Chủ Nhật, 28 tháng 7, 2013

(2) Quy trình kế hoạch hóa nền kinh tế quốc dân

Bài giảng cũ của tôi:
Quy trình kế hoạch hóa nền kinh tế quốc dân
CHƯƠNG 2
CÔNG TÁC KHH NỀN KTQD TRONG
QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI KINH TẾ Ở NƯỚC TA
(chú ý liên hệ, phân tích, nhấn mạnh những yêu cầu và thách thức hiện nay của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển KTTT và hội nhập KTQT toàn diện tới đổi mới công tác KHH ở nước ta)
Chương này có các nội dung lớn sau:
1/ Thực trạng của đổi mới công tác KHH nền KTQD nước ta trong quá trình chuyển đổi kinh tế
2/ Một số yếu kém trong công tác KHH KTQD nước ta hiện nay
3/ Xây dựng KT thị trường định hướng XHCN, CNH, HĐH và hội nhập quốc tế đang đặt ra những yêu cầu và thách thức to lớn đối với công tác KHH phát triển KT nước ta
4/ Những nguyên tắc và nội dung cơ bản của đổi mới công tác KHH nền KTQD ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
I- THỰC TRẠNG CỦA ĐỔI MỚI CÔNG TÁC KHH NỀN KTQD NƯỚC TA TRONG QUÁ TRÌNH CHUYỂN ĐỔI KINH TẾ
Tài liệu:
- Trước năm 89 có nhiều tài liệu, nhưng không chi tiết và theo kiểu kế hoạch hoá tập trung của Liên xô cũ.
- Từ 1985-1989, tài liệu mất dần, trường KTQD bỏ môn KHH, nay đang khôi phục. Bộ KH-ĐT giải thể Viện KHH năm 1994.
- Đào tạo cán bộ cho ngành kế hoạch: số học sinh tại trường trung học kế hoạch Đà nẵng tăng nhanh trong những năm 1976-1988 nhưng từ 89 giảm rất mạnh. Đến 96 lại tăng dần. Đến năm 2001, trường mới được nâng thành trường cao đẳng.

- Từ năm 2001 đến nay : Khôi phục lại nhiều (thành lập lại các bộ môn KHH, tăng cường giáo trình...) do nhận thức sâu hơn sau khủng hoảng châu á (để khu vực KTTT phát triển thiếu tính kế hoạch).
Do vậy tài liệu không nhiều.
1) Tiến triển của công tác kế hoạch hoá nền kinh tế quốc dân
(1) Giai đoạn 1979-1988: Giảm dầncơ chế KT KHH tập trung, mở rộng từng bước vai trò của KTTT
- Nới lỏng kiểm soát của Nhà nước đối với các hoạt động kinh tế ngay từ Nghị quyết 6, Ban chấp hành TƯ khoá 4, 12/1979:
+ Tăng cường kinh tế hộ gia đình. Lúc đó chỉ chiếm 5% diện tích đất canh tác song tạo ra khoảng 20-25% sản lượng lương thực,
+ Tự do hoá thương mại giữa các tỉnh và phát triển chợ ở các đô thị
- Chỉ thị 100 của Ban Bí thư TƯ Đảng ngày 13/1/1981 về khoán sản phẩm trong nông nghiệp, theo đó các hợp tác xã tập trung lo đầu vào và xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất. Điều chỉnh gấp 2 lần giá tư liệu sản xuất.
Nghị quyết 25, 26 CP và các Nghị quyết khác năm 1980-1982 về kế hoạch 3 phần: Phần kế hoạch hoá pháp lệnh, phần kế hoạch hoá với một bộ phận đầu vào mua trên thị trường và phần kế hoạch hoá với toàn bộ đầu vào mua từ thị trường tự do.
- Bù giá vào lương và cải cách giá lương tiền năm 1985,
- Xoá bỏ hệ thống giá thu mua nông sản theo giá thấp năm 1986,
- Phát hành giấy bạc 5000, 10000 và 50000 đồng năm 1987: Thực chất là đổi tiền. Không thành công, lạm phát gia tăng.
- Năm 1988: Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị về giao đất giao rừng cho các hộ nông dân, Nghị quyết 217/HĐBT về đổi mới hoạt động các doanh nghiệp nhà nước, Nghị quyết của Bộ Chính trị về đẩy mạnh phát triển kinh tế tư nhân.
- Xây dựng hệ thống ngân hàng 2 cấp năm 1988.
(2) Giai đoạn 1989-1994: Gần như bỏ qua vai trò của công tác KHH. Tăng cường rất manh vai trò của KTTT
Do tác động tích cực ban đầu của cơ chế kinh tế thị trường, đã ngộ nhận, đề cao mạnh mẽ tự do hoá kinh tế, giảm vai trò của nhà nước, dẫn tới coi nhẹ công tác kế hoạch hoá. Từ coi nhẹ công tác kế hoạch hoá dẫn tới coi nhẹ công tác thông tin (trước 1990, do quy chế hoạt động của các ngành, các cấp, thông tin được thu thập nhiều và phổ biến khá rộng trong các cấp, nhất là ở cấp trung ương, những người làm chính sách, làm kế hoạch. Nay vừa không có, vừa phải bỏ tiền ra mua). Mấy điểm nổi bật:
- Tự do hoá mạnh năm 1989-91, kể cả tự do hoá tài chính, tăng lãi suất và phá giá mạnh nội tệ, tự do hoá sản xuất cây con, xây dựng nhà cửa... Nhiều người cho là tình trạng vô chính phủ. Đến năm 1995, gần như không điều khiển được nền kinh tế mà chạy theo dẫn dắt của các quy luật thị trường.
- Mặt khác, tập trung công sức xây dựng hàng loạt đạo luật làm cơ sở cho KTTT. Đến năm 1994-95, đã cơ bản xây dựng được một hệ thống luật như trong các nền KTTT trên thế giới, dù chưa hoàn thiện.
Kết quả: Sản xuất đi lên, tỷ lệ lạm phát giảm,... Kể rõ thêm về những thành tựu trong lĩnh vực sản xuất.
Song chứa rất nhiều mâu thuẫn lớn, nguy cơ mất cân đối cao, đến lúc nào đó sẽ bùng nổ, gây tác hại to lớn cho nền kinh tế và toàn xã hội.
Ví dụ: + Cơ cấu đầu tư chưa hợp lý, cả về nguồn lẫn sử dụng.
+ Phương hướng sản xuất kém hiệu quả: PT thay thế nhập khẩu, tăng bảo hộ. Tập trung sản xuất những ngành không thương mại quốc tế được, giá thành cao, mất sức cạnh tranh. Chọn ngành mũi nhọn song lại chỉ tập trung sắm máy móc thiết bị; chọn mang tính hình thức, chưa chú trọng đầu tư để phát triển vượt lên, đi tắt đón đầu... Bỏ các ngành sử dụng nhiều lao động là lợi thế của ta...
+ Tỷ giá được giữ cố định quá lâu, sản phẩm mất dần sức cạnh tranh.
+ Do say sưa với thành tích 1991-1995, đã không nghiên cứu tỉnh táo, dẫn tới nóng vội trong điều chỉnh chiến lược 10 năm 1991-2000: Từ mục tiêu ổn định, phát triển bền vững, sang mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá. 1996-2000 GDP tăng 9-10% / năm, vốn đầu tư tăng gấp hai lần kế hoạch 5 năm trước...
(3) Giai đoạn từ năm 1995-96 đến nay: Trở lại nhận thức vai trò to lớn của công tác kế hoạch hoá. Nếu không có kế hoạch hoá tốt, thì càng phát triển nhanh, càng nhiều nguy cơ mất cân đối và rơi vào khủng hoảng. Nhiều vấn đề xã hội, môi trường sẽ không thể giảI quyết được nếu không có sự quản lý theo kế hoạch của Nhà nước.
- Từ năm 1996 đã bắt đầu phơi bày những yếu kém của ta trong mọi hoạt động kinh tế. Các yếu kém càng rõ qua tác động của khủng hoảng kinh tế châu á.
Do đó đã nhận thức thấy phải củng cố công tác kế hoạch hoá.
- Đã cải tiến cơ bản công tác KHH (công khai, dân chủ, có trọng tâm, có tính khoa học… sau này sẽ nói chi tiết)
- Đang xây dựng Luật KHH.
- Các yếu tố phục vụ công tác xây dựng và điều hành KH đã được hoàn thiện, nhất là hệ thống số liệu thống kê, quy trình kế hoạch; chính phủ điều hành theo KH; sau mỗi Nghị quyết... có chương trình hành động với các nhiệm vụ, giải pháp, tiến độ cụ thể...
Thực tế cho thấy việc phân tích, dự báo trước và chuẩn bị trước các KH có vai trò rất quan trọng để duy trì, nâng cao tốc độ phát triển kinh tế, xã hội.
Kết luận: Phải có chiến lược, quy hoạch, kế hoạch tốt. Từ đây đòi hỏi phải có hệ thông thông tin tốt cho ngành kế hoạch. Bộ Kế hoạch và Đầu tư bắt đầu triển khai dự án xây dựng hệ thống thông tin phục vụ công tác kế hoạch hoá với sự giúp đỡ của cộng đồng châu Âu.
2) Những thành tựu đạt được trong lĩnh vực kế hoạch hoá
Từ giữa những năm 80, cùng với đổi mới kinh tế nói chung, công tác KHH KTQD cũng có những đổi mới hết sức mạnh mẽ và cơ bản cả về nội dung, phương pháp lẫn cách thức xây dựng và điều hành các chiến lược và kế hoạch dài hạn phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch phát triển ngành và vùng, kế hoạch định hướng phát triển KT-XH 5 năm, các chương trình mục tiêu quốc gia và hệ thống các kế hoạch hàng năm.
Về bản chất, quá trình đổi mới toàn diện công tác KHH là chuyển từ KHH tập trung quan liêu bao cấp sang KHH nền KT PT dựa trên cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Đặc biệt, trong quá trình chuyển đổi KT, công tác KHH dù có lúc đã bị coi nhẹ, nhưng vẫn rất cần thiết. KHH đã cơ bản được đổi mới để phù hợp với điều kiện mới và nhu cầu mới; trước hết là huy động sự tham gia của người dân. Tính khoa học, dân chủ tăng lên rõ rệt.
Những thành tựu của công tác KHH đã được nhiều thế hệ lãnh đạo cao cấp của đất nước đánh giá cao.
Trong dịp kỷ niệm 40 năm ngày thành lập Uỷ ban KHNN (10/1995, TT Võ Văn Kiệt đã đánh giá: "Sau gần 10 năm đổi mới, đã xoá bỏ một phần quan trọng cơ chế KHH tập trung, hình thành bước đầu những đường nét của nền KT vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch và các chính sách khác. Mặc dù mô hình KHH mới - KHH hướng dẫn gắn với vận dụng nguyên tắc thị trường - còn chưa hoàn thiện, nhưng đã bắt đầu phát huy tính đúng đắn trong sự nghiệp PT KT XH... Nhờ đó, đã góp phần quan trọng hoàn thành toàn diện và vượt mức các mục tiêu KH chủ yếu đã đề ra về tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước, phát triển SX nông nghiệp, tăng kim ngạch XK, huy động vốn đầu tư trong nước và nước ngoài, kiềm chế lạm phát, ổn định giá trị tiền tệ, thu hẹp mất cân đối ngân sách, giảm tỷ lệ tăng trưởng dân số, cải thiện đời sống của phần lớn hộ gia đình".
Trong dịp kỷ niệm 55 năm ngày thành lập Ngành Kế hoạch và ngành KH đón nhận Huân chương Sao vàng (11/2000), TT Phan Văn Khải đã đánh giá: Ngành kế hoạch đã làm tốt chức năng tham mưu tổng hợp của Đảng và Nhà nước về chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và cơ chế, chính sách phát triển kinh tế, xã hội, vừa là công cụ quan trọng để quản lý kinh tế theo định hướng XHCN, vừa phát huy vai trò hướng dẫn, giúp đỡ nhân dân và các doanh nghiệp phát triển sản xuất, kinh doanh”.
(còn một số đoạn)
Có thể tóm tắt những kết quả làm được của ngành KH trong những năm qua như sau: Đổi mới tư duy quan niệm về Nhà nước trong nền KTTT định hướng XHCN. Điều này rất quan trọng vì bản chất, nội dung của KHH phụ thuộc vào vai trò của Nhà nước trong nền KTTT.
- Nhà nước tập trung vào xây dựng khung khổ pháp luật để mọi công dân, doanh nghiệp tự do hoạt động, kinh doanh theo pháp luật.
- Nội dung của KHH không chỉ khoanh trong phạm vi khu vực kinh tế Nhà nước mà được mở rộng cho toàn bộ nền KTQD, manh tính hệ thống. Hiện nay đã xuất hiện nhiều thành phần kinh tế khác với tỷ trọng, vai trò ngày càng tăng trong tạo việc làm, sản xuất, giảm nghèo. Để phù hợp, kế hoạch đã ngày càng mang tính dân chủ và công khai hơn.
- Đổi mới tư duy theo hướng phân cấp, tản quyền theo nguyên tắc những hoạt động gắn với quyền lợi của người dân phải do cấp chính quyền gần dân nhất thực hiện. Chính quyền cấp trên chỉ thực hiện những nhiệm vụ có quy mô lớn, cấp dưới không làm được, và những vấn đề có tính chất liên ngành, liên vùng phức tạp.
- Kế hoạch chủ yếu mang tính dự báo, giảm tính pháp lệnh. Tính khoa học của kế hoạch ngày càng cao hơn nên việc thực hiện đạt kết quả tốt hơn.
- Kế hoạch có sự tham gia toàn diện của người dân, từ khâu lập kế hoạch đến triển khai thực hiện và giám sát thực hiện kế hoạch.
Một số kết quả cụ thể là:
(1) Đã xây dựng được chiến lược PT KT-XH, coi CL PT KT-XH là định hướng cơ bản của kế hoạch dài hạn.
Nét nổi bật: KHH đã chuyển dần từ KHH pháp lệnh sang KHH định hướng với việc tập trung mọi nỗ lực vào xây dựng chiến lược PT KT-XH và xây dựng các quy hoạch PT.
Thực tế: Ngay từ năm 1984-85, chúng tôi đã học tập TQ khi họ xây dựng chiến lược phát triển tới 20 năm: 1981-2000, chương trình 4 hiện đại hoá với mục tiêu tăng GDP đầu người 4 lần. Do đó, ngay từ năm 1984-85 đã nghiên cứu kế hoạch đến 2000 và xa hơn đến năm 2020 (Tố Hữu). Tuy nhiên, cơ sở khoa học lúc đó thấp, thông tin thiếu, tư duy hạn chế, và đặc biệt nguồn lực không chủ động được.
Mặc dù vậy, từ kết quả nghiên cứu trên, đã rút ra nhiều kinh nghiệm, tiến tới đã xây dựng được chiến lược 10 năm 1991-2000. Đây là lần đầu tiên nước ta có chiến lược dài hạn 10 năm với mục tiêu, biện pháp rõ ràng, có nêu các cân đối lớn định lượng và cách xử lý. Đại hội Đảng lần thứ VII (1991) đã thông qua chiến lược này, gọi là Chiến lược ổn định và phát triển KT-XH.
Đến đại hội VIII, đã điều chỉnh lại chiến lược với mục tiêu mới: đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, tăng GDP đầu người gấp 2 lần sau 10 năm.
Đây là việc phối hợp CL với quy hoạch, giữa QH với KH trung hạn và ngắn hạn trong hệ thống KHH vì sau 5 năm, tình hình mới nên điều chỉnh lại.
Tiếp đến đã xây dựng được Chiến lược 2001-2010 với nội dung sâu sắc hơn.
Hiện nay đã bắt tay vào xây dựng Chiến lược 10 năm 2011-2020, tầm nhìn 2030, 2045, 2050 với dự kiến nhiều tên gọi khác nhau tuỳ quy mô.
(2) Đã tăng cường công tác quy hoạch phát triển ngành và vùng.
Theo quan điểm thời KHH tập trung, làm phân bố LLSX, lập tổng sơ đồ PBLLSX chi tiết. Nay không làm PBLLSX, thực sự chuyển sang làm quy hoạch phát triển ngành, vùng lãnh thổ. Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ VII đã khảng định nội dung quy hoạch của công tác KHH như sau: "Tập trung sức xây dựng chiến lược và quy hoạch PT, xây dựng các chương trình, dự án lớn trong cả nước và cho từng ngành, từng vùng, từng lĩnh vực". Hiện nay, phê  phán lãng phí tập trung vào công tác quy hoạch, nhưng giải trình của Bộ KH thì cho rằng quy hoạch cơ bản là tốt, song triển khai thực hiện không tốt (do nhiều nguyên nhân, nhất là thiếu vốn để thực hiện đúng quy hoạch) nên hiệu quả kém. Quy hoạch kém chủ yếu là quy hoạch phát triển các KCN, KCX
Trong khoảng 17 năm qua (1990-2007), NN đã tập trung xây dựng quy hoạch một số ngành như điện lực, năng lượng, bưu chính viễn thông, giao thông vận tải, các khu công nghiệp, khu chế xuất... tạo điều kiệncho sự phát triển chung của toàn nền kinh tế. Một số quy hoạch khác như đất đai đã được xây dựng khá chi tiết, đang được được hoàn thiện.
Về quy hoạch các cực phát triển, đã bước đầu hình thành các vùng kinh tế trọng điểm ở miền Bắc, miền Nam và miền Trung với các trung tâm lớn (HN, ĐN, HCM, Cần Thơ...). Đã hình thành một số cụm cảng biển. Liên kết giữa các vùng được chú trọng. Các trục Bắc Nam (đường sắt, đường bộ) đang chuẩn bị được triển khai... Đây là những khu vực phát triển nhanh, thu hút được nhiều nhà đầu tư nước ngoài, có tác dụng thúc đẩy, lôi kéo các vùng lân cận phát triển, trở thành vệ tinh của các cực phát triển trên, từ đó làm thay đổi bộ mặt kinh tế xã hội từng vùng và cả nước.
Đến nay, đã xây dựng và thẩm định xong quy hoạch tổng thể của tất cả 64 tình, thành phố trực thuộc trung ương, và quy hoạch phát triển KT-XH của 11 vùng, gồm 3 vùng KT trọng điểm ở ba miền và 8 vùng lớn: Đông bắc, Tây bắc, Đồng bằng sông Hồng, Bắc Trung bộ, Duyên hải Nam trung bộ, Tây nguyên, Đông nam bộ, Đồng bằng sông Cửu long (Tây Nam Bộ). TTCP cũng đã phê duyệt quy hoạch phát triển cơ sở hạ tầng các vùng, các khu công nghiệp và các công trình cần kêu gọi vốn ODA, FDI, tạo điều kiện thuận lợi cho việc huy động vốn đầu tư nước ngoài... Tại tất cả các hội nghị các nhà tài trợ, các hội nghị kêu gọi vốn FDI, danh sách các dự án đều được đưa ra để các nhà đầu tư lựa chọn đầu tư.
Chương trình đầu tư công cộng được xây dựng 5 năm 1 lần đều bám sát các quy hoạch phát triển ngành và vùng
(3) Đã chuyển dần trong tâm từ xây dựng KH hàng năm sang xây dựng KH 5 năm với chủ trương chuyển dần sang điều hành theo kế hoạch hoá phát triển 5 năm
a) Điều kiện thuận lợi:
Trước xây dựng KH hàng năm, không có KH 5 năm. Nguyên nhân: Phát triển phụ thuộc vào vốn ĐT, nhưng trước 90, ta không có tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế, toàn bộ vốn được nhập khẩu từ nước ngoài, chủ yếu là từ Liên xô cũ. Nguồn vốn này chỉ được bạn công bố hàng năm sau các chuyến đàm phán năm trước, phụ thuộc vào khả năng từng lúc của phía bạn. Do không chủ động nguồn vốn nên không thể KHH dài hạn được.
Từ sau năm 1990: Hơn một nửa nguồn vốn là từ tích luỹ trong nội bộ nền kinh tế. Nguồn vốn ODA cũng tương đối rõ vì phục vụ các dự án 5 năm. đến nay, chỉ còn khoảng 15-20% vốn bấp bênh là từ vốn FDI. Do đó có thể làm KHH chi tiết tới 5 năm.
Các nguyên nhân khác: Kinh tế đã thoát khỏi khủng hoảng, đi vào nề nếp ổn định nên làm KH 5 năm được. Ta lại đã làm được chiến lược và quy hoạch phát triển. Đã có kinh nghiệm sau 1 số lần thử xây dựng KH 5 năm.
b) Nội dung:
Trên cơ sở CL PT KT-XH và QH PT, các kế hoạch 5 năm 91-95, 96-00, 2001-2005 và 2006-2010 đã được xây dựng với các phương pháp và nội dung rất mới sau:
- Tăng cường KHH vĩ mô trên cơ sở xây dựng các chỉ tiêu của KT thị trường (GDP...), chú trọng công tác dự báo KT vĩ mô, đề cao vai trò của các chỉ tiêu phản ảnh các lĩnh vực xã hội, khoa học và công nghệ;
- Từng bước, tiến tới xoá bỏ KHH mệnh lệnh, giảm tối thiểu các chỉ tiêu pháp lệnh, chuyển sang KHH định hướng (từ hàng trăm xuống 40 vào đầu thập kỷ 90, nay cơ bản hết, chỉ còn một số chỉ tiêu về ngân sách).
- Xây dựng và triển khai thực hiện các chương trình và dự án quốc gia,
- Chú trọng xây dựng cơ sở hạ tầng KT-XH
- Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại và hợp tác quốc tế
- Một đặc trưng rất quan trọng của các KH 5 năm qua là đã lượng hoá được nhiều chỉ tiêu. Đã có những giải pháp đi kèm rõ ràng để điều hành thực hiện KH, đảm bảo các cân đối lớn về hiện vật và giá trị.
Tuy nhiên, các KH 5 năm 1991-1995 và 1996-2000 đều là KH 5 năm định hướng. Chỉ từ năm 2001, chúng ta mới xây dựng được KH 5 năm tương đối chi tiết, nhất là KH 5 năm 2006-2010.
- KH hàng năm chỉ còn là KH điều hành, điều chỉnh các chính sách KT để đảm bảo tính cân đối, dài hạn trong quá trình phát triển. Trong KH hàng năm, đã chú trọng đến những cân đối lớn, trong đó đặc biệt chú trọng tới cân đối sản xuất - tiêu dùng, cân đối tài chính - tiền tệ, cân đối cán cân thanh toán quốc tế, cân đối ngân sách và cân đối vốn đầu tư toàn xã hội. Đặc biệt, đã xây dựng được chính sách tài khoá, chính sách tiền tệ và chính sách tỷ giá phù hợp với quá trình phát triển hàng năm, trở thành nhân tố quan trọng đối với duy trì ổn định kinh tế vĩ mô.
Thực tế nước ta đã chứng tỏ tư tưởng đổi mới trong điều hành kế hoạch từ can thiệp vi mô sang chú trọng các vấn đề vĩ mô, các cân đối lớn, đã có hiệu quả và ngày càng phát huy tác dụng.
(4) Đã tập trung xây dựng và thực hiện các dự án và chương trình mục tiêu
KH 5 năm là KH định hướng, còn để thực hiện, cần phải cụ thể hoá bằng các chương trình mục tiêu nhằm tháo gỡ, giải quyết những vấn đề khó khăn nhất, những điểm thắt nút trong nền kinh tế, từ đó tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, các vùng, ngành phát triển.
Các nguyên tắc cơ bản để xác định danh mục và nội dung các CTMTQG là:
- Tập trung xử lý những vấn đề bức xúc, có tính chất cấp bách, liên ngành, liên vùng và có tầm quan trọng đối với sự phát triển của toàn hệ thống KTXH chung của đất nước, cần có sự chỉ đạo tập tung, kiên quyết của Chính phủ, cần tập trung nguồn lực của quốc gia để sớm giải quyết một cách cơ bản.
- Mục tiêu của các CTMTQG phải rõ ràng, lượng hóa được để có thể giám sát, đánh giá, và phải nằm trong Chiến lược chung của quốc gia. Chỉ tiêu, chỉ số phải cụ thể, dễ kiểm tra, giám sát, kiểm điểm tình hình thực hiện.
- Thời gian thực hiện mỗi Chương trình cần ít nhất 5 năm.
- Nội dung các CTMTQG không trùng lắp với nhiệm vụ thường xuyên của các Bộ, ngành, không trùng lắp nội dung với các chương trình, dự án khác.
- Tiêu chí phân bổ kinh phí được xây dựng căn cứ theo nhiệm vụ, mục tiêu của từng CTMTQG cụ thể.
Việc xây dựng, thực hiện các CTMTQG của ta hoàn toàn phù hợp với xu thế chung của thế giới. Để nâng cao hiệu quả các nguồn tài chính dành cho phát triển, cần thường xuyên đổi mới các thể chế hỗ trợ liên quan. Các cơ chế mới để giải quyết vấn đề phát triển thường mang tính đơn, tức là chỉ tập trung giải quyết 1 vấn đề cụ thể, trong khi các cơ chế cũ ôm đồm nhiều mục tiêu, nhiều kỳ hạn. Ví dụ trước đây tổ chức ra Chương trình phát triển của Liên hợp quốc (UNDP) với quá nhiều chức năng...; nay tổ chức Qũy Toàn cầu về chống HIV/AIDS, Qũy Toàn cầu về chống sốt rét... Nhiều cơ chế mới, thể chế mới có thời gian tồn tại cụ thể trong khi các cơ chế cũ không được xác định khi nào thì kết thúc.
Danh mục các CTMTQG đã thực hiện trong thời gian qua, dự kiến thời gian tới:
a) Trong KH 96-2000, chúng ta đã triển khai 22 chương trình quốc gia. Năm 1996, Quốc hội đã thông qua danh mục 16 CTQG và tại Quyết định số 985/Ttg ngày 30/12/1996, TTCP đã giao chỉ tiêu kế hoạch cho các Bộ, Địa phương thực hiện. 16 CTQG do Quốc hội thông qua là:
   1- CT 327      2- CT 773      3. CT Giáo dục - Đào tạo    4- CT Giải quyết việc làm
   5- CT Chăm sóc sức khoẻ   6- CT Văn hoá          7 CT Dân số và KHH Gia đình
   8- CT Công nghệ Thông tin                        9- CT Phủ sóng phát thanh
   10- CT Phủ sóng truyền hình                     11- CT Phòng chống tệ nạn mãi dâm
   12- CT Phòng chống ma tuý                       13- CT bảo vệ và chăm sóc trả em
   14- CT Hỗ trợ đồng bào dân tộc đặc biệt khó khăn
   15- CT Phòng chống HIV/AIDS                 16- CT Xoá đói giảm nghèo
và các Bộ đề nghị thực hiện thêm 6 chương trình:
   1- CT Công nghệ tự động hoá                     2- CT Công nghệ Vật liệu
   3- CT Công nghệ sinh học              4- CT Nước sạch và vệ sinh môi trường
   5- CT Thể thao
6- CT định canh định cư (chương trình này tuy không đưa vào danh sách do Quốc hội thông qua, nhưng đã được thực hiện liên tục trong nhiều năm qua
Các CTMT quốc gia thường có mối liên hệ liên ngành, liên vùng, dựa trên phương pháp cân đối và quan điểm hệ thống, nên việc thực hiện đã có tác dụng thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu và hình thành cơ cấu KT mới. Năm 2000, Bộ KH-ĐT đã chủ trì tổng kết tình hình thực hiện các CTQG và thấy đa số các CT đã có hiệu quả tốt.
Vốn của các CTMTQG được thực hiện theo cơ chế NS trung ương hỗ trợ theo mục tiêu cho NS ĐP, bao gồm cả vốn đầu tư phát triển và vốn sự nghiệp kinh tế.
b) Căn cứ Nghị quyết số 39/2000/QH10 ngày 9/12/2000 của Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ 8, TTCP đã có quyết định số 71/2001/QĐ-TTg ngày 4/5/2001 phê duyệt các Chương trình mục tiêu quốc gia thực hiện trong kế hoạch 5 năm 2001-2005, bao gồm 7 chương trình MT quốc gia sau:
- CTMTQG xoá đói, giảm nghèo và việc làm (hợp nhất cả chương trình 135, định canh định cư, hỗ trợ đồng bào dân tộc đặc biệt khó khăn, xây dựng trung tâm cụm xã);
- CTMTQG Dân số và KHH gia đình;
- CTMTQG Nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn;
- CTMTQG Phòng chống một số bệnh xã hội, bệnh dịch nguy hiểm và HIV/AIDS (gọi tắt là CTMTQG về Y tế);
- CTMTQG về Văn hoá;
- CTMTQG về Giáo dục - đào tạo;
- CTMTQG Phòng chống tội phạm (bổ sung năm 2005).
- Ngoài ra, còn chương trình trồng mới 5 triệu ha rừng tiếp tục triển khai như một CTMTQG.
Bên cạnh đó, Chính phủ vẫn quyết định chi ngân sách cho một số chương trình mục tiêu không xếp vào danh sách các chương trình MTQG:
- CT về TDTT;                                                 - CT phòng chống tội phạm;
- CT phòng chống ma tuý;                             - CT phòng chống mãi dâm;
- CT bảo vệ và chăm sóc trẻ em;                   - CT nâng cấp trang thiết bị y tế;
- CT hỗ trợ phát triển thuỷ sản
Vốn của các CT khác không nằm trong 7 CTMTQG nói trên sẽ được lấy từ chi hoạt động thường xuyên của các Bộ, ngành, địa phương.
Ngoài ra, ngày 28/12/2000, TTCP có quyết định số 151/2000/QĐ-TTg phê duyệt chương trình hành động phòng, chống tệ nạn mãi dâm giai đoạn 2001-2005; ngày 26/2/2001 quyết định số 23/2001/QĐ-TTg phê duyệt chương trình hành động quốc gia vì trẻ em Việt nam giai đoạn 2001-2010.
Sau 5 năm thực hiện, các CTMTQG đã thu được những kết quả rất tích cực. Bộ KH&ĐT đã thay mặt Chính phủ báo cáo Quốc hội kết quả thực hiện các CTMTQG trên tại kỳ họp Quốc hội cuối năm 2006 vừa qua.
c) Trong kế hoạch 2006-2010, Quốc hội đã phê duyệt danh mục 11 chương trình mục tiêu quốc gia là:
- CTMTQG Phòng chống tội phạm;
- CTMTQG Phòng chống ma tuý;
- CTMTQG Nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn;
- CTMTQG Phòng chống một số bệnh xã hội, bệnh dịch nguy hiểm; phòng chống HIV/AIDS (gọi tắt là CTMTQG về Y tế);
- CTMTQG về Vệ sinh an toàn thực phẩm;
- CTMTQG về Giảm nghèo;
- CTMTQG về Việc làm;
- CTMTQG về Dân số và KHH gia đình;
- CTMTQG về Văn hóa;
- CTMTQG về Giáo dục - Đào tạo;
- CTMTQG về Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả.
Trong mỗi CTMTQG, đều nêu rõ sự cần thiết, mục tiêu chung và các mục tiêu cụ thể, các nhiệm vụ cụ thể, danh mục các dự án hoạt động, cơ chế quản lý...
Trong kế hoạch 5 năm 2006-2010, sẽ tập trung thực hiện và quản lý các CTMTQG theo hướng:
- Nâng cao tính định hướng của Chương trình, thể hiện rõ được vị thế và giá trị khác biệt của CTMTQG so với các chương trình hoặc nhiệm vụ thường xuyên của Bộ, ngành... nhằm đầu tư có mục tiêu rõ ràng, tập trung, tránh dàn trải hoặc trùng lắp;
- Tăng thêm quyền tự chủ thực hiện CTMTQG cho chính quyền địa phương;
- Quy định rõ tiêu chí phân bổ vốn của các Chương trình, dự án trong mỗi CTMTQG. Tiêu chí phân bổ vốn của các Chương trình MTQG đã được nêu trong Quyết định 210 tháng 9/2006 của TTCP.
- Công khai thông tin, đảm bảo công bằng giữa các địa phương và đảm bảo vốn được phân đúng mục tiêu và đối tượng. Tăng cường sự tham gia của người dân và chính quyền cơ sở trong việc lựa chọn dự án ưu tiên, lập kế hoạch đầu tư, triển khai thực hiện và theo dõi, giám sát, đánh giá.
- Tăng cường sự liên kết giữa các kế hoạch phát triển của địa phương với các mục tiêu / dự án / hoạt động của các CTMTQG.
(5) Đổi mới hệ thống chỉ tiêu kế hoạch
Sau 20 năm đổi mới, hệ thống chỉ tiêu kế hoạch pháp lệnh đã được rút gọn đáng kể. Đã cơ bản bỏ hệ thống các chỉ tiêu pháp lệnh về lượng, chỉ giữ lại một số mặt hàng cân đối lớn, hàng hóa quan trọng nhất nhằm ổn định cung cầu. Hệ thống chỉ tiêu về thu chi ngân sách Nhà nước và phân bổ vốn đầu tư XDCB thuộc nguồn vốn NSNN cũng được đơn giản hoá. Ví dụ trong Quyết định của TTCP về một số chủ trương, biện pháp điều hành thực hiện KH PT KT XH và dự toán Ngân sách NN năm 2007, hệ thống chỉ tiêu giao kế hoạch vĩ mô chỉ còn một số nhóm sau:
a) Nhóm các chỉ tiêu do TTCP giao cho các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc CP, các tổng công ty 91:
- Xuất nhập khẩu: Tổng kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu (giao cho Bộ Thương mại).
- Hàng hoá, vật tư, thiết bị chủ yếu tăng dự trữ quốc gia: Thóc, gạo, thiết bị, vật tư, nhà bạt cứu sinh, phương tiện cứu hộ, cứu nạn, hàng chuyên dùng cho quốc phòng, an ninh và một số ngành.
- Đầu tư XDCB:
+ Vốn ĐTXDCB tập trung:
* Tổng mức vốn ĐTXDCB tập trung, chia ra vốn trong nước và vốn ngoài nước, vốn thực hiện dự án;
* Danh mục dự án và mức vốn đầu tư các dự án nhóm A, trong đó có phần vốn trong nước và vốn ngoài nước.
+ Vốn tín dụng ưu đãi của Nhà nước:
* Nguồn vốn, tổng mức vốn tín dụng ĐT PT phân theo các hình thức hỗ trợ đầu tư, theo cơ cấu ngành, lĩnh vực, vùng (giao cho Quỹ Hỗ trợ PT thực hiện).
* Danh mục và mức vốn tín dụng ĐT đối với các dự án nhóm A khởi công mới trong năm 2001.
- Tài chính:
+ Tổng thu ngân sách NN (giao cho Bộ Tài chính);
+ Tổng chi Ngân sách và các khoản chi theo lĩnh vực, trong đó có chi cho các chương trình mục tiêu;
+ Tổng mức thu thuế XK, thuế NK, thuế tiêu thụ đặc biệt đối với hàng nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng đối với hàng nhập khẩu, thu chênh lệch giá hàng hoá nhập khẩu (giao cho Tổng cục Hải quan).
b) Nhóm các chỉ tiêu do TTCP giao cho các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (có biểu kèm theo):
- ĐT XDCB:
+ Tổng mức vốn ĐT XDCB tập trung, trong đó: vốn trong nước và vốn ngoài nước; trong đó: vốn thực hiện dự án.
+ Tổng mức mức vốn đầu tư của các dự án nhóm A và danh mục các dự án thuộc nhóm A, trong đó chia ra vốn trong nước và vốn ngoài nước (gồm cả vốn đối ứng ODA);
+ Danh mục các dự án nhóm A khởi công mới.
- Tài chính:
+ Tổng số thu Ngân sách NN trên địa bàn và chi tiết các khoản thu sau: thuế tiêu thụ đặc biệt hàng sản xuất trong nước (trừ thuế TTĐB NSĐP được hưởng 100%), thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt đối với hàng nhập khẩu, tổng các khoản thu phân chia giữa ngân sách TW và NSĐP (đối với các tỉnh có tỷ lệ phân chia các khoản thu này).
+ Tổng số chi ngân sách địa phương, trong đó có phần chi cho các chương trình quốc gia, trong đó: chi đầu tư CSHT các xã đặc biệt khó khăn, miền núi, vùng sâu, vùng xa; dự án trồng mới 5 triệu ha rừng.
+ Bổ sung từ ngân sách trung ương (nếu có).
c) Nhóm các chỉ tiêu TTCP ủy quyền cho Bộ trưởng Bộ KH và ĐT giao:
+ Hướng dẫn các các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, các cơ quan khác ở Trung ương, các TĐKT, các TCT 91 các chỉ tiêu kế hoạch về sản xuất, xuất nhập khẩu, lưu thông vật tư hàng hoá, giáo dục, đào tạo, khoa học công nghệ, nhiệm vụ điều tra cơ bản, văn hoá và xã hội nhằm bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế quốc dân thực hiện theo đúng định hướng kế hoạch đề ra. Hiện nay số chỉ tiêu hướng dẫn này còn rất ít.
+ Hướng dẫn về nhiệm vụ của từng chương trình mục tiêu quốc gia và nguồn vốn.
+ Giao cho các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, các cơ quan khác ở Trung ương, các TĐKT, các TCT 91:
* Vốn thực hiện dự án chia theo ngành và lĩnh vực, vốn trong nước, nước ngoài.
* Vốn từng CTMTQG, chương trình 135, dự án trồng mới 5 triệu ha rừng (bao gồm vốn đầu tư phát triển và vốn sự nghiệp); các mục tiêu và nhiệm vụ chủ yếu của từng chương trình, dự án.
* Vốn hỗ trợ có mục tiêu cho các nhiệm vụ khác đã được Chính phủ trình Quốc hội quyết định.
* Vốn thiết kế quy hoạch, vốn chuẩn bị đầu tư.
+ Giao cho các địa phương:
* Dự toán chi bổ sung có mục tiêu từ NSTW cho ngân sách tỉnh, thành phố trực thuộc TW theo từng CTMTQG, chương trình 135, dự án trồng mới 5 triệu ha rừng (bao gồm vốn đầu tư phát triển và vốn sự nghiệp); các mục tiêu, nhiệm vụ chủ yếu và vốn của từng chương trình, dự án khác đã được Chính phủ trình Quốc hội quyết định.
+ Vốn cho công tác thiết kế quy hoạch, vốn chuẩn bị đầu tư, cơ cấu vốn đầu tư dự án theo một số ngành, lĩnh vực quan trọng.
d) Nhóm các chỉ tiêu TTCP ủy quyền cho Bộ trưởng Bộ Tài chính giao:
+ Dự toán chi NSNN cho các địa phương (vốn sự nghiệp) nhằm thực hiện các CTMTQG, ương trình 135, dự án trồng mới 5 triệu ha rừng, chi tiết cho từng chương trình, dự án của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, các cơ quan khác ở Trung ương, các TĐKT, các TCT 91
+ Dự toán chi sự nghiệp bảo vệ môi trường cho các tỉnh, thành phố trực thuộc TW.
+ Dự toán chi đào tạo cán bộ KHKT ở nước ngoài;
+ Dự toán chi chi bổ sung (vốn sự nghiệp) có mục tiêu từ NSTW cho ngân sách từng tỉnh, thành phố trực thuộc TW theo từng mục tiêu, nhiệm vụ đã được Chính phủ trình Quốc hội quyết định.
+ Hướng dẫn các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, các cơ quan khác ở Trung ương, các TĐKT, các TCT 91 các chỉ tiêu thu, chi NSNN bao gồm cả dự toán chi cho các chương trình quốc gia, CT mục tiêu nhằm đảm bảo thực hiện dự toán NSNN đã được QH thông qua và TTCP giao.
Phần lớn các chỉ tiêu kế hoạch hiện nay là chỉ tiêu giá trị. Bên cạnh các nhóm chỉ tiêu kế hoạch trên, Nhà nước còn duy trì một số cân đối hiện vật thiết yếu nhất. Hệ thống cân đối hiện vật thiết yếu vẫn tỏ ra rất cần thiết cho việc ổn định kinh tế -xã hội nước ta.
 Trong cân đối kế hoạch 2007, chúng ta đã đề ra các cân đối sau:
- Xăng dầu
-


(6) Đổi mới quy trình lập kế hoạch
Quy trình lập KH đã có những thay đổi căn bản như sau:
- Hình thức giao số kiểm tra được thay bằng việc cung cấp các thông tin cần thiết nhằm hướng dẫn các ngành, địa phương và các đơn vị cơ sở xây dựng, tổng hợp kế hoạch theo hướng mục tiêu chung của Nhà nước. Trước hết là khung kế hoạch và các thông tin Bộ KHĐT cung cấp tại hội nghị ngành kế hoạch bàn về xây dựng kế hoạch.
Bên cạnh việc cung cấp những thông tin hướng dẫn, Bộ KH và ĐT còn cử các đoàn cán bộ đến nhiều địa phương để hỗ trợ, giúp đỡ và giải quyết những khó khăn vướng mắc mà các địa phương gặp phải trong quá trình xây dựng, tổng hợp kế hoạch. Phương thức KHH mới này đã hạn chế những áp đặt hành chính chủ quan của cấp trên đối với cấp dưới, phát huy được tính chủ động, sáng tạo của cơ sở, các ngành, các cấp chính quyền địa phương trong việc lập và thực hiện kế hoạch. Đây là 1 bước tiến lớn trong quá trình xây dựng KH khi chuyển sang KT thị trường.
- Quy trình lập KH có thời gian biểu, nội dung rõ ràng từ trung ương đến cơ sở, đảm bảo quá trình KHH diễn ra đúng tiến độ và nội dung cần thiết.
- Trong XD và TH KH, đã ngày càng chú trọng đến KHH các vấn đề xã hội như khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, văn hoá và thông tin, y tế, xã hội, thể dục thể thao, xoá đói giảm nghèo... mà trước đây thường bị coi nhẹ, và không gắn với kế hoạch phát triển kinh tế.
Bộ trưởng KHĐT thường đòi hỏi đặt KHH lĩnh vực xã hội ngang tầm với KHH phát triển kinh tế. Kỹ thuật KHH lĩnh vực xã hội cũng đã phát triển nhanh chóng.
Đặc biệt, từ kế hoạch 5 năm 2006-2010, vấn đề môi trường được tách riêng, ngang hàng với vấn đề KT và vấn đề XH.
- Chú trọng phối hợp ở tầm quốc tế thông qua xây dựng kế hoạch thực hiện các mục tiêu phát triển thiên nhiên kỷ của Liên hợp quốc.
- Tăng cường áp dụng các công cụ của kinh tế thị trường trong công tác KHH: Xây dựng hệ thống thông tin phù hợp với chuẩn mực quốc tế, áp dụng các chỉ tiêu KT thị trường, áp dụng kỹ thuật KHH thị trường, áp dụng mô hình toán kinh tế...
Ngoài xu hướng giá trị hoá các chỉ tiêu kế hoạch và cân đối kinh tế quốc dân, trọng tâm của các chỉ tiêu kê hoạch còn là quá trình dịch chuyển dần từ kế hoạch hoá vi mô sang điều tiết kinh tế vĩ mô và các chỉ tiêu xã hội.
Bộ trưởng Bộ KH&ĐT thường rất nhấn mạnh KHH các chỉ tiêu xã hội và môi trường, vì phát triển xã hội và môi trường là mục tiêu cuối cùng của mọi quá trình phát triển kinh tế. Trong các báo cáo, phần XH, MT sẽ dần dần được viết dài, chi tiết, trong khi phần kinh tế sẽ được thu hẹp lại. Đên một lúc chín muồi, trong một số báo cáo của Chính phủ, đã đưa vấn đề xã hội, môi trường lên trên phần phát triển kinh tế. Đa số các hội thảo quốc tế với các tổ chức tài chính đều tập trung vào các vấn đề xã hội và môi trường như dân số, việc làm, môi trường, giáo dục đào tạo, y tế, tài nguyên nước, rừng...
- Quy trình lập kế hoạch luôn luôn tính đến sự tham gia của người dân, nhà đầu tư, doanh nghiệp, nhà khoa học… Kế hoạch được công khai cả với nước ngoài, đưa lên báo chí, lên mạng.
Trong xây dựng Chiến lược 10 năm 2011-2020, Bộ trưởng Bộ KH&Đt đã có thư mời các cá nhân trong và ngoài nước tham gia ý kiến xây dựng chiến lược ngay từ khâu đầu tiên, kêu gọi rộng rãi trên mạng Internet. Tháng 4 này đã tổ chức lấy ý kiến chuyên gia của 6 tổ chức lớn (UNDP, WB, IMF, ADB, DFID, AUSAID).
(7) Đổi mới phương thức điều hành kế hoạch
- Đổi mới công tác điều hành KHH trong thời gian qua không chỉ thể hiện ở tính kịp thời ngày càng được tăng cường (báo cáo tình hình KT-XH tháng) mà còn được thể hiện rất rõ ở việc sử dụng các công cụ quản lý KT vĩ mô gián tiếp như lãi suất, tỷ giá, thuế suất, tiền tệ và các định hướng đầu tư của Nhà nước.
+ Các chính sách ngắn hạn gồm các chính sách điều chỉnh mức độ của cầu: Chính sách ngân sách, chính sách tiền tệ, chính sách tỷ giá, chính sách thu nhập...;
+ Các chính sách ngắn - trung hạn: Chính sách cơ cấu hướng vào cầu, có nghĩa là xây dựng các giải pháp điều chỉnh cơ cấu cầu xã hội (điều chỉnh hướng tiêu dùng);
+ Các chính sách trung hạn: Chính sách tác động làm tăng cung, làm sao để tăng khả năng của bộ máy sản xuất, gồm tăng năng lực của cơ sở sản xuất hiện có và xây dựng các cơ sở sản xuất mới.
+ Các chính sách dài hạn: Đấu tranh xoá đói giảm nghèo (từ hạn chế phát triển dân số đến tạo công ăn việc làm, xây dựng cơ sở hạ tầng...).
Quá trình đó đi kèm 2 việc: Một mặt, sự can thiệp trực tiếp của các cơ quan Nhà nước vào công việc kinh doanh của các cơ sở kinh tế giảm dần, và mặt khác, các cơ sở kinh tế đã có nhiều cố gắng trong việc pháp huy khả năng tự chủ, xác định những lợi thế cạnh tranh phù hợp với những điều kiện thay đổi của thị trường.
- Trong điều hành KH, đã ngày càng chú trọng đến công tác phân tích, dự báo ngắn, trung và dài hạn. Đặc biệt, những dự báo ngắn hạn đã cho phép kịp thời đề ra các đối sách trước những thay đổi của môi trường quốc tế, đảm bảo việc thực hiện các mục tiêu. Cũng nhờ các phân tích, dự báo, trong thập kỷ 90, đã có các cơ chế chính sách nhằm huy động được và sử dụng có hiệu quả những nguồn vật chất, tiền tệ đảm bảo được những cân đối lớn trong nền kinh tế, thúc đẩy việc thực hiện kế hoạch.
Mô hình kinh tế lượng đã bước đầu được sử dụng trong phân tích kinh tế, mô phỏng chính sách và dự báo phát triển. Dự án EU về xây dựng hệ thống thông tin kinh tế ngắn hạn và các mô hình kinh tế lượng quý là một bước tiến theo hướng đổi mới cơ chế, phương thức điều hành kế hoạch.
- Điều hành kế hoạch dựa trên xây dựng hệ thống pháp luật. Trước đây KH tập trung chủ yếu vào khu vực kinh tế quốc doanh và theo phương thức hành chính mệnh lệnh nên chỉ cần nghị quyết là đủ, hầu như ta không có các bộ luật, các luật. Nay KHH toàn bộ nền KTQD trong đó khu vực ngoài quốc doanh chiếm tỷ trọng ngày càng lớn và theo phương thức gián tiếp nên yêu cầu xây dựng hệ thống pháp luật được đặt ra. Sống và hoạt động theo pháp luật. Có thể nói, đến nay, các công cụ pháp luật và chính sách kinh tế đã được phối hợp ngày càng tốt hơn để tạo ra hành lang, khung khổ pháp lý cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế chủ động hoạt động và hoạt động có hiệu quả, có trật tự, đúng pháp luật, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và phát triển đất nước.
3) Một số yếu kém trong công tác KHH KTQD nước ta hiện nay
Mặc dù việc đổi mới công tác KHH trong thời gian đổi mới vừa qua đã có những thay đổi to lớn như nêu ở trên, nhưng đến nay, kết quả đổi mới KHH vẫn còn nhiều hạn chế, chưa tương xứng với đòi hỏi của nền kinh tế và quá trình xây dựng nền KT thị trường theo định hướng XHCN ở nước ta. Ở cả trung ương lẫn địa phương, vẫn còn nhiều ý kiến đòi giữ lại nhiều điểm của cơ chế KHH tập trung. Đặc biệt, tâm lý đòi hỏi bao cấp vẫn còn rất mạnh, nhất là trước những khó khăn phát sinh do khủng hoảng kinh tế - tài chính châu á và sức ép của việc đẩy nhanh trình hội nhập quốc tế.
Một số yếu kém trong công tác KHH nền KTQD hiện nay là:
(1) Cơ sở lý luận và phương pháp luận cho việc đổi mới CT KHH còn chưa rõ
Trong quá trình chuyển đổi sang KTTT theo định hướng XHCN, chúng ta chưa xây dựng được một cơ sở lý luận và phương pháp luận về KHH phù hợp với thực tế và nhu cầu đổi mới của đất nước. Do đó, các cấp đều lúng túng khi thiết kế nội dung kế hoạch cũng như phương thức điều hành kế hoạch.
Hai câu hỏi đến nay vẫn chưa rõ ràng là: Thế nào là nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta, và Trong nền KT đó, vai trò của Nhà nước, vai trò của KTNN là gì và đến đâu.
+ Cho đến nay, vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau về vai trò của NN trong nền KTTT. Nhà nước cần làm gì, đến đâu và như thế nào... luôn luôn là những câu hỏi khó trả lời, không chỉ ở Việt nam mà cả trên thế giới.
Xu hướng 50-70: Do phát triển mạnh của Liên xô và khối đông âu, các nước đang phát triển giành được độc lập đều muốn theo cơ chế KHH tập trung, coi vai trò của NN là tuyệt đối. Các nước tư bản cũng bỏ nguyên tắc bàn tay vô hình của A. Smith mà quay sang học thuyết Keynes với tăng cường vai trò của NN (thu ngân sách / GDP tăng vọt - 30 năm vinh quang của CN tư bản)... Tuy nhiên, từ 80, khối Xô viết đi vào suy thoái trong khi ở các nước công nghiệp, NN không bắt kịp cuộc sống của nền kinh tế đã trở nên quá lớn, nên quay lại nguyên tắc dùng thị trường điều tiết.
4 giai đoạn chính sách của các tổ chức quốc tế: Tự cung tự cấp, thuế và hàng rào hải quan định lượng, chính sách ổn định và giảm cầu, chính sách điều chỉnh cơ cấu và tăng cung.
Ở VN và các nước nghèo châu phi, vai trò của Nhà nước với tư cách là người điều tiết vĩ mô nền kinh tế nhiều khi bị hiểu là người chủ đầu tư, tức là thu ngân sách để chi đầu tư. Do vậy, nội dung kế hoạch còn nặng về phân bổ vốn đầu tư nhà nước, chưa coi trọng đúng mức việc vận dụng các chính sách kinh tế để huy động các nguồn lực của những thành phần kinh tế khác cũng như vốn từ nước ngoài. KHH vì thế chưa bao quát, chưa phát huy sức mạnh tổng hợp của mọi thành phần kinh tế.
+ Đổi mới trước tiên phải đi từ đổi mới tư duy KH. Cấp vĩ mô, TƯ muốn đổi mới, cấp vi mô lại chưa muốn, chỉ muốn giữ là DNNN, chỉ muốn cơ chế xin - cho, nhất là vốn ĐT XDCB. Do đó, quá trình đổi mới đã giảm đáng kể cơ chế bao cấp trong nền KT, nhất là bao cấp qua ngân sách, nhưng những hình thức bao cấp khác lại xuất hiện:
* Khoanh nợ, xoá nợ, cấp đất đai, ưu đãi thuế quan, tăng bảo hộ qua chế độ quôta. Những nội dung bao cấp này vẫn xuất hiện phổ biến trong nội dung các KH và trong hoạt động điều hành thực hiện kế hoạch.
* Chủ trương chuyển từ KHH hiện vật sang KHH định hướng, nhưng trên thực tế, xu hướng KHH hiện vật lại có xu hướng gia tăng: Các địa phương, ngành cố gắng xin nhiều dự án, nhiều chương trình mà không chú ý tới những cân đối lớn, lợi ích toàn cục của nền kinh tế, và không chú ý tới đóng góp cho NSNN
Một trong những nguyên nhân là do cơ sở lý luận chưa rõ làm sao để xoá.
+ Công tác KHH chỉ được quan tâm nhiều ở cấp trung ương, yếu ở cấp cơ sở. Kế hoạch hàng năm, 5 năm và chiến lược dài hạn ở tầm quốc gia đều có, nhưng ở các đơn vị cơ sở, các đơn vị, nội dung kế hoạch còn rất sơ sài, mang tính đối phó hoặc chỉ để làm báo cáo tại các cuộc họp, còn trong thực tế công việc, ít chú ý tới làm theo kế hoạch, nhất là đối với kế hoạch trung và dài hạn.
+ Bộ KH-ĐT là cơ quan chịu trách nhiệm hướng dẫn các Bộ, ngành, địa phương lập kế hoạch và tổng hợp kế hoạch của cả nước; nhưng mối quan hệ giữa Bộ KH-ĐT với các Bộ, ngành, địa phương còn ít và chậm được đổi mới theo nhu cầu KHH phát triển KT đất nước. Hệ thống thông tin qua lại giữa các Bộ, ngành, địa phương còn hạn chế, gây ảnh hưởng rất lớn tới thực hiện kế hoạch, thậm chí sai lệch với những ý đồ kế hoạch, giảm hiệu lực quản lý vĩ mô và giám sát của Nhà nước đối với các hoạt động kinh tế.
Ở tầm vi mô, đến nay vẫn chưa xác định được phải nắm được những thông tin gì về hoạt động của các doanh nghiệp, những thông tin gì không cần nắm. Do đó, công việc còn chồng chéo, có thể nói việc quản lý các doanh nghiệp hiện nay vừa ôm đồm, vừa lỏng lẻo. Luật doanh nghiệp thông thoáng được ban hành, nhưng có thể nói chúng ta vẫn chưa có cơ chế giám sát sau giấy phép hợp lý, dẫn tới nhiều tiêu cực.
(2) Từ cơ sở khoa học chưa rõ, dẫn tới tính pháp lý của chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội tương đối yếu. Cho đến nay vẫn chưa hề có một văn bản pháp luật rõ ràng nào trực tiếp điều chỉnh công tác kế hoạch hoá.
Hậu quả là quy trình lập quy hoạch vẫn chưa được thống nhất trong cả nước, quy trình này rất khác nhau giữa các địa phương cũng như giữa năm này với năm khác. Hiện nay, công tác quy hoạch mới chỉ được điều chỉnh bằng Chỉ thị 32/1998/CT-TTg ngày 23/9/1998 của Thủ tướng Chính phủ và Thông tư số 7689 BKH/CLPT ngày 06/11/1998 của Bộ kế hoạch và Đầu tư hướng dẫn việc triển khai thực hiện Chỉ thị 32. Sự phối hợp giữa các cấp cũng như giữa các cơ quan đồng cấp trong việc lập quy hoạch, kế hoạch yếu đã làm giảm tính khả thi, thậm chí làm lãng phí nguồn lực của xã hội.
(3) Nội dung phương pháp KHH còn đơn giản, dẫn tới kém chính xác
+ Trong khi ở cấp trung ương, do nhận thức được tầm quan trọng của công tác KHH và phải phục vụ các kỳ họp của Đại hội Đảng và Quốc hội, đã xây dựng các chiến lược, kế hoạch vĩ mô tương đối toàn diện (đi từ phân tích, đánh giá tình hình, xây dựng mục tiêu đến các giải pháp thực hiện), thì khi triển khai xuống cấp thấp hơn, thường kém được cụ thể hoá thành các nhiệm vụ, dự án. Nhiều kế hoạch bị phân tán, chia cắt theo từng ngành, địa phương mà việc khâu nối, đồng bộ hoá rất khó khăn. Nhiều quy hoạch vùng sau khi được CP thông qua thì lại không có cơ chế thực hiện thực sự nên không được triển khai; mỗi tỉnh lại tự lo cho mình. Đặc biệt, các cấp, các ngành quan tâm nhiều nhất đến chỉ tiêu vốn đầu tư, coi nhẹ các chỉ tiêu khác, nhất là các giải pháp và tổ chức thực hiện. Lãnh đạo tỉnh cũng chỉ chú y xem tỷ lệ tăng trưởng GDP là bao nhiêu, còn ít chú ý các chỉ tiêu cân đối khác. Ngay việc tính GDP cho các tỉnh cũng còn một loạt vấn đề khó khăn.
+ Nội dung kế hoạch ở cấp trung ương thường chứa đựng tham vọng của các nhà chính trị nên nhiều khi xa rời thực tế. Một tâm lý chung khi xây dựng KH là kết quả năm sau phải cao hơn năm trước (có thể do nhiều sức ép, nhất là trước đại hội Đảng, bầu quốc hội và chính quyền các cấp...). Kế hoạch do đó thường to lớn, ôm đồm nhiều thứ, nhưng khả năng khó thực hiện. Ví dụ kế hoạch 1996-2000: Mục tiêu CNH, HĐH rút ngắn đề ra vừa nhiều, vừa cao, không thể tìm kiếm đủ lực lượng vật chất và trí tuệ để làm. Hậu quả là nguồn lực bị phân tán dàn mỏng cho quá nhiều mục tiêu, phản ánh sự trở lại của thời kỳ bao cấp, và dĩ nhiên như vậy sẽ kèm theo kém hiệu quả. Các dự án kích cầu tràn lan mà không xét tới hiệu quả thì đến giai đoạn trả nợ sẽ rất khó khăn. Các dự án đầu tư của Nhà nước thường rất phân tán, và do đó dự án nào cũng không được cấp đủ vốn nên phải kéo dài thời gian thi công. Ví dụ Bộ KH-ĐT quy định thời gian thi công dự án nhóm C không được quá 2 năm, nhóm B 4 năm, nhưng Bộ KH-ĐT không cấp đủ vốn thì các ngành đành chịu.
KH 2006-2010 đã rút kinh nghiệm, hạn chế tham vọng nên tốc độ tăng trưởng chỉ 7,5-8%, phấn đấu cao hơn 8%, trong khi 2001-2005 đạt 7,5%.
+ KH bao gồm nhiều khâu, từ phân tích dự báo đến xác định mục tiêu, các giải pháp cụ thể. Nhưng của ta khâu xây dựng hệ thống chính sách yếu và không đồng bộ nên nhiều khi không đạt được mục tiêu KH. Ví dụ mục tiêu tăng trưởng 2001 là 7,5%, cần lượng vốn đầu tư 130 nghìn tỷ đồng, = 30% GDP. Đây là một mục tiêu về vốn rất cao mà trước đây ta chưa bao giờ đạt Vậy phải có các giải pháp mạnh mẽ thực hiện. Nhưng phần này của ta rất kém, nhất là vốn dân cư và FDI. Năm 2000 tốc độ tăng trưởng của hai loại vốn này rất thấp. Gần đây tốt hơn, song hiệu quả giảm mạnh.
+ KHH chưa dựa chủ yếu vào các chỉ tiêu chất lượng phản ánh tính hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế, mà vẫn dựa chủ yếu vào các chỉ tiêu số lượng. Do đó chất lượng tăng trưởng kinh tế không cao.
Trong 20 năm qua, ta phát triển chủ yếu dựa vào vốn đầu tư. ĐT tăng thì SX tăng, đầu tư giảm thì tăng trưởng SX giảm (quan hệ tăng trưởng GDP và tỷ lệ đầu tư trên GDP, tăng trưởng GDP và tăng trưởng vốn đầu tư). ICOR các nước không cao như ta.
Cơ cấu nguồn vốn đầu tư không hợp lý: dựa quá nhiều vào vốn nước ngoài và vốn ngân sách (chênh lệch giữa tỷ lệ tiết kiệm nội địa và tỷ lệ đầu tư trên GDP của ta đặc biệt cao so với các nước xung quanh, tỷ trọng vốn FDI, vốn ngân sách NN, vốn của các DNNN tăng nhanh trong khi tỷ trọng vốn tư nhân và dân cư giảm rất nhanh từ năm 1990 đến nay: 49% xuống 21,3% năm 1998).
Cơ cấu sử dụng vốn ĐT kém hiệu quả, dẫn tới hiệu quả giảm rất nhanh. Đối với toàn nền KTQD, hệ số ICOR tăng từ 1,7 năm 1991 lên 6% năm 99-2000, 1 tốc độ giảm hiệu quả nhanh nhất khu vực châu á. Ở cấp ngành, tỷ trọng vốn cho nông nghiệp thấp, bấp bênh lúc tăng lúc giảm trong khi đây là ngành có hệ số ICOR thấp nhất, sử dụng nhiều lao động và sản xuất ra các loại hàng thương mại quốc tế được. Đầu tư quá nhiều chi dịch vụ, bất động sản, trong khi đầu tư cho công nghiệp giảm. Ở cấp sản phẩm: dự báo cầu sai dẫn tới đầu tư ồ ạt vào một số ngành dẫn tới dư thừa. Sai lầm trong chọn lựa các ngành mũi nhọn... dẫn tới thiếu vốn, kém hiệu quả và tăng bảo hộ.
+ Phương pháp KHH kiểu cuốn chiếu vẫn chưa được triển khai ở nước ta. Thực tế, hội nhập khu vực và hội nhập quốc tế làm cho nền kinh tế nước ta ngày càng phụ thuộc vào nền kinh tế thế giới. Do KTTG thường xuyên biến động nên trong xây dựng và điều hành kế hoạch, chúng ta phải có những điều chỉnh sớm. Do đó tốt nhất là xây dựng kế hoạch hướng dẫn 5 năm làm trọng tâm, cứ sau 1 năm lại xem xét lại và điều chỉnh cho phù hợp. Ví dụ làm KH 2001-2005, sang năm ta lại làm KH 2002-2006, rồi 2003-2007. Tuy nhiên, ta chưa làm được như vậy. Tính tĩnh tương đối của hệ thống mục tiêu, biện pháp... trong các KH của ta còn rất nặng trong khi môi trường kinh tế xã hội trong và ngoài nước thường xuyên biến động.
Khi có biến động KT-XH, phải phân tích rõ:
   - Có tính dài hạn hay chỉ tạm thời ? Mang tính cơ cấu hay chu kỳ ?
   - Các nhà lãnh đạo có kiểm soát được không ?
   - Dự báo khả năng sắp tới.
+ Nội dung của kế hoạch chưa thể hiện được tính cạnh tranh của nền kinh tế:
   - Chưa tính đầy đủ các yếu tố hội nhập, quốc tế hoá
   - Chưa phân tích kỹ lưỡng thị trường trong nước và quốc tế
   - Chưa phân tích năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp, các mặt hàng, các ngành... Vừa qua có đề án nghiên cứu tính canh tranh của các mặt hàng: Có khả năng cạnh tranh, Có khả năng cạnh tranh với sự hỗ trợ của Nhà nước, và không có khả năng cạnh tranh.
+ Trong nội dung các kế hoạch, phần nghiên cứu xây dựng và vận dụng cơ chế, chính sách còn chưa nhiều và rõ, do đó chưa thật cụ thể hoá được chiến lược, chưa bao quát hết hoạt động của mọi thành phần kinh tế, chưa chú ý đúng mức đến tính đặc thù của các vùng, địa phương. Nhiều chính sách còn chưa nhất quán. Cách thức thực hiện các chính sách vẫn mang nặng tính can thiệp hành chính, áp đặt; mà chưa chú trọng vận dụng cơ chế kinh tế thị trường trong xây dựng và triển khai chính sách. Đến nay, có thể nói, KH 5 năm của ta chưa chi tiết đáng kể so với chiến lược và quy hoạch. Vì vậy đang làm bản KH 5 năm thực sự đầu tiên.
+ Quá trình xây dựng KH gồm nhiều bước, khá phức tạp, do đó không cần nhiều cá nhân, cơ sở tham gia, mà cần một đội ngũ cán bộ giỏi, có chuyên môn sâu làm, giống như cần 1 kiến trúc sư trưởng thiết kế nhà. Nhưng sau khi có phương án KH rồi thì phải lấy càng nhiều ý kiến của các cá nhân, cơ sở càng tốt, để phân tích, sửa chữa và bổ xung. Nhưng đến nay, công tác lấy ý kiến còn rất ít.
+ Chức năng quản lý nhà nước và chức năng hỗ trợ phát triển của bộ máy nhà nước chưa được tách bạch rõ ràng đã làm khó khăn trong việc phân biệt các chỉ tiêu mang tính bắt buộc và chỉ tiêu mang tính định hướng, dự báo.
+ Hiện tượng duy ý chí, coi nặng hình thức trong lập kế hoạch (đặc biệt là ở cấp địa phương) được thể hiện tương đối rõ nét qua việc xác định một số chỉ tiêu kế hoạch, đặc biệt những chỉ tiêu như GDP, xuất nhập khẩu ở các tỉnh.
+ Quá trình phân cấp quản lý nhà nước tiến hành chậm và không rõ ràng đã gây khó khăn cho việc xác định nội dung kế hoạch ở các cấp và dẫn đến hiện tượng chồng chéo nhiệm vụ giữa các cấp hoặc bỏ sót một số nhiệm vụ cần thiết khác.
+ Các mục tiêu xã hội chưa được thể hiện rõ nét trong nội dung kế hoạch ở các cấp địa phương, những chỉ tiêu xã hội ở một số địa phương chỉ mang tính hình thức.
Vai trò của cơ chế chính sách ngày càng trở nên quan trọng hơn, song trên thực tiễn, nội dung kế hoạch của nhiều địa phương vẫn thực sự chỉ quan tâm đến khoản ngân sách và các dự án hỗ trợ từ cấp trên.
Tuy một số địa phương đã từ bỏ việc xin hỗ trợ trực tiếp mà chỉ “xin cơ chế”, nhưng về bản chất, hầu hết những cơ chế mà các địa phương “xin” đều liên quan đến vấn đề tài chính như miễn giảm thuế hoặc phân bổ lại các khoản thu thuế tại địa phương.
(4) Việc phối hợp và điều hoà kế hoạch còn chưa tốt
- Đến nay ta vẫn chưa ban hành được Luật hoặc Pháp lệnh Kế hoạch hoá nên hiệu lực pháp lý của công tác KHH chưa cao. Do đó khi Bộ KH hay sở KH-ĐT mời các cơ quan, sở ban ngành khác đến bàn xây dựng KH cho địa phương thì họ có thể làm thiếu trách nhiệm, ảnh hưởng tới chất lượng KH.
- Hệ thống KH theo ngành, vùng và địa phương vẫn chưa liên kết và phối hợp chặt chẽ với nhau để trở thành một hệ thống kế hoạch KTQD tổng thể. Chúng ta liên tục nói về kết hợp KHH theo ngành và lãnh thổ, nhưng lại chưa có văn bản hướng dẫn kết hợp như thế nào. Hai hệ thống KTTW, KT địa phương hoạt động theo cơ chế quản lý khác nhau, nên lãnh đạo địa phương khó biết hoạt động của các DN TW trên địa bàn tỉnh.
Sự phối hợp giữa TƯ và ĐP trong công tác quy hoạch còn kém đã làm cho nhiều địa phương phải làm lại quy hoạch mặt bằng của mình. Quá trình cải cách hành chính, sát nhập, chia tách tỉnh, huyện cũng gây ảnh hưởng lớn tới quy hoạch của các địa phương, sinh ra những lãng phí không nhỏ cho NSNN và người dân.
- Sự phân cấp giữa trung ương và địa phương, sự phân công giữa các ngành với nhau... còn chưa rõ ràng. Các cấp chính quyền địa phương chưa nhận rõ trách nhiệm của mình trong việc động viên nguồn lực địa phương vào phát triển địa phương mình; do đó không chủ động đưa ra được các chính sách phù hợp. Tư tưởng ỷ lại, trông chờ trung ương vẫn còn khá nặng nề ở nhiều địa phương.
- Khó khăn của các tỉnh khi làm quy hoạch, kế hoạch là nhiều khi Trung ương, các  Bộ ngành chưa có hoặc chưa công bố quy hoạch, kế hoạch của mình trên địa bàn tỉnh. Thường vừa làm, vừa phải mời đại diện các bộ, ngành đến cho ý kiến.
Hậu quả là mọi diễn biến kinh tế bất thường đều dồn lên chính phủ trung ương giải quyết, làm cho Chính phủ luôn ở tình thế bị động điều hành; nhiều khi buộc phải chấp nhận những giải pháp không bao quát, chỉ hướng vào phục vụ lợi ích của một số địa phương, một số ngành, thậm chí một số doanh nghiệp, và làm giảm lợi ích toàn cục. Các phiên họp chính phủ hàng tháng rất mất thời gian thảo luận tình hình cấp bách, không còn thời gian cho những việc dài hơi.
- Sự can thiệp trực tiếp, thường xuyên của các cơ quan Nhà nước đã làm giảm tính ổn định của chính sách, gây khó khăn cho các doanh nghiệp.
- Trong xây dựng các chương trình quốc gia, chưa phối hợp tốt lợi ích giữa các địa phương, thiếu xác định mục tiêu rõ ràng, đối tường cụ thể được hưởng; chưa có cơ chế phù hợp để tổ chức thực hiện và giám sát, kiểm tra, đánh giá... nên hiệu quả chưa cao như mong muốn. Số lượng các CTQG quá nhiều, chồng chéo nhau cả về đối tượng hưởng lợi, địa bàn thực hiện và bộ máy thực hiện. Các bộ chuyên ngành can thiệp quá sâu làm ảnh hưởng tới việc lồng ghép các CT trong khi các địa phương lại có xu hướng can thiệp theo quan điểm bình quân, chia đều, làm giảm hiệu quả.
(5) Về cơ chế điều hành kế hoạch
Xây dựng được một KH tốt mới chỉ là bước đầu. Bước quan trọng tiếp theo là phải điều hành thực hiện KH sao cho có hiệu quả nhất. Việc thực hiện KH tổng thể phát triển KTQD cả nước phụ thuộc vào việc thực hiện KH riêng lẻ của từng Bộ, ngành, địa phương và tổng công ty; nhưng điều này lại phụ thuộc rất lớn vào cơ chế, chính sách cụ thể từng thời kỳ của Chính phủ và các cơ quan tổng hợp. Hàng năm, ngay sau khi giao KH, TTCP đều ban hành chỉ thị về điều hành KH; gần đây CP ban hành Nghị quyết của Chính phủ về một số giải pháp chủ yếu chỉ đạo điều hành thực hiện kế hoạch kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước năm (2007)
Nghị quyết điều hành của Chính phủ thường gồm các nội dung sau:
“I. Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường
A. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật.
B. Xây dựng và phát triển các loại thị trường.
C. Thực hiện nhất quán các chính sách tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động sản xuất, kinh doanh và phát triển mạnh mẽ các loại hình doanh nghiệp.
D. Đổi mới cơ chế điều hành giá cả
II. Tạo chuyển biến mạnh mẽ hơn trong phát triển các ngành kinh tế, trước hết là sản xuất nông nghiệp, nông thôn
A. Tạo chuyển biến mạnh mẽ hơn trong phát triển sản xuất nông nghiệp, nông thôn và nâng cao đời sống nông dân 
B. Phát triển các ngành công nghiệp, xây dựng và quản lý đô thị
C. Phát triển các ngành thương mại - dịch vụ.
iiI. cải thiện môi trường đầu tư, thu hút mạnh mẽ đầu tư của các thành phần kinh tế, tăng cường công tác quản lý đầu tư và nâng cao hiệu quả đầu tư
A. Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, thu hút mạnh mẽ đầu tư của các thành phần kinh tế:
B. Tăng cường công tác quản lý đầu tư và nâng cao hiệu quả đầu tư
IV. Tiếp tục đổi mới chính sách và tăng cường quản lý trong lĩnh vực tài chính, tiền tệ
A. Về tài chính và ngân sách nhà nước:
B. Về tiền tệ và tín dụng
V. thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế, trước hết là các cam kết trong khuôn khổ Tổ chức Thương mại thế giới
VI. Đẩy mạnh phát triển toàn diện giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ; giải quyết có hiệu quả các vấn đề bức xúc về văn hóa, xã hội, môi trường
VII. tiếp tục Đẩy mạnh cải cách hành chính; nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước; thực hiện kiên quyết và đồng bộ các biện pháp phòng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm chống lãng phí.
VIII. Tổ chức thực hiện”.
- Mặc dù trong thời gian qua công tác KHH đã có những đổi mới căn bản nhưng cơ chế  điều hành KH vẫn chậm được đổi mới theo hướng cơ chế KTTT. Rất nhiều quyết định kinh tế lẽ ra nên thực hiện ở địa phương, doanh nghiệp... thì vẫn được tập trung vào CP và các cơ quan tổng hợp.
Công tác điều hành thực hiện quy hoạch vẫn còn gặp một số khó khăn, nổi bật nhất là tính kỷ luật trong quá trình thực hiện, từ cả phía các cơ quan nhà nước và phía của người dân. Chất lượng một số quy hoạch yếu cũng dẫn đến các khó khăn trong thực hiện quy hoạch, gây lãng phí nguồn lực của xã hội, tạo ra sự bất ổn định, ảnh hưởng xấu đến môi trường đầu tư và lòng tin của người dân.
Sự phân cấp thiếu rõ ràng trong quá trình điều hành thực hiện kế hoạch đã tạo điều kiện phát sinh hiện tượng “đùn đẩy” trách nhiệm lên cấp cao hơn, gây tình trạng quá tải cho bộ máy của Chính phủ.
Sự thay đổi tư duy theo hướng thị trường chậm trễ ở một số cơ quan hoạch định chính sách, coi trọng chỉ tiêu hiện vật cùng với hạn chế về thông tin thị trường, nhất là thông tin dự báo giá cả thế giới đã làm giảm tính hiệu quả của quá trình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế.
Công tác giám sát thanh tra trong việc thực hiện quy hoạch, kế hoạch còn yếu về cả tính nghiêm minh lẫn tính kịp thời đã tạo điều kiện nẩy sinh những hiện tượng tham ô, lãng phí trong quá trình thực hiện quy hoạch và kế hoạch trong thời gian qua.
- Cơ chế điều hành cân đối một số sản phẩm chủ yếu, thực chất là cân đối hiện vật, đã tỏ ra có nhiều bất cập, nhất là trong lĩnh vực xuất khẩu. Một mặt, các DN bị áp đặt phải sản xuất một số loại sản phẩm nhất định để đảm bảo cân đối; do đó không theo nguyên tắc của KTTT. Quá trình này cũng góp phần duy trì tình trạng độc quyền của một số DN. Mặt khác, nhiều TCT, DN còn được giao trách nhiệm cân đối thị trường trong nước thông qua XNK, do đó cũng lợi dụng để kiếm lợi, ví dụ TCT xi măng chiếm 90% thị phần năm 1995, đã không nhập khẩu ngay mà tìm cách đẩy giá xi măng lên cao để kiếm lời.
- Cơ chế điều hành thay đổi thường xuyên, đột ngột làm nhiều DN từ chỗ làm ăn có lãi chuyển sang thua lỗ và ngược lại. Cũng vì vậy mà DN rất khó xây dựng chiến lược và KH kinh doanh dài hạn cho mình.
- KT nước ta gắn chặt với KT TG. Tình hình TG và khu vực đã, đang và sẽ diễn biến phức tạp hơn, trong khi điều hành KH của ta còn khá cứng nhắc, chưa linh hoạt và kịp thời, thiếu những luận cứ khoa học và thực tiễn xác đáng. Ví dụ khủng hoảng tài chính tiền tệ châu á bùng nổ 2/7/97 nhưng đến 1/5/98 các nhà lãnh đạo của ta còn tuyên bố cuộc khủng hoảng không ảnh hưởng đến ta, và do đó trong điều hành KH, không có biện pháp thích ứng. Trong những năm gần đây, giá cả thị trường quốc tế biến động thất thường song điều hành chậm không theo kịp, hoặc cứng nhắc không dám để cho thị trường tự điều tiết (xăng dầu).
Môi trường phát triển đang rất thuận lợi nhưng chưa được khai thác hiệu quả (BTA, WTO, Việt kiều, đối tác chiến lược với Mỹ…).
(6) Công tác thông tin và dự báo trong kế hoạch còn kém
Về công tác thông tin, kinh nghiệm trong nước và quốc tế đều khảng định thông tin đầy đủ, kịp thời và chính xác là một trong những yếu tố quyết định chất lượng của KH và điều hành KH. Đảng và Nhà nước ta nhận thức rõ tầm quan trọng của công tác thông tin. Dự thảo báo cáo CT: "Tăng cường công tác thông tin phục vụ nghiên cứu, làm tốt công tác dự báo tình hình khu vực và thế giới, kịp thời có những chủ trương, chính sách đối ngoại thích hợp khi tình hình thay đổi".
Chính phủ, Bộ KH&ĐT và nhiều Bộ, ngành, có phiên họp hàng tháng để theo dõi sát sao tình hình KT-XH đất nước và chuyển biến quốc tế.
Tuy nhiên, hệ thống Ttin phục vụ cho việc XD và ĐH KH của ta đến nay vẫn còn xa mới đáp ứng yêu cầu. Những điểm yếu kém chính của HTTTKH hiện nay của ta là:
   - Không thống nhất
   - Không đầu đủ, thiếu rất nhiều TT theo KTTT;
   - Độ chính xác chưa cao
   - Chưa kịp thời.
   - Chưa theo chuẩn mực quốc tế
Mặc dù đã có nhiều cố gắng, song sự phối hợp giữa ngành kế hoạch và ngành thống kê còn chưa nhịp nhàng. Hiện tượng những thông tin cần thiết thì không được thu thập, những thông tin được thu thập thì lại không cần thiết đã làm cho quá trình phân tích chính sách gặp nhiều khó khăn.
Sự yếu kém của hệ thống thông tin đã làm giảm chất lượng của việc xây dựng và điều hành thực hiện quy hoạch, kế hoạch ở nước ta trong suốt thời gian qua. Thiếu những quy định pháp lý cụ thể, thiếu chế tài trong quá trình thực hiện đã làm giảm tính hiệu lực của quá trình hợp tác giữa các cơ quan, tổ chức trong lĩnh vực quy hoạch và kế hoạch.
Hiện nay, ở hầu hết các huyện, phòng Kế hoạch đã ghép cùng phòng Tài chính, ở cấp xã hoàn toàn không có định biên cho công tác kế hoạch. Quá trình cải cách hành chính theo hướng thu gọn bộ máy quản lý nhà nước có những tác động tích cực nhất định, tuy nhiên quá trình này cũng cần phải đổi mới trên những cơ sở khoa học, phù hợp với quá trình chuyển đổi nền kinh tế.
Về công tác phân tích và dự báo: Trong nền KTTT, nhà nước không can thiệp trực tiếp vào sản xuất, kinh doanh của các DN mà tác độnh thông qua cơ chế, chính sách. Do đó, công tác PT và DB KT có vai trò đặc biệt quan trọng trong công tác KHH. Ở các nước tư bản phát triển, người ta còn cho rằng chức năng cơ bản của NN là cung cấp các thông tin phân tích và dự báo.
Ở các nước ta, công tác này còn quá yếu, do nhiều nguyên nhân: Hệ thống thông tin tồi, trình độ cán bộ yếu, nhận thức của các nhà lãnh đạo chưa cao, phương tiện, cơ sở vật chất, kỹ thuật, thông tin cho công tác này còn kém.
Do công tác PT-DB kém nên mục tiêu, các giải pháp trong KH của Trung ương thay đổi liên tục, dẫn tới những khó khăn trong thực hiện KH của các tỉnh: Liên tục giải pháp tình thế. Theo tôi, lẽ ra nên kiên trì mục tiêu lâu dài, CT lâu dài, đừng để những khó khăn tạm thời làm quên đi mục tiêu dài hạn.
(7) Bộ máy tổ chức cán bộ:
Mặc dù đã có cố gắng trong xây dựng đội ngũ cán bộ ngành KH, nhưng đến nay, bộ máy tổ chức và trình độ cán bộ vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của công tác KHH trong thời kỳ phát triển KTTT.
- Bộ KH-ĐT, các Sở KH ở tỉnh, các phòng KH ở huyện vẫn còn lúng túng trong việc xác định chức năng, nhiệm vụ của mình. Nhiều ý kiến cho là ở các cấp phải lập một hội đồng kế hoạch để thống nhất kế hoạch chung vì KH liên quan đến mọi ngành, mọi cấp. Chức năng của nó là tư vấn cho Quốc hội và HĐND các cấp khi thông qua KH.
- Kiến thức về công tác KHH trong nền KTTT vẫn thấp (từ điều hành KT theo mệnh lệnh sang điều hành gián tiếp). Mỗi người có một quan điểm làm kế hoạch khác nhau. Trong một cơ quan có người trẻ, người già, học trong nước, học nước ngoài về với đủ loại trình độ và hiểu biết khác nhau. Do đó phải bồi dưỡng kiến thức để thống nhất quan điểm làm KH.
- Bộ máy tổ chức cán bộ ngành KH chưa đưa ra được một hệ thống tiêu chuẩn đánh giá chất lượng công việc của mỗi bộ phận, mỗi lao động trong ngành. Chế độ trách nhiệm chưa rõ ràng dẫn tới đùn đẩy trách nhiệm.
Bộ KH-ĐT không những không nắm được công tác nhân sự của các sở KH-ĐT (giao hết cho tỉnh) mà cũng không ban hành được các tiêu chuẩn quy định cán bộ đủ năng lực để các tỉnh chọn người cho phù hợp.
(1) Lý luận về kế hoạch hoá không được nghiên cứu đổi mới
Mặc dù có sự nỗ lực chuyển đổi nền kinh tế sang nền kinh tế thị trường, song hầu như lý luận về kế hoạch hoá không hề được các nhà nghiên cứu quan tâm nghiên cứu để tìm ra được những đổi mới thích hợp của phương pháp và nội dung phù hợp với quá trình chuyển đổi nền kinh tế.
Chính sự thiếu hụt về lý luận kế hoạch hoá trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế đã không tạo ra được cơ sở cho việc nghiên cứu và đề xuất những đổi mới cần thiết cho công tác kế hoạch hoá trong suốt thời gian qua và làm cho các cấp chính quyền lúng túng trong việc lập và thực hiện kế hoạch phát triển phù hợp với điều kiện mới.
(2) Vai trò Nhà nước trong nền kinh tế chưa được xác định rõ ràng, chưa tách bạch được một cách rõ ràng các chức năng khác nhau của Nhà nước như: quản lý nhà nước, cung cấp dịch vụ công, đầu tư trực tiếp vào nền kinh tế. Điều này là một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến những khó khăn trong việc phân định những tổ chức quản lý nhà nước với những tổ chức sự nghiệp và tổ chức kinh doanh của nhà nước và kéo theo là sự phức tạp và không rõ ràng trong các phần ở nội dung kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội của các cấp.
(3) Phân cấp chưa rõ ràng, toàn diện, sự phân định chức năng của chính quyền các cấp trong lĩnh vực kinh tế cũng rất mờ nhạt. Sự phân cấp không rõ ràng đã dễ dàng dẫn đến hiện tượng có nhiều việc Nhà nước phải làm song không được cấp nào quan tâm và ngược lại có việc lại được thực hiện trùng lặp bởi nhiều cấp.
Phân cấp không rõ ràng cũng dẫn đến nội dung kế hoạch ở các cấp có cấu trúc và hệ thống chỉ tiêu gần giống nhau và cũng dẫn đến hiện tượng trùng lặp  một cách lãng phí ở nhiều địa phương (ví dụ: TW xây dựng một nhà máy xi măng và tỉnh cũng đầu tư một nhà máy xi măng ở ngay gần địa điểm này).
Nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung là nền kinh tế đơn thành phần (có thể coi khu vực hợp tác xã (HTX) được Nhà nước chỉ đạo hoàn toàn), do vậy Nhà nước có thể độc lập xây dựng kế hoạch sản xuất và tiêu thụ, hầu hết các công cụ can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế là những công cụ trực tiếp. Tỷ trọng của khu vực kinh tế tư nhân (trong và ngoài nước) ngày càng gia tăng trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế, Nhà nước ngày càng phải sử dụng nhiều hơn các công cụ gián tiếp (cơ chế, chính sách) để khuyến khích phát triển nền kinh tế theo hướng đã định. Như vậy, các công cụ gián tiếp này chỉ có thể có tác động một cách có hiệu quả khi mà các tác nhân trên thị trường (ví dụ: các doanh nghiệp, người tiêu dùng) có những phản ứng tích cực đối với các chính sách được Nhà nước ban hành. Thiếu tính dân chủ và công khai, thiếu sự tham gia của các tác nhân trên thị trường trong quá trình xây dựng kế hoạch, hoạch định chính sách (hiện nay công việc này chỉ được “bó gọn” trong một số cơ quan nhà nước) dễ dàng làm  cho các biện pháp cơ chế, chính sách trở nên không khả thi hoặc thậm chí còn có thể gây ra những tác động tiêu cực. Hiện tượng các doanh nghiệp hoặc người tiêu dùng hoàn toàn không có thông tin về kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội của các cấp là tương đối phổ biến đã làm giảm tính hiệu dụng và hiệu quả của hệ thống cơ chế chính sách trong kế hoạch này.
(5) Tính khoa học, công tác thông tin:
Như trên đã trình bày, công cụ gián tiếp được Nhà nước sử dụng ngày một nhiều hơn, sự tác động của các công cụ này chỉ mang tính dự báo (vì thế hầu hết các chỉ tiêu trong kế hoạch hiện nay cũng chỉ nên mang tính dự báo). Mức độ chính xác của dự báo lệ thuộc vào 2 yếu tố quan trọng là chất lượng của mô hình dự báo và chất lượng của các thông tin đầu vào. Chính vì vậy, chất lượng hệ thống thông tin là một trong những yếu tố mang tính quyết định đến chất lượng của kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội.
Quá trình chuyển đổi nội dung và công cụ trong kế hoạch đã đặt ra những đòi hỏi mới cho đội ngũ cán bộ, công chức trong ngành kế hoạch, đặc biệt là những kiến thức và kinh nghiệm trong việc phân tích và hoạch định chính sách. Nếu như trước kia công việc chính của đội ngũ này chỉ đơn thuận là phân bổ các nguồn lực thì ngày nay họ cần phải có những tri thức mới phục vụ cho việc phân tích và đề xuất những những chính sách để huy động nhiều hơn nguồn lực trong xã hội nhằm phát triển nền kinh tế theo hướng đã định.
Những yêu cầu đòi hỏi mới này đã được đặt ra từ nhiều năm  nay song do nhiều lý do khác nhau, công tác bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ cán bộ trong ngành kế hoạch còn yếu. Năng lực phân tích và hoạch định chính sách của đội ngũ cán bộ chưa được cải thiện và vì thế phần cơ chế, chính sách trong nội dung kế hoạch ở các cấp còn rất yếu

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét