Thứ Tư, 7 tháng 12, 2011

Tài chính cho phát triển: Thế giới và Việt Nam

Bài viết cũ của tôi năm 2007:

Tài chính cho phát triển: Thế giới và Việt Nam

I- Về tài chính cho phát triển toàn cầu
(1) Cấu trúc tài chính cho phát triển:
Hiện nay các dòng vốn tư nhân tăng nhanh và trở thành nguồn chủ yếu để tài chính cho phát triển. Chúng và các tác nhân liên quan đến chúng đã hòa nhập rất sâu sắc vào các quá trình phát triển. Vai trò của các quỹ tư nhân tăng lên, ví dụ như quỹ Bill Gate... Tuy nhiên, các nguồn vốn này và các tác nhân liên quan đến chúng vẫn bị xem nhẹ và chưa được chú ý đến trong nghiên cứu xây dựng các chính sách tài chính cho phát triển.
Mặt khác, khi xây dựng cấu trúc hệ thống tài chính mới cho phát triển, cần tập trung xem xét vai trò của nhiều nguồn vốn khác nhau để có thể đề ra các giải pháp sử dụng có hiệu quả hơn. Ví dụ xem xét vốn tư nhân và vốn ODA có tác dụng bổ sung cho nhau hay thay thế nhau. Đối với nước nghèo, hai nguồn vốn này có tác dụng bổ sung cho nhau, song đối với nước đã vươn lên khá hơn thì trong nhiều trường hợp hai nguồn vốn này lại có thể thay thế nhau. Ngoài ra, cũng có ý kiến cho rằng còn tuỳ vào việc sử dụng vốn của từng nước, nếu vốn ODA được dùng để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng thì tốt, còn để bổ sung cho ngân sách để chi cho tiêu dùng thì lại không tốt...
Vai trò của các dòng vốn của người lao động ở nước ngoài và kiều dân gửi về nước rất quan trọng, nhất là tại các nước mới nổi lên, song cũng chưa được chú ý trong nghiên cứu xây dựng các chính sách tài chính cho phát triển. Đã xuất hiện một số nhà tài trợ mới; thậm chí một số nước chưa giầu song đã tham gia tài trợ phát triển quốc tế.
Các chính sách áp dụng tại các nước khác nhau có hiệu quả rất khác nhau. Nên nghiên cứu xem viện trợ, quản lý viện trợ nên dựa theo các nhóm nước hay theo các nhóm vấn đề cụ thể ? Đặc biệt, cần nghiên cứu ảnh hưởng của ODA, FDI tới tỷ giá thực của các nước nhận viện trợ. Căn bệnh Hà Lan đã và còn có thể diễn ra tại nhiều quốc gia, khu vực; đây là căn bệnh thường gây ra các cuộc khủng hoảng kinh tế.
Việt Nam cho rằng đối với các nước nghèo, viện trợ tài chính cho phát triển vẫn rất cần thiết. Thách thức chính ở các nước này là tăng cường liên kết và hài hoà các thủ tục để nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn vốn viện trợ. Ngoài ra, cần tập trung huy động các nguồn vốn tư nhân từ nước ngoài (kể cả kiều hối) để tài chính cho phát triển.
Đối với các nước mới nổi lên, viện trợ không còn quá quan trọng. Các nguồn tài chính khác cho phát triển đã tăng nhanh và có khả năng thay thế nguồn vốn viện trợ. Do đó, cấu trúc tài chính mới cho phát triển cần được xây dựng theo hướng bổ sung các nguồn vốn mới vào. Ngoài ra, cần tập trung chủ yếu vào khâu phối hợp giữa các tác nhân liên quan đến các dòng vốn tư nhân và các tác nhân liên quan đến các dòng vốn ODA. Không nên và không thể chỉ tập trung phối hợp hành động trong một nhóm các nhà tài trợ như hiện nay, nhất là không nên bó hẹp giữa các nhà tài trợ trong Uỷ ban hỗ trợ phát triển (DAC) hoặc giữa các nhà tài trợ này với các nhà tài trợ mới xuất hiện. Phải tăng cường phối hợp hành động giữa các nhà tài trợ và các tác nhân liên quan đến các dòng vốn tư nhân, và giữa các tác nhân liên quan đến các dòng vốn tư nhân với nhau. Hành động tập thể của các nhà tài trợ rất quan trọng.
(2) Khuynh hướng của các quốc gia về tài chính cho phát triển;
Nhu cầu vốn đầu tư của các nước đang phát triển rất lớn, nhưng việc huy động còn rất khó khăn. Cân đối vốn cho phát triển vẫn phụ thuộc rất lớn vào nguồn vốn từ nước ngoài. Dự báo nguồn vốn sắp tới sẽ tăng nhanh hơn xu hướng cũ, song vẫn không đáp ứng yêu cầu. Trong những năm gần đây, các nước đang phát triển đều tập trung vào thực hiện các mục tiêu thiên nhiên kỷ thay vì chỉ hướng vào mục tiêu tăng trưởng như trong thế kỷ XX. Tương tự, nếu như trước kia, các nước đang phát triển đánh giá kết quả thông qua sự phát triển của khu vực kinh tế và một phần xã hội thì nay đã chú ý đến nhiều khu vực hơn, đặc biệt là vấn đề môi trường (thể hiện ở các mục tiêu thiên nhiên kỷ). Đặc biệt, các mục tiêu mang tính quốc tế hơn, giống nhau hơn chứ không chỉ mang tính riêng, đặc thù của mỗi quốc gia như trước.
Tuy nhiên, việc thực hiện các mục tiêu còn kém, kể từ khâu nhận dạng vấn đề, sắp xếp các thứ tự ưu tiên, các chính sách phải làm và quy trình làm... đến đánh giá kết quả... đều chưa đạt yêu cầu. Mặt khác, việc tìm kiếm các nguồn tài chính cho phát triển (thực hiện các mục tiêu thiên nhiên kỷ) còn kém, nhất là huy động vốn tư nhân. Quan hệ giữa ngân sách và thực hiện các mục tiêu thiên nhiên kỷ chưa đủ chặt. Việc chi ngân sách để thực hiện các mục tiêu thiên nhiên kỷ phụ thuộc vào xu thế thu ngân sách đã hình thành trong quá khứ và các quyết định phân bổ ngân sách cho đầu tư và tiêu dùng; do đó mối quan hệ giữa chi ngân sách cho đầu tư phát triển và kết quả thực hiện các mục tiêu thiên nhiên kỷ không rõ ràng. Một số quan điểm phát triển dài hạn chưa rõ, dẫn tới đầu tư kém hiệu quả. Viện trợ tài chính cho các nước nghèo thường được thực hiện qua ngân sách, song hiệu quả chưa cao. Mỗi nhà tài trợ có một quy trình riêng làm cho việc huy động, giải ngân vốn ODA của các nước nghèo rất khó khăn. Các nước nghèo ít chú ý tới kiểm tra, đánh giá hiệu quả các dự án dùng tiền viện trợ, trong khi các nhà tài trợ lại hay lo lắng về vấn đề này.
Việt Nam cho rằng vì cả thế giới đang phát triển hướng vào mục tiêu chung nên tài chính cho phát triển cũng nên hướng vào mục tiêu chung. Điều này thuận lợi hơn cho việc thiết kế hệ thống tài chính mới. Trong tương lai, huy động tài chính phải dựa vào nguồn vốn tư nhân là chính. Để đạt mục tiêu này, cần cải thiện nhanh môi trường đầu tư. Song cách cải thiện phụ thuộc rất lớn vào đặc trưng của từng nước nên khó đưa ra phương thức chung. Viện trợ tài chính cho các nước nghèo cần được thực hiện qua nhiều kênh khác nhau để nâng cao hiệu quả sử dụng. Các nhà tài trợ cần hợp tác tài trợ trong 1 chương trình chung thông qua đàm phán xây dựng một thủ tục, quy trình viện trợ giống nhau (hài hoà thủ tục). Các nước nghèo cần tăng cường công tác kế toán, kiểm tra, giám sát để đánh giá đúng và nâng cao hiệu quả các dự án dùng tiền viện trợ vì đây là lợi ích của chính các nước nghèo. Các nước nghèo cần đảm bảo tài chính cho bộ máy nhà nước thì bộ máy đó mới hoạt động có hiệu quả.
Các nước nghèo cần tăng nhanh nguồn vốn nội địa để giảm bớt sự phụ thuộc vào vốn nước ngoài; khi đó, chính sách trong nước cũng ít bị ràng buộc hơn. Nên tìm cách kết hợp khéo léo để khai thác khu vực tư nhân hoạt động vì lợi nhuận vào việc thực hiện các mục tiêu phát triển của Chính phủ.
Cộng đồng quốc tế nên mở một Quỹ toàn cầu có nhiệm vụ thống nhất hỗ trợ tài chính cho phát triển. Nên cử một số đoàn đi khảo sát một số nước để tìm hiểu nhu cầu, khó khăn, nguyện vọng của họ, thì việc thiết kế Quỹ sẽ tốt hơn.
(3) Phối hợp ở các cấp độ toàn cầu, khu vực và quốc gia về tài chính cho phát triển
Các Hội nghị các nguyên thủ quốc gia, các hội nghị quốc tế cấp ngành... đặt ra rất nhiều mục tiêu phát triển, từ các mục tiêu phát triển Thiên nhiên kỷ tới các mục tiêu cụ thể về phát triển y tế, giáo dục, xây dựng khu vực tiền tệ chung, thuế quan chung... song việc phối hợp ở các cấp độ toàn cầu, khu vực và quốc gia về tài chính cho các mục tiêu phát triển nêu trên còn nhiều kém. Do vậy, cần xem xét lại vai trò của các nhà tài trợ trong việc đề xuất các vấn đề để tăng cường phối hợp trong quá trình tài trợ. Ví dụ cần xác định ai là nhà tài trợ (nhất là các nhân tố mới như các quỹ tư nhân, quỹ toàn cầu...), động cơ của các nhà tài trợ, tại sao cần tài trợ, các nguồn vốn tài trợ (nhất là các nguồn mới như kiều hối, lao động ở nước ngoài gửi tiền về, đầu tư tư nhân...), nên tài trợ vào đâu và khi nào đối với từng nhóm nước, các cơ chế tài chính mới là gì (qua ngân sách và qua các kênh khác)...
Cần tăng cường các nỗ lực để đạt được yêu cầu đề ra về phối hợp ở các cấp độ toàn cầu, khu vực và quốc gia về tài chính cho các mục tiêu phát triển. Một số yêu cầu khi thiết kế hệ thống tài chính mới phục vụ mục tiêu phát triển chung là: Các nước viện trợ phải tôn trọng các nước nghèo, tôn trọng phong tục, tập quán, mục tiêu, kế hoạch phát triển của họ. Các nước nghèo phải tăng cường tiếng nói để bảo vệ lợi ích của mình khi thiết kế hệ thống tài chính quốc tế mới. Hệ thống tài chính mới phục vụ mục tiêu phát triển phải đồng hướng để có thể sử dụng chung tại nhiều nước nhất có thể. Hài hòa, đơn giản, phổ biến để thuận lợi khi áp dụng tại các nước khác nhau, nhất là hài hoà trong xây dựng kế hoạch tài trợ, giải ngân, theo dõi, giám sát, đánh giá và báo cáo cho Chính phủ và các nhà tài trợ. Có thể đánh giá được, đo đếm được hiệu quả.
Việc xây dựng phương thức, cơ chế phối hợp chung cần được đổi mới để các nguồn vốn từ nhiều nhà tài trợ khác nhau có thể cùng hướng vào những ưu tiên của khối các nước đang phát triển, nhưng không trùng lắp, không làm méo mó các ưu tiên nói trên, hài hòa thủ tục giữa các nhà tài trợ (tất cả thì càng tốt), tăng cường chia sẻ thông tin, tổ chức nhiều hội thảo trao đổi kinh nghiệm để tiến tới cách làm chung hoặc có sự phối hợp chặt chẽ... Huy động tất cả các loại đối tác liên quan vào thảo luận, đối thoại để xây dựng các chính sách phối hợp chung có hiệu quả. Thảo luận chính sách không nên chỉ thực hiện với Chính phủ trung ương, chính quyền địa phương mà nên cả với người thụ hưởng nguồn vốn đầu tư phát triển.
(4) Cải cách các thể chế quốc tế về tài chính cho phát triển.
Để nâng cao hiệu quả các nguồn tài chính dành cho phát triển, cần thường xuyên đổi mới các thể chế hỗ trợ liên quan. Tài chính cho phát triển giờ đây cũng phải được đặt trong cơ chế hợp tác quốc tế (International Cooperation - IC) toàn cầu. Hợp tác quốc tế cũng có thể được tổ chức thành một cơ quan như Chương trình phát triển của Liên hợp quốc (UNDP).
Điểm cần đặc biệt lưu ý là trong khoảng 1 thập kỷ gần đây, thế giới đã có những chuyển biến rất mạnh mẽ về cơ chế tạo ra tài chính cho phát triển. Các cơ chế mới có đặc điểm khác so với trước là: Chỉ còn rất ít cơ chế hoàn toàn liên chính phủ; hầu hết đã mang tính liên kết nhà nước - tư nhân; xu hướng tới đây là thuần tuý tư nhân; Các cơ chế mới thường mang tính đơn, tức là chỉ tập trung giải quyết 1 vấn đề cụ thể, trong khi các cơ chế cũ ôm đồm nhiều mục tiêu, nhiều kỳ hạn. Ví dụ trước đây tổ chức ra Chương trình phát triển của Liên hợp quốc (UNDP) với quá nhiều chức năng...; nay tổ chức Qũy Toàn cầu về chống HIV/AIDS, Qũy Toàn cầu về chống sốt rét... Nhiều cơ chế mới, thể chế mới có thời gian tồn tại cụ thể trong khi các cơ chế cũ không được xác định khi nào thì kết thúc.
Tuy nhiên, tình hình thực tế cho thấy những chuyển biến trên là chưa đủ và chậm. Có rất nhiều áp lực đòi hỏi phải cải cách nhanh hơn. Do đó, trong lĩnh vực tài chính cho phát triển, thế giới nên hành động chung và trong mọi kế hoạch cải cách, phải đặt Liên hợp quốc vào vị trí trung tâm. Trên tầm quốc tế, cần thực hiện tại các tổ chức liên chính phủ (IGO), nhất là tại hệ thống Liên hợp quốc nhằm đạt một số mục tiêu như nâng cao hiệu quả trong bố trí vốn và sản xuất; tăng cường vai trò phối hợp giữa nhiều tác nhân vay, cho vay, trả nợ; giảm, tránh việc hỗ trợ tài chính trùng lắp cho cùng một việc (trùng lắp của quốc tế, quốc gia, tư nhân, các tổ chức NGO...)...
Tiếp tục cơ cấu lại các cơ quan thuộc hệ thống Liên hợp quốc, nhất là xác định các cơ quan chuyên môn đang thiếu. Cũng cần nghiên cứu việc xây dựng Tổ chức Tài chính Thế giới (World Finance Organization - WFO) nhằm hỗ trợ cộng đồng quốc tế trong việc tạo ra hệ thống (quốc gia và quốc tế) toàn cầu về tài chính cho hợp tác quốc tế. Thể chế này cũng có nhiệm vụ giúp đỡ các nước nhanh chóng loại bỏ các công nghệ tài chính cũ, phát triển và đưa vào áp dụng các công nghệ tài chính mới. Tổ chức này có thể được xây dựng trên cơ sở tách một số nhiệm vụ chuyên sâu về tài chính cho phát triển mà hiện nay Ngân hàng Thế giới (World Bank) và các cơ quan cung cấp tài chính đa phương khác đang làm.
2- Tài chính cho phát triển tại Việt Nam
(1) Vài nét về tình hình kinh tế, xã hội hiện nay của Việt Nam
Nhìn lại hơn 20 năm đổi mới (1986-2006), Việt Nam đã đạt được những bước tiến mạnh mẽ trong lĩnh vực tăng trưởng, giảm nghèo và thực hiện các mục tiêu phát triển thiên nhiên kỷ, trong đó những thành tựu nổi bật là: Tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt khá và từng bước ổn định; tốc độ tăng trưởng GDP đạt 6,7%/năm, trong những năm gần đây đạt trên 8%. Môi trường đầu tư, kinh doanh của các doanh nghiệp ngày càng thuận lợi hơn. Hiện nay, đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân trong GDP đạt 43%; huy động vốn đầu tư đạt 40% GDP; nguồn vốn trong nước chiếm trên 70% tổng vốn đầu tư. Từ chỗ là nền kinh tế cơ bản khép kín, tự cung tự cấp, đến năm 2005 tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá đã đạt 69,4 tỷ USD, bằng 132% GDP; do đó Việt Nam đã được xếp vào nhóm nước có độ mở cửa rất cao. Luồng vốn nước ngoài đưa vào đầu tư đã tăng lên khá nhanh. Tại 14 Hội nghị các nhà tài trợ cho Việt Nam từ năm 1993 đến 2006, các nhà tài trợ đã cam kết viện trợ cho Việt Nam trên 36 tỷ USD. Đến nay, Việt Nam đã giải ngân được khoảng 18 tỷ USD. Nhờ thực hiện chính sách tài khoá và tiền tệ thận trọng, cân đối tài chính quốc gia của Việt Nam liên tục được cải thiện cơ bản, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và tạo điều kiện khai thác tốt hơn các nguồn lực. Các mặt hoạt động xã hội của Việt Nam cũng thu được nhiều thành tựu quan trọng, được thế giới đánh giá cao. Đến nay Việt Nam đã hoàn thành toàn diện và trước thời hạn các cam kết của mình về phát triển và xoá đói giảm nghèo. Với việc thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006-2010, tầm nhìn đến năm 2020, dự kiến Việt Nam sẽ tiếp tục đạt được các mục tiêu về tăng trưởng và giảm nghèo, tạo thuận lợi để thực hiện vững chắc các mục tiêu phát triển thiên nhiên kỷ.
(2) Tài chính cho phát triển ở Việt Nam hiện nay
Trong quá trình đổi mới kinh tế hướng theo cơ chế kinh tế thị trường và hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, hệ thống tài chính của Việt Nam đã có những thay đổi sâu sắc, làm cho việc phân bổ các nguồn lực tài chính cho mục tiêu phát triển ngày càng hiệu quả và an toàn hơn. Đến nay, hệ thống tài chính Việt Nam đã được xây dựng tương đối đầy đủ các nhân tố cấu thành cơ bản mặc dù mức độ phát triển của từng nhân tố khác nhau, gồm thị trường tiền tệ và thị trường vốn dài hạn.Thị trường chứng khoán của Việt Nam được thành lập và hoạt động từ tháng 7 năm 2000. Hoạt động của Thị trường chứng khoán được thực hiện tại hai Trung tâm Giao dịch chứng khoán ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh; đây là nơi niêm yết và thực hiện các giao dịch tập trung, chính thức. Bên cạnh đó, ở Việt Nam còn tồn tại thị trường chứng khoán phi chính thức, là nơi các chứng khoán không niêm yết được  giao dịch, chủ yếu gồm cổ phiếu của các công ty vừa và nhỏ, cổ phiếu của các công ty lớn chuẩn bị được niêm yết. Thị trường này ra đời và hoạt động trước khi thị trường chứng khoán chính thức được thành lập. So với thị trường chứng khoán chính thức, tổng giá trị chứng khoán giao dịch trên thị trường này lớn gấp nhiều lần.
Các định chế tài chính ở Việt Nam có thể được chia làm 3 nhóm gồm các định chế tài chính do Ngân hàng Nhà nước quản lý, các định chế tài chính do Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước quản lý và các định chế tài chính do Chính phủ hoặc Bộ Tài chính quản lý.
Các định chế tài chính do Ngân hàng Nhà nước quản lý gồm 5 ngân hàng thương mại nhà nước, 1 ngân hàng chính sách xã hội để thực hiện hỗ trợ thực hiện các chính sách phát triển xã hội của Nhà nước, 37 ngân hàng cổ phần, 31 chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 5 ngân hàng liên doanh, 44 văn phòng đại diện của các tổ chức tín dụng nước ngoài, 6 công ty tài chính, 9 công ty cho thuê tài chính và hơn 900 Quỹ tín dụng nhân dân.
Các định chế tài chính do Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước quản lý gồm hai Trung tâm Giao dịch chứng khoán ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, 13 công ty chứng khoán và các quỹ đầu tư chứng khoán.
Các định chế tài chính do các cơ quan khác của Chính phủ hoặc Bộ Tài chính quản lý gồm Ngân hàng Phát triển Việt Nam, 8 Quỹ đầu tư phát triển được thành lập tại một số địa phương, các Quỹ bảo hiểm xã hội, các công ty tiết kiệm bưu điện...
Với các loại thị trường tài chính nêu trên, hiện nay các doanh nghiệp Việt Nam có thể khai thác tín dụng chính thức từ các nguồn như tín dụng từ các tổ chức tín dụng ngân hàng, gồm các ngân hàng thương mại nhà nước, các ngân hàng thương mại cổ phần, các ngân hàng liên doanh, chi nhánh các ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam và các quỹ tín dụng nhân dân; các khoản vay thương mại từ các công ty cho thuê tài chính, các công ty tài chính, các quỹ đầu tư của các công ty bảo hiểm; các khoản vay ưu đãi từ Ngân hàng Phát triển Việt Nam. Riêng các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài còn có thể huy động tín dụng từ nước ngoài thông qua các ngân hàng nước ngoài hoặc các công ty mẹ ở nước ngoài.
Ngoài ra, các doanh nghiệp còn có thể huy động các nguồn vốn dài hạn thông qua thị trường chứng khoán.
Về huy động vốn từ nước ngoài, cũng như các nước đang phát triển có thu nhập thấp khác, Việt Nam huy động nguồn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), nguồn kiều hối của người Việt tại hải ngoại và các nguồn vốn nước ngoài khác (đầu tư gián tiếp của tư nhân nước ngoài). Các nguồn vốn này đều tăng lên rất nhanh trong những năm gần đây.
(3) Triển vọng về tài chính cho phát triển của Việt Nam
Chính phủ Việt nam đã xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006-2010 với cách tiếp cận rất mới, nhất là có sự tham gia rộng rãi của người dân và các tổ chức xã hội vào quá trình lập kết hoạch, để đảm bảo tính khả thi cao nhất của kế hoạch, trong đó có đảm bảo nguồn tài chính cho phát triển. Dự kiến nền kinh tế Việt Nam sẽ tăng trưởng 7,5-8%/năm trong 5 năm 2006-2010; đến năm 2010, GDP đầu người đạt khoảng 1100 USD. Đầu tư chiếm khoảng 40% GDP, trong đó nguồn đầu tư huy động từ trong nước chiếm khoảng 65% tổng nguồn vốn đầu tư, vốn nước ngoài khoảng 35%.
Về cơ cấu huy động các nguồn vốn, dự kiến vốn ngân sách nhà nước chiếm khoảng 20,2% tổng nguồn vốn đầu tư; vốn tín dụng ưu đãi của nhà nước chiếm 9,3%; vốn của các doanh nghiệp nhà nước khoảng 15,1%; vốn từ khu vực dân cư 34,4% và vốn của khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chiếm khoảng 17,1%.
Về chính sách huy động vốn, Chính phủ Việt Nam dự kiến sẽ tiếp tục hoàn thiện môi trường kinh doanh tạo điều kiện thuận lợi cho tất cả các loại hình doanh nghiệp phát triển, tập trung vào xây dựng và thực hiện cơ chế một cửa, rà soát, giảm thiểu giấy phép, thời gian cũng như chi phí gia nhập thị trường cho tất cả các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài; không hạn chế về qui mô đầu tư và qui mô lao động; xóa bỏ các hình thức phân biệt đối xử trong tiếp cận đến với các cơ hội, nguồn lực và thông tin thị trường. Có cơ chế thích hợp để thu hút nguồn lực của các địa phương trên cơ sở phát huy lợi thế các địa phương. Tiếp tục tháo gỡ những khó khăn mà các doanh nghiệp đang phải đối mặt liên quan đến các nhân tố đầu vào và sản phẩm đầu ra. Đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động sự nghiệp như y tế, giáo dục, đào tạo nghề, bảo hiểm xã hội, nghiên cứu khoa học... Sử dụng hiệu quả đất đai và các nguồn tài nguyên thiên nhiên khác.
Tiếp tục huy động tối đa nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thông qua việc thực hiện tốt Luật doanh nghiệp và Luật đầu tư. Mở cửa khu vực dịch vụ cho đầu tư nước ngoài. Tích cực thu hút đầu tư từ các tập đoàn kinh tế hàng đầu thế giới, tạo sự chuyển biến tích cực về chất lượng, số lượng và hiệu quả đầu tư nước ngoài. Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư để tạo thuận lợi hơn so với với các quốc gia trong khu vực và trên quốc tế trong việc thu hút nguồn đầu tư trực tiếp và gián tiếp từ nước ngoài.
Tiếp tục tranh thủ các nguồn tài trợ ODA, thực hiện tốt chiến lược thu hút và sử dụng vốn ODA tập trung vào lĩnh vực xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật ở các trung tâm kinh tế và các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn để tạo điều kiện cho các nhà đầu tư mở rộng đầu tư, kinh doanh.
Khuyến khích người Việt Nam định cư ở nước ngoài đưa vốn và trí tuệ về nước tham gia đầu tư.
Cùng với các giải pháp huy động các nguồn lực trong và ngoài nước, Việt Nam sẽ rất chú trọng tới các giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực như hoàn chỉnh các văn bản pháp quy hướng dẫn thi hành Luật Xây dựng, Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp, Luật Đấu thầu. Đồng thời, khắc phục được những yếu kém, tồn tại trong cơ chế quản lý đầu tư hiện nay, nhằm sử dụng các nguồn vốn đầu tư tập trung, đúng quy hoạch, kế hoạch, có hiệu quả, chống được thất thoát, lãng phí trong đầu tư. Đẩy mạnh việc phân cấp triệt để trong quản lý đầu tư, phù hợp với yêu cầu về cải cách hành chính, tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước, đơn giản hoá về thủ tục đầu tư. Đi đôi với việc phân cấp trong quản lý đầu tư, xác định rõ trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân nhằm nâng cao trách nhiệm của các chủ thể tham gia vào quá trình đầu tư. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát toàn bộ quá trình đầu tư, từ khâu thực hiện quy hoạch, kế hoạch theo các quy định của pháp luật nhằm ngăn chặn, phát hiện và xử lý kịp thời những vi phạm pháp luật; chi phí thất thoát, lãng phí và tiêu cực trong đầu tư, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực.
3- Khuyến nghị những thay đổi trong thể chế quốc tế tài chính cho phát triển nhằm hỗ trợ cho các nước nghèo có nguồn tài chính đề phát triển.
Những năm qua, nhiều nỗ lực quốc tế đáng kể đă được thực hiện nhằm huy động các nguồn vốn giúp các nước đang phát triển thực hiện mục tiêu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, xoá đói giảm nghèo và phát triển bền vững. Tuy nhiên, chúng ta còn nhiều việc phải làm để các nỗ lực này được triển khai đồng bộ và toàn diện hơn, có tác dụng thiết thực và hiệu quả cao, mở rộng diện các quốc gia được hưởng lợi từ các giải pháp cải cách hệ thống tài chính quốc tế và đẩy nhanh tiến trình thực hiện các mục tiêu Thiên niên kỷ.
Bên cạnh chính sách riêng của từng nước, chúng tôi cho rằng hệ thống tài chính toàn cầu cần được tổ chức tốt hơn nữa để huy động tốt hơn các nguồn lực toàn cầu và khu vực vào việc hỗ trợ các nước nghèo hội nhập và phát triển. hợp tác tài chính quốc tế và khu vực có thể đóng vai trò then chốt trong việc thực hiện các mục tiêu này. Chúng tôi hy vọng các nước công nghiệp phát triển có thể chia sẻ nhiều hơn nữa kinh nghiệm huy động tài chính cho phát triển của mình cho các nước đang phát triển.
Một số khuyến nghị cụ thể là:
 Thứ nhất, các quốc gia đang phát triển cần tăng cường huy động nguồn lực tài chính trong và ngoài nước thông qua cải thiện nguồn thu ngân sách của Chính phủ, phát triển thị trường tài chính trong nước, xây dựng và hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, công khai, minh bạch, cải thiện môi trường đầu tư để thu hút luồng vốn đầu tư nước ngoài. Cần khẳng định việc huy động nguồn lực trong nước luôn luôn giữ vai trò quyết định đồng thời nguồn lực từ bên ngoài là rất quan trọng.
Thứ hai, thị trường quốc tế cần thuận lợi hơn để các nước nghèo mở rộng khả năng tiếp cận thị trường các nước giầu hơn, cả về thị trường hàng hoá, dịch vụ lẫn thị trường vốn.
Thứ ba, tăng cường hỗ trợ tài chính, công nghệ và các hình thức khác cho các nước nghèo; tiếp tục cải tiến phương thức hỗ trợ để các khoản hỗ trợ phát huy tác dụng cao nhất đối với tăng trưởng và thực hiện các mục tiêu phát triển thiên nhiên kỷ của các nước nghèo. Tôn trọng quyền tự chủ của nước nghèo; tăng cường sự hợp tác hành động vì mục tiêu giúp nước nghèo của các nhà tài trợ. Giảm nhanh gánh nặng nợ cho các nước nghèo.
Đặc biệt, các nước phát triển cần đẩy nhanh hơn lộ trình thực hiện cam kết tăng cường nguồn ODA lên mức 0,7% GNP, tăng mức độ ưu đãi trong các điều kiện cho vay và giảm bớt những điều kiện ràng buộc khi cấp tín dụng.
Thứ tư, xây dựng các thiết chế có khả năng duy trì vững chắc sự ổn định của nền kinh tế toàn cầu và khu vực để hạn chế tối đa ảnh hưởng của các cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu và khu vực tới thị trường tài chính và tăng trưởng của các nước nghèo.
Thứ năm, xây dựng cơ chế đảm bảo cho các nước nghèo có tiếng nói trên các diễn đàn quốc tế để tất cả các nước đều có thể tham gia giải quyết những vấn đề toàn cầu, vấn đề của khu vực và vấn đề của bản thân các nước nghèo... Đặc biệt, chúng tôi mong muốn cộng đồng quốc tế sẽ dành cho các nước đang phát triển vai trò và vị trí lớn hơn, bình đẳng hơn trong quá trình xây dựng chính sách đầu tư phát triển, chính sách phát triển các tài chính - tiền tệ quốc tế.
Việt Nam rất mong được nghe thêm nhiều ý kiến đóng góp của các quý vị đại biểu đối với tiến trình xây dựng cấu trúc tài chính mới để Việt Nam có cơ hội xem xét, điều chỉnh, bổ sung và hoàn thiện những dự kiến của mình nhằm đáp ứng tốt nhất các yêu cầu đặt ra trong quá trình phát triển hệ thống tài chính phục vụ mục tiêu phát triển của Việt Nam, đồng thời để Việt Nam có cơ hội hội nhập nhanh hơn nữa, có hiệu quả hơn nữa, tiến tới hội tụ đầy đủ với nền kinh tế thế giới trong lĩnh vực tài chính cho phát triển./.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét