dòng sông phẳng lặng...) hoặc của những tác
phẩm tuy đến sau 1975 mới được viết hoặc ra mắt, nhưng đã được dự
kiến từ trước, miêu tả những phương diện và phạm vi khác nhau của
cuộc sống trong chiến tranh (Sao Mai của Dũng Hà, Biển gọi
của Hồ Phương, Nắng đồng bằng của Chu Lai, Lửa từ những
ngôi nhà
của Nguyễn Minh Châu, Mở rừng của Lê Lựu, Thung lũng thử
thách của Thái Bá Lợi, Cửa gió của Xuân Đức, Những
người báo bão của Vân Thảo v.v...). Cũng như một loạt tập truyện
ngắn của các cây bút như Nguyễn Chí Trung, Thao Trường, Nguyễn Đức
Mậu, Nguyễn Bảo, Trung Trung Đỉnh, Dương Duy Ngữ v.v...
Tất nhiên, dù sao thì những người viết về
thời chiến tranh dần dà cũng cảm thấy cái mà mình miêu tả đang trở
thành quá khứ, dù là một quá khứ gần. Ý thức về khoảng cách đã dẫn
tới những cách xử lý khác nhau.
Khá nhiều tác phẩm được viết theo hướng văn học tư
liệu. Những tập sách truyền thống của các đơn vị, các binh chủng,
binh đoàn, sư đoàn, các tập hồi ký của các tướng lĩnh và cán bộ quân
sự lâu năm đều có một hướng chung là cố gắng ghi lại những sự kiện
đã qua. Những trang tư liệu ấy, dù được viết không phải với ý định
làm văn học, vẫn có ý nghĩa nhất định đối với tiến tình văn học
chung. Cũng trong cố gắng ghi lại ấy, một số tác phẩm đã được xây
dựng theo hướng tiểu thuyết hóa các sự kiện thực, tuy vậy tính chất
tư liệu vẫn là nét đậm. Đất trắng (2 tập) của Nguyễn Trọng
Oánh,
Đất miền Đông và Trong vùng tam giác sắt của Nam Hà,
Sài Gòn 67 của Nguyễn Văn Bổng v.v... là thuộc trong số những
tiểu thuyết tư liệu ấy. Tất nhiên, có thể làm cho tác phẩm mang đầy
đủ chất văn học mà không nhất thiết phải xây dựng thành tiểu thuyết:
thành công của tập Ký sự miền đất lửa của Nguyễn Sinh và Vũ
Kỳ Lân là một chỉ dẫn đáng kể.
Trong loạt sách về các hoạt động bảo vệ an ninh, ta
cũng thấy ý đồ xây dựng những cuốn tiểu thuyết tư liệu: các tập
Cuộc chiến đấu bảo vệ Đồng Văn hoặc Fulro của Ngôn Vĩnh
là một trong số những ví dụ.
Nếu những trang văn học tư liệu nói trên, bổ sung cho
nhau, có thể cho biết kỹ lưỡng về những trang sử nhất định của cuộc
kháng chiến, thì bên cạnh đó, ta lại thấy một cố gắng khác, cũng là
kết quả của ý thức về khoảng cách ở người viết: đó là cố gắng dựng
lại những trang sử hiện đại bằng ngôn ngữ tiểu thuyết. Những bộ tiểu
thuyết như
Đất nước, Người cùng quê (đều vừa ra tập I) cho thấy là nó đang
tiếp tục phương hướng làm tiểu thuyết sử thi, phương hướng của những
tác phẩm ở thời gian trước (như Sống mãi với Thủ đô, Vỡ bờ, Cửa
biển...) và ở đây đề tài kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ đang
đi dần đến chỗ được sáp nhập vào đề tài lịch sử dân tộc nói chung, ở
đây, văn xuôi chiến đấu đang đi gần với dòng văn xuôi lịch sử.
Với việc xuất hiện tiểu thuyết Sao đổi ngôi
của Chu Văn gần đây, văn xuôi viết về kháng chiến lại bộc lộ thêm
một khả năng khác, cái khả năng đã được thực hiện ít nhiều trong
Người mẹ cầm súng
của Nguyễn Thi trước đây: khả năng kể về cuộc chiến tranh đã qua từ
góc độ ý thức dân gian, ý thức của đám đông lính thường và dân
thường đã trải qua những ngày kháng chiến. Có điều, nếu tác giả
Người mẹ cầm súng trước kia đã dùng lời kể chuyện dân gian
truyền thống để truyền kỳ hóa, cổ tích hóa câu chuyện về một người
anh hùng cùng thời mình, thì giờ đây, Chu Văn lại vận dụng cái nhìn
của dân gian đương thời mình để thế tục hóa một mảng thực tế chiến
tranh đang đi dần vào quá khứ. Ở đây, thủ pháp trao "quyền kể
chuyện" cho nhân vật (câu chuyện do nhân dân chính xưng "tôi và kể
lại) đã khiến cho tác phẩm vừa có cốt cách dân gian, vừa giữ được
những đường nét chính của tiểu thuyết hiện đại. Sao đổi ngôi
mang nhiều nét của tiểu thuyết sinh hoạt - phong tục, mặc dù đề tài
của nó là chuyện chiến tranh.
Những hướng phát triển nêu trên của văn xuôi chiến
đấu có thể là chưa bao quát đủ tình hình, tuy nhiên ta cũng đã thấy
sự đa dạng ngay trong cùng một nhóm loại hình của thể tài.
2 - Văn xuôi sản xuất
Một nhóm thể tài chiếm khối lượng tác phẩm không kém
so với văn xuôi chiến đấu, đó là văn xuôi sản xuất. Từ khởi
nguồn, bộ phận văn xuôi này cũng chưa hề có tiền đề trong văn học
trước 1945 và sự có mặt của nó trong văn học 40 năm qua cũng là một
trong những chứng cứ về sự cách tân của nền văn học mới. Con trâu
và Vùng mỏ
xuất hiện từ những năm 50 có thể là những tác phẩm sớm nhất của nhóm
loại hình này trong văn xuôi. Đến những năm 60, với cao trào hợp tác
hóa nông nghiệp, với việc xuất hiện các khu công nghiệp tập trung
với việc tổ chức đều đặn các đoàn và các đợt nhà văn đi và viết về
những mũi nhọn, những điểm nóng, những nơi tiên tiến, dần dần đã
thấy xuất hiện cả một loạt những tác phẩm ký, truyện ngắn và truyện
dài mà nội dung chính là miêu tả những phương diện khác nhau của
hoạt động sản xuất, hoạt động xây dựng kinh tế. Ta biết rằng trong
văn xuôi trước 1945, dù viết về nông dân nông thôn hay dân nghèo
thành thị, thì ở sáng tác của các nhà văn khi ấy cũng thường chỉ có
bình diện phong tục - sinh hoạt hoặc xã hội - phong tục. Trong chế
độ mới, sản xuất, cũng như chiến đấu, đã được coi như một nhiệm vụ
cách mạng, và như vậy, sản xuất không chỉ là một hiện thực thông
thường mà còn được nhà văn quan niệm như một hiện thực cách mạng, ở
đó đang diễn ra sôi động những hoạt động cải tạo xã hội, xây dựng
mới cả cuộc sống lẫn con người. Ở những tác phẩm viết về sản xuất,
nhà văn không chỉ ghi nhận những cuộc vận động, những phong trào
trong sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, xây dựng, giao thông v.v...
mà còn bày tỏ thái độ của mình, ủng hộ các chủ trương, các phong
trào mới trong sản xuất, ca ngợi những tấm gương lao động dũng cảm,
ca ngợi những người đi đầu trong các phong trào đang được phát động
và thực hiện. Từ Cái sân gạch, Vụ lúa chiêm, Đồng tháng
Năm, Đất làng, Ao làng, Bão biển, Chủ tịch huyện... từ các tập
truyện ngắn của Vũ Thị Thường, Nguyễn Địch Dũng, Chu Văn... viết về
hợp tác hóa nông nghiệp, từ Suối gang, Những người thợ mỏ, Xi
măng, Tiếng gió, Trước lửa, Sao băng, Thung lũng Cô Tan, Bạch đàn,
Đường giáp mặt trận... viết về công nghiệp, xây dựng, giao thông
vận tải v.v... có thể nói cả một loạt truyện sản xuất, tiểu
thuyết sản xuất đã in thành một vệt rất đậm trong văn xuôi của
ta. Phối hợp lại, mạch văn xuôi này đã ghi nhận, phản ánh khá cụ thể
và sinh động các mặt khác nhau, các giai đoạn và thời kỳ khác nhau
của hiện thực đấu tranh xây dựng cuộc sống mới, xây dựng chủ nghĩa
xã hội trên hậu phương lớn của cuộc kháng chiến, tính đến trước
tháng 4-1975.
Thật ra, không có ranh giới nào rõ rệt giữa
văn xuôi sản xuất trước và sau thời điểm kể trên. Có điều là từ khi
cả nước thống nhất và nhiệm vụ xây dựng lại đất nước, xây dựng chủ
nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước trở thành nhiệm vụ chính trị
thường trực và trung tâm thì điều kiện cho văn xuôi sản xuất phát
triển lại càng thuận lợi. Kế hoạch đề tài của các nhà xuất bản, sự
phân phối lực lượng viết văn theo đề tài địa phương và đề tài ngành
nghề -- là những nhân tố hỗ trợ đắc lực cho sự phát triển của nó.
Có một điều rất đáng lưu ý là nếu ở văn xuôi sản xuất
đầu những năm 60, vị trí hàng đầu thường thuộc về thể truyện --
truyện ngắn, truyện vừa và nhất là tiểu thuyết. Ngay ở những đề tài,
những mảng thực tế còn nóng hổi tính thời sự, tiểu thuyết cũng đã
xông vào, và ở đây, nó làm thay cả chức năng của ký sự, phóng sự, nó
kiêm nghiệm cả chức năng của chính luận.
Những tập truyện ngắn và tiểu thuyết sản xuất in ra
vào các năm đầu sau tháng 4-1975 hãy còn hướng tới hoạt động sản
xuất trong thời chiến: Nơi anh sẽ đến của Huy Phương,
Những ngày đã qua
của Nguyên Bình, Tiếng gió của Lê Minh, Thung lũng
Cô Tan của Lê Phương, Những người chinh phục của Nguyễn
Quang Thân, Đường giáp mặt trận và Chỗ đứng người kỹ sư
của Nguyễn Khắc Phê, các tập truyện ngắn của Nhật Tuấn, Lý Biên
Cương, Tô Ngọc Hiến v.v... Cốt truyện cấu tạo theo lối tường trình
lai lịch một sáng kiến, tường trình việc thực hiện một nhiệm vụ sản
xuất, tường trình một gương người tốt việc tốt v.v...vẫn là nét
chung của các sáng tác này.
Tuy nhiên, do chỗ hoạt động xây dựng kinh tế từ đây
trở thành một nhiệm vụ xã hội to lớn, cho nên nó cũng là một trong
những đối tượng quan sát và miêu tả rất chăm chú của nhà văn. Và
thông qua các trang văn xuôi sản xuất, ta cũng có thể thấy được các
bước dò tìm trong các lĩnh vực kinh tế xã hội.
Việc thực hiện chủ
trương đưa cơ giới vào đồng ruộng đã sớm được nói đến trong tiểu
thuyết Buổi sáng của Ngọc Tú. Cũng Ngọc Tú đã dành cho vấn đề
chọn giống một tiểu thuyết khác: Hạt mùa sau. Những đợt vận
động cải tạo công thương tư bản tư doanh ở phía Nam cũng sớm in bóng
vào các tiểu thuyết như Những khoảng cách còn
lại của Nguyễn Mạnh Tuấn, Bông mai mùa lạnh của Lê
Phương... Đặc biệt, từ cuối những năm 70 đầu những năm 80, phong
trào khoán sản phẩm trong các hợp tác xã nông nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp và sau đó lan sang các xí nghiệp quốc doanh đã kéo theo một
vệt sáng tác văn xuôi, từ các vở kịch Đất nghịch, Mùa hè ở Biển,
Tôi và chúng ta, đến các tiểu thuyết Nhìn dưới mặt trời,
Đứng trước biển, Tan mây, Bí thư cấp huyện... Chúng ta nhớ rằng
phong trào khoán sản phẩm đã xuất hiện như một phong trào quần
chúng, bắt đầu từ các cơ sở, sau đó được nghiên cứu, kết luận khẳng
định trong các nghị quyết của Đảng, được thể chế hóa trong các văn
bản nhà nước. Phong trào khoán sản phẩm cũng như phong trào xóa bỏ
cơ chế quản lý kinh tế quan liêu bao cấp đều mang tính chất quần
chúng khá rộng rãi, được phản ánh hàng ngày trên báo chí, dư luận.
Văn xuôi đã tham gia vào phong trào này vừa như một sự hưởng ứng, cổ
vũ, ủng hộ, vừa như một sự gợi ý, đề xuất. Chính vì vậy, đến lượt
mình, các tác phẩm văn xuôi đó lại giành được sự đón nhận nồng nhiệt
của công chúng. Về mặt này, trường hợp Đứng trước biển và
Cù lao Tràm của Nguyễn Mạnh Tuấn khá tiêu biểu. Ở đây, có thể
nói, văn xuôi và văn học nói chung đã chứng tỏ là nó có thể đóng vai
trò như một lực lượng xã hội quan trọng, tham gia trực diện vào công
cuộc tổ chức sản xuất và quản lý xã hội. Chính sự tham gia trực
diện, sự "nhập cuộc" của nhà văn vào từng lĩnh vực sản xuất và kinh
tế xã hội này là một nét đặc sắc của văn học chúng ta, nó cho thấy
tính tích cực xã hội của nhà văn và của sáng tác văn học, tính tích
cực xã hội của chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa. Đi vào các lĩnh
vực sản xuất có áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, vào lĩnh vực
của các kỹ sư và kỹ thuật viên - một lĩnh vực thường là khó khăn và
mới mẻ đối với nhà văn -- các tác giả những tiểu thuyết như Hòn
đảo một mình (Lê Minh), Lựa chọn (Nguyễn Quang Thân),
Mưa mùa hạ (Ma Văn Kháng), những truyện ngắn của Nhật Tuấn, Tô
Hải Vân v.v... đã dám mạnh dạn đứng về phía một trong hai hoặc nhiều
phương án sản xuất ngay giữa tình trạng còn nhiều điều tranh cãi,
bênh vực và bảo vệ nó, và như vậy đã dám chấp nhận tình trạng số
phận tác phẩm phụ thuộc khá nhiều vào tương lai thực tế của phương
án đó. Những điều như vậy - sự gắn bó giữa "số phận" một phương án
sản xuất với số phận tác phẩm văn học - là những điều chưa từng thấy
ở nền văn học cũ trước cách mạng.
Theo dõi thành phần
xã hội của các nhân vật trung tâm trong văn xuôi sản xuất từ những
năm 60 sang những năm 70-80, ta cũng thấy những chuyển đổi có ý
nghĩa. Nếu khi trước, nhân vật trung tâm thường là một nông dân xã
viên, một công nhân bình thường thì về sau nhân vật trung tâm lại
thường là những kỹ sư, cán bộ kỹ thuật, cán bộ lãnh đạo và quản lý
sản xuất. Có thể hiểu được là, chẳng hạn, để diễn đạt cái lý của
việc vào hợp tác xã, để đề cao một gương lao động tốt, để nêu những
bài học đạo đức của người lao động, không nhất thiết phải mượn tới
vai trò của những người có trọng trách trong hệ thống sản xuất, hệ
thống quản lý xã hội. Trong khi đó, để triển khai sự suy nghĩ có tầm
bao quát hơn về các vấn đề của sản xuất, và quản lý, lại cần đến
những cương vị như vậy, để tác giả có thể trao gửi lời lẽ và ý kiến
của mình cho nhân vật phát ngôn. Cái việc cần có "nhân vật phát
ngôn" về các vấn đề kinh tế xã hội - là nét khá chung ở nhiều cuốn
tiểu thuyết sản xuất hiện giờ, nó khiến cho thành phần chính luận
trong tác phẩm gia tăng hẳn lên. Chính sự chuyển đổi nói trên cho
thấy trong văn xuôi sản xuất, và văn xuôi nói chung, yêu cầu nhận
thức đang tăng lên, đang dần dần được đặt ra như một nhiệm vụ nghệ
thuật của sáng tác.
Con người trong văn xuôi sản xuất đương nhiên là con
người sản xuất, con người được khai thác chủ yếu ở bình diện tham
gia vào các hoạt động sản xuất, quản lý kinh tế, quản lý xã hội. Ba
Đức ở Đứng trước biển, Năm Trà ở Cù lao Tràm đều là
kiểu người quản lý, kiểu người tổ chức, nó khá gần với kiểu người
chính trị viên của văn xuôi chiến đấu, nó được miêu tả đậm nét ở
phẩm chất chiến sĩ, bởi vì sản xuất ở đây được quan niệm như một
nhiệm vụ cách mạng. Những nhân vật như Ba Đức, Năm Trà chính là kiểu
người anh hùng của hôm nay, kiểu người dám đương đầu với các tình
thế khó khăn, hỗn độn trong quản lý kinh tế và quản lý xã hội, dám
đấu tranh để chế ngự các tình thế đó, xác lập và làm chủ một trật tự
mới trong kinh tế và sinh hoạt xã hội.
Với sự phát triển mạnh mẽ của văn xuôi sản xuất, nền
văn học và văn xuôi của chúng ta đã tỏ rõ là nó đang thật sự lớn lên
rất nhiều về lập trường xã hội và bản lĩnh xã hội, về năng lực lên
tiếng trước các vấn đề kinh tế xã hội cấp bách, năng lực nhập cuộc
vào sự nghiệp xây dựng xã hội mới của toàn dân.
3 - Văn xuôi phong tục-lịch sử
Văn xuôi phong tục-lịch sử
là một trong những truyền thống mạnh của văn xuôi
trước 1945, nhất là ở các sáng tác của các nhà văn mà hiện giờ
thường được giới nghiên cứu gọi là các nhà hiện thực phê phán. Sau
1945, khá nhiều nhà văn - nhất là những người đã căn bản hình thành
ngòi bút sáng tác từ trước 1945 - tiếp tục sáng tác trong mảng văn
xuôi quen thuộc với họ. Cố nhiên, đặt trong khung cảnh chung của văn
học cách mạng, văn xuôi phong tục - lịch sử từ đây đã mang nhiều
biến đổi căn bản. Thay cho việc mô tả những bức tranh xã hội - phong
tục màu xám, thay cho việc vạch ra những quá trình tan rã, tàn héo,
giờ đây, dù viết về các thời kỳ trước, các tác phẩm cũng thường chú
ý đến quá trình biến đổi cách mạng của đời sống, đến việc tố cáo
chân tướng của thực dân, quan lại, địa chủ, đến việc tô đậm quá
trình giác ngộ của quần chúng nhân dân. Trên các đề tài về đời sống
đương thời, văn xuôi phong tục thường có sự kết hợp nhất định với
văn xuôi chiến đấu, văn xuôi sản xuất. Cho đến trước tháng 4-1975,
văn xuôi phong tục - lịch sử đã đạt được khá nhiều thành tựu lớn,
nhất là ở các sáng tác của Nguyễn Tuân, Nguyên Hồng, Tô Hoài, Nguyễn
Huy Tưởng, Kim Lân... Sau thời điểm kể trên, thật ra, không có biến
động gì thật rõ ở mảng văn xuôi này, ngoại trừ một tình hình đáng kể
là tuổi tác của thế hệ những người chuyên viết thể tài này.
Như đã nói ở trên, số nhà văn viết thạo thể tài này,
thường bắt đầu cầm bút từ trước 1945. Đến lúc này, hàng ngũ của họ
thưa vắng dần. Nhà văn Nguyên Hồng sau khi hoàn thành bộ tứ Cửa
biển (1960 - 1978), đã không kịp kết thúc tiểu thuyết lịch sử
Núi rừng Yên Thế
do cái chết khá đột ngột của ông.
Trong số những nhà văn ngoại "lục tuần" ấy, có lẽ chỉ
còn Tô Hoài là dẻo dai nhất. Những cuốn tiểu thuyết của ông ra mắt
gần đây như
Người ngõ phố, Người đường phố, Quê nhà, Họ Giàng ở Phìn Sa tiếp
tục bổ sung vào các nhóm tác phẩm phong tục lịch sử của nhà văn quần
tụ quanh hai trung tâm mô tả của ông: vùng nông thôn ven thành Hà
Nội và vùng núi Tây Bắc.
Ở các sáng tác thuộc thể tài phong tục - lịch sử của
những nhà văn ít tuổi hơn, ta thường thấy sự pha trộn giữa cốt
truyện phong tục - lịch sử với cốt truyện sản xuất, chiến đấu. Đó là
trường hợp của Chu Văn từ Bão biển trước đây sang Đất mặn
(1976), của Mạc Phi từ tập I sang tập II Rừng động. Đó cũng
là trường hợp của Nguyễn Hiểu Trường trong Chân dung một quản đốc.
Sự xuất hiện gần đây những tập Đồng bạc trắng hoa
xòe và
Miền biên ải của Ma Văn Kháng, Hoa hậu xứ Mường của
Phượng Vũ cho thấy cố gắng của lớp nhà văn trẻ hơn trên mảng thể tài
này. Và, như đã nói ở trên, ở mảng văn xuôi chiến đấu, với sự xuất
hiện của tập I những bộ tiểu thuyết hứa hẹn ra nhiều tập như
Người cùng quê của Phan Tứ, Đất nước của Hữu Mai, mảng
văn xuôi chiến đấu – nhất là mảng viết về những cuộc kháng chiến đã
qua – đang đi gần với văn xuôi lịch sử.
Nếu các tác phẩm của tác giả nêu trên thường có cả
bình diện miêu tả phong tục lẫn bình diện miêu tả lịch sử, và cuộc
sống được vẽ lại trong đó cũng chưa phải đã thuộc về một quá khứ
thật xa, thì các tác phẩm của tác giả sẽ nói sau đây hầu như chỉ có
bình diện lịch sử, nhằm vẽ lại những thời kỳ đã rất xa, khó có thể
phục hiện diện mạo sinh hoạt - phong tục, hầu như phải chấp nhận
cách miêu tả ước lệ.
Vào khoảng trước 1975 ít lâu, hai tập Bóng nước Hồ
Gươm của Chu Thiên được coi là một thành công đáng kể của tiểu
thuyết lịch sử. Các tiểu thuyết và truyện lịch sử của Hà Ân, Thái Vũ
cũng từng gây nên sự chú ý trong dự luận. Từ 1975 đề tài lịch sử
được chú ý có phần hơn trước kia. Nó lan từ truyện và tiểu thuyết
sang cả kịch nói, lan từ truyện viết cho người lớn sang truyện viết
cho trẻ em. Mặc dù đa dạng thêm về đề tài và thể tài, nhưng các tác
phẩm văn xuôi lịch sử thường rất thống nhất ở chỗ đều tập trung xung
quanh việc khẳng định truyền thống yêu nước chống ngoại xâm, xung
quanh việc tô đậm những trang sử chiến thắng hào hùng của dân tộc.
Nhìn chung lại, với sự phát triển của nhóm loại hình
các tác phẩm văn xuôi phong tục - lịch sử, chúng ta thấy một cố gắng
rõ rệt của văn xuôi: nhận thức lịch sử dân tộc từ xa xưa đến các
thời kỳ cận đại, hiện đại. Nó cho người đọc một cái nhìn của thời
chúng ta vào các thời kỳ khác nhau của quá khứ dân tộc. Và do vậy,
nó tiếp tục đóng góp vào quá trình tự ý thức dân tộc của con người
Việt Nam thời đại chúng ta. Nếu như các sáng tác đã ra mắt cho đến
nay thường tập trung vào việc miêu tả các phương diện của đấu tranh
dân tộc và chống xâm lược, thì từ nay về sau, bên cạnh chủ đề lớn
nói trên, chúng ta có thể nghĩ là văn xuôi lịch sử sẽ đề cập thêm
đến một phương diện khác nữa: cuộc đấu tranh xã hội trong nội bộ dân
tộc suốt quá trình dựng nước và giữ nước, và việc dõi cái nhìn văn
học vào quá khứ như vậy sẽ không phải thuần túy là "vị lịch sử".
Chính các quá trình đời sống hiện tại cũng rất cần đến sự hỗ trợ của
cái nhìn "hồi cố" đó.
Trong văn xuôi gần đây, cái nhìn "hồi cố" đang có cơ
trở nên phổ biến, cả trong mảng tâm lý xã hội lẫn trong mảng phong
tục - lịch sử. Một tập sách gồm "những chuyện nhỏ" (như cách tác giả
gọi tên) của nhà thơ Duy Khán nhan đề Tuổi thơ im lặng đã gây
được sự chú ý của rất nhiều người viết. Hóa ra, ngay khi tuổi thơ
mình lên tiếng thì ở văn xuôi hồi ức của nhà thơ cũng không phải chỉ
có yếu tố biểu cảm trữ tình. Những câu chuyện thực được kể lại ở đây
dường như là có thể bổ sung vào các trang văn xuôi trước đây của các
nhà văn Ngô Tất Tố, Nam Cao, miêu tả một nông thôn nghèo với những
người nông dân nghèo trước cách mạng. Chất thực trong miêu tả sinh
hoạt, phong tục ở đây dĩ nhiên là có ưu thế hơn, nhưng không che mờ
hẳn yếu tố xúc cảm chứa đựng trong mạch hồi ức. Tuổi thơ im lặng
là một cuốn sách độc đáo, nhưng nó cũng hé ra một hướng có thể phát
triển trong dòng văn xuôi phong tục - lịch sử, như là sự kết hợp
giữa văn xuôi tư liệu với văn xuôi trữ tình, thông qua cái "tôi" hồi
ức của nhà văn.
4 - Văn xuôi tâm lý xã hội
Một nhóm loại hình nữa, có sự phát triển đáng kể từ
1975 đến nay - là
văn xuôi tâm lý xã hội. Thật ra, loại hình văn xuôi này đã có
trong văn học nước nhà từ trước 1945, đã đạt đến độ phát triển khá
rực rỡ với sáng tác của các nhà văn như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công
Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Nguyên Hồng, Tô Hoài v.v... Sau Cách
mạng Tháng Tám, trong nền văn học mới, văn xuôi tâm lý xã hội đã có
những biến đổi nhất định, có sự kết hợp nhất định với văn xuôi chiến
đấu, văn xuôi sản xuất trong từng tác phẩm cụ thể. Nếu như văn xuôi
tâm lý xã hội khá phát triển hồi đầu những năm 60 thì từ cuối những
năm 60, nét chủ đạo của văn xuôi cũng như toàn bộ văn học đã thuộc
về văn xuôi anh hùng, văn xuôi chiến đấu. Đấy là một điều hợp lý của
tiến trình văn học đương thời, trong tương quan chặt chẽ với tiến
trình xã hội.
Tính chất chuyển giai đoạn của đời sống xã hội đất
nước từ sau 1975 đã tác động đến văn xuôi, cả về nội dung văn học
lẫn diện mạo thể tài văn học. Đời sống xã hội từ thời chiến chuyển
sang thời bình, sinh hoạt của con người xã hội thời bình với vô số
vấn đề của nó - đã tác động đến văn xuôi, được phản ánh vào văn xuôi
dẫn đến sự phát triển mạnh mẽ của cả văn xuôi sản xuất lẫn văn xuôi
tâm lý xã hội.
Có một hiện tượng đáng kể, ấy là việc không ít nhà
văn, từ những tác phẩm văn xuôi chiến đấu từng gây tiếng vang ở thời
gian trước, lúc này đã dần dà chuyển sang văn xuôi tâm lý xã hội. Là
nhà văn mang rõ cốt cách tâm lý thế sự, sau những cuốn truyện và ký
chiến đấu viết trong thời chiến, Nguyễn Khải đã trở lại với mặt mạnh
chủ yếu của mình bằng một loạt sáng tác - tiểu thuyết, truyện ngắn,
kịch - viết khá đều tay và may mắn, từ Cha và Con, và...
(1979) qua Khoảnh khắc đang sống, Gặp gỡ cuối năm đến Thời
gian của người
(1985). Văn xuôi Nguyễn Khải đã tự vượt lên so với chính mình và so
với đồng nghiệp xung quanh, trở nên già dặn, sâu sắc hơn hẳn. Những
câu chuyện cuộc đời ở đây đang như muốn mang tải ngày càng nhiều
những sự tổng kết về cách sống, về triết lý sống. Trí thức và xã
hội, trí thức và chính trị, quá khứ đẹp đẽ hôm qua và cách sống hôm
nay - là những vấn đề thường trở đi trở lại trên các trang văn xuôi
Nguyễn Khải.
Một trường hợp thu hút ý kiến thảo luận khá nổi bật
gần đây là văn xuôi Nguyễn Minh Châu. Từ những trang văn xuôi chiến
đấu mà tiêu biểu là tiểu thuyết Dấu chân người lính (1967)
đậm màu lãng mạn anh hùng, dăm năm trở lại đây, nhà văn như đã dành
một phần không nhỏ sự chú ý của ngòi bút mình cho những thể nghiệm
trong văn xuôi tâm lý thế sự, với các tập truyện ngắn và vừa:
Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Bến quê. Nhà văn như đang
dẫn dắt các nhân vật của mình trong những tìm tòi đạo đức, nhằm
khẳng định và biện minh cho những cách sống tốt đẹp cần lựa chọn
giữa cuộc đời bình thường hàng ngày. Sự chuyển hướng về thể tài của
Nguyễn Minh Châu không phải là trường hợp cá biệt. Ngược lại, nó là
trường hợp nằm chung trong một số tiến trình chung (đã có nhiều biến
đổi nội tại) giữa thời đại và văn học. Những truyện ngắn và kịch
trong tập Tâm tưởng của Bùi Hiển vừa ra mắt gần đây cho thấy
sức hút lớn của đương thời đã có tác động ra sao đến ngay cả một nhà
văn cao tuổi. Từ những truyện sinh hoạt thời chiến, ông trở về với
các truyện "ngày thường" để giãi bày những ý nghĩ có xu hướng triết
lý. Và nhà văn có vẻ như cũng trở về với mạch văn xuôi tâm lý phong
tục của mình từ thời
Nằm vạ, để rồi gặp gỡ với cái xu hướng đang mạnh lên ở những
đồng nghiệp trẻ tuổi hơn.
Về sự chuyển hướng sang văn xuôi tâm lý xã hội này,
có thể dẫn ra nhiều trường hợp khác. Mặc dù vậy, cũng cần thấy là
một nhà văn có thể thích ứng với một hoặc nhiều thể tài. Nguyễn Kiên
hầu như đến gần đây còn tiếp tục viết trong mạch văn xuôi sản xuất
Nhìn dưới mặt trời (1980), nhưng các truyện ngắn của anh vài năm
nay lại đã ngả sang mạch tâm lý xã hội, khai thác các khía cạnh
trong triết lý sống, lối sống. Vũ Tú Nam, từ các trang văn xuôi nông
thôn đậm màu phong tục - sinh hoạt, gần đây ở các truyện ngắn trong
tập Sống với thời gian hai chiều đã bắt vào mạch tâm lý thế
sự, mạch của những suy nghĩ đánh giá lại những ứng xử đã qua trong
cách sống, nhất là trong các quan hệ tình yêu, gia đình...
Nếu các tác phẩm văn xuôi sản xuất cho người đọc cái
cảm giác rất đúng: "sản xuất xã hội và quản lý xã hội đang có rất
nhiều vấn đề", thì các tác phẩm văn xuôi tâm lý xã hội cũng cho
người đọc cảm giác không sai: "con người, thế sự, gia đình cũng đang
đầy rẫy vấn đề", và tất cả đều là những vấn đề xã hội. Có lẽ vì vậy
mà cuốn tiểu thuyết gần đây của Ma Văn Kháng nhan đề Mùa lá rụng
trong vườn được khá nhiều người tìm đọc. Dù rằng tác giả có ý
muốn bảo vệ các quan hệ của đại gia đình dưới một cái nhìn đạo lý
rộng rãi, nhấn mạnh đến tình thương và trách nhiệm đối với người
khác chứ không phải nhấn mạnh bổn phận của từng người trong các quan
hệ gia đình (một ý muốn khá dàn hòa) thì vấn đề nêu ra -- qua các
trang truyện, qua cách phác họa những con người -- vẫn không hề mất
đi. Trách nhiệm đối với người khác, cụ thể là trách nhiệm của thế hệ
cha mẹ với thế hệ con cái cũng là một chủ đề mà Thái Bá Lợi dành cho
truyện vừa Bán đảo, dù rằng cách viết ở đây kín đáo và bằng
lặng nhiều hơn so với sự hoạt bát bộc trực của tác giả Mùa lá
rụng trong vườn...
Quan tâm đến vấn đề xây dựng con người mới xã hội chủ
nghĩa là một trong những mối quan tâm lớn của cách mạng xã hội chủ
nghĩa. Và văn xuôi tâm lý xã hội, dù qua các biến thái khác nhau,
vẫn châu tuần quanh nhiệm vụ to
lớn và lâu dài ấy. Nó vừa làm rõ phương diện nhân
bản, nhân đạo của cách mạng xã hội chủ nghĩa, vừa tham gia vào cuộc
cách mạng ấy, góp phần nhân đạo hóa con người.
Tất nhiên sự tham gia cũng gồm ở nhiều cách, nhiều
phía. Mỗi tác phẩm và nhà văn dẫn trên đều thuộc về những cách,
những phía nhất định ấy. Và nếu nói đến những tác giả trẻ hơn, ta
cũng thấy ở sáng tác của họ có nét sôi sục hơn.
Câu chuyện trong Cuộc đời bên ngoài của Vũ Huy
Anh tập trung vào "nội thất" của những tu viện, vào nội tâm của một
con người để phát hiện một quá trình tâm lý, cắt nghĩa và ủng hộ
cách xử sự cuối cùng của nhân vật: từ bỏ cảnh sống trái tự nhiên để
trở về cuộc đời trần gian thông thường như tất cả người đời, có vui
có buồn, có hạnh phúc có đau khổ, nhưng mới thực là sống. Một điều
giống như cái luận đề đã cũ ấy của chủ nghĩa duy cảm, qua tác phẩm
lại tạo được đầy đủ sức thuyết phục nghệ thuật, nhưng không phải chỉ
do sự thành công về ngôn ngữ mà còn do nó nối được với những quá
trình tâm lý xã hội đang diễn ra trong lớp trẻ ngày nay, kích thích
lòng ham sống, ham hoạt động của họ.
Những truyện ngắn của Dương Thu Hương thường gây
nhiều bàn cãi trong giới người viết và người đọc. Ở văn xuôi của nữ
nhà văn gần tứ tuần này, sự sôi sục của tuổi trẻ -- sôi sục đến độ
như hàm hồ, như cay cú -- vẫn còn đậm, và thật sự là một ưu thế nếu
đem so với hình bóng những con người ít nhiều như đang co mình lại
mà hồi tưởng và suy tư trong văn xuôi tâm lý của lớp nhà văn "ngũ
tuần". Ở các truyện của Dương Thu Hương không thiếu những con người
tốt, nhưng một trong số loại người loại việc mà ngòi bút nhà văn soi
vào là những kẻ xấu, những mặt xấu vẫn còn hiệu diện giữa cuộc đời
hôm nay, trong tâm lý, lối sống, trong quan hệ giữa người với người.
Để dồn sức tấn công vào các đối thủ ấy, nhà văn có khi đã dựa vào cả
những định kiến, những tập quán và ý niệm đạo lý cũ kỹ - việc này
gây nên những chỗ không đồng tình nào đó ở những độc giả nhất định -
nhưng việc chọn và "truy kích" các thứ thói xấu và kẻ xấu thì lại là
đích đáng.
Có thể thấy là hầu hết các tác phẩm văn xuôi tâm lý
xã hội đều mang cảm hứng đạo đức, dù rằng cảm hứng ấy có sắc thái
khác nhau chút ít: với các nhà văn "ngũ tuần" thì đáng chú ý là bình
diện triết lý đạo đức với các nhà văn "tứ tuần" - là bình diện đạo
đức sinh hoạt. Xu hướng biểu cảm trữ tình của văn xuôi tâm lý trước
đây - mà tiêu biểu là văn xuôi Đỗ Chu - đang nhường chỗ cho sự phân
tích, mổ xẻ. Đây cũng là chỗ cho thấy sự phát triển của văn xuôi tâm
lý xã hội là đáp ứng nhu cầu nhận thức - một nhu cầu lớn của thời
đại ngày nay. Tất nhiên, xu hướng biểu cảm trữ tình không phải là đã
mất: cố gắng của Đỗ Chu ở các truyện ngắn trong tập Tháng hai
vừa ra mắt gần đây là một ví dụ. Ý đồ muốn nắm bắt những nét "nên
thơ" của đời sống để thể hiện lên các trang văn xuôi trữ tình cũng
còn thấy ở một số cây bút mới, nhất là các cây bút nữ (Lý Lan, Trần
Thùy Mai). Dù sao, trong khi tầm nhận thức của văn học và của độc
giả đã, đang và cần được nâng cao, văn xuôi tâm lý trữ tình cũng
đứng trước những yêu cầu mới, cần vượt khỏi sự dễ dãi, nông cạn để
có thể gây được sức thuyết phục nhiều hơn nữa.
Thử điểm lại diện mạo văn xuôi 10 năm qua như trên,
bằng cách phân tích sự phát triển của các nhóm loại hình văn xuôi,
chúng tôi muốn cho thấy sự đa dạng và khá phong phú của văn xuôi
thời gian qua. Nếu một nền văn học đang phát triển bao giờ cũng gồm
hàng loạt nhân tố động và không dễ thấy rõ thì việc nắm bắt một số
trong hàng loạt nhân tố ấy lại là cực kỳ quan trọng, để nhận ra
những con đường phát triển đang diễn tiến, để tác động tích cực đến
sự phát triển của văn học. Theo ý nghĩa ấy, sự phân tích trên đây là
những gợi ý để suy nghĩ tiếp tục, hơn là những kết luận đã xong
xuôi.
Nguồn: Tạp chí Văn học, Hà Nội, số 1
(tháng 1 & 2-1986)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét