Thứ Hai, 13 tháng 6, 2011

Kinh tế học, vì sao nên nỗi? (How Did Economists Get It So Wrong?)

Tài liệu cũ:
Kinh tế học, vì sao nên nỗi?

Chủ quan khi bão manh nha hình thành. Hoảng loạn khi bão ập đến. Chia rẽ về cách khắc phục hậu quả cơn bão. Đó là kết quả gần ba thập kỷ lạc lối của kinh tế học.
Xin giới thiệu chùm bài viết “How Did Economists Get It So Wrong?” của Giáo sư Paul Krugman (kinh tế gia đoạt giải Nobel kinh tế năm 2008) đăng trên báo The New York Times tháng 9/2009. Với góc nhìn của người trong cuộc, với trình độ của một trong những kinh tế gia hàng đầu thế giới, G.S Paul Krugman đã cung cấp cho chúng ta những thông tin có giá trị và thú vị về kinh tế học, những luận điểm quan trọng và phản biện sâu sắc từ bên trong giới học thuật kinh tế, ra đến những thành công và thất bại của thực tiễn vận hành nền kinh tế.  Hy vọng, đây là món quà có ý nghĩa cho những người yêu thích kinh tế học. Nhân dịp năm mới, kính chúc Quý độc giả an khang - thịnh vượng.


I - NHẦM LẦN GIỮA SỰ THẬT VÀ CÁI ĐẸP

Hiện giờ khó mà tin được mới cách đây không lâu giới kinh tế học còn đang chúc tụng nhau về thành công của môn khoa học này. Những thành công trên cả lý thuyết lẫn thực tiễn đó đã mở ra một giai đoạn vàng của những người trong giới. Về mặt lý thuyết, họ nghĩ đã giải quyết được những tranh cãi nội bộ.

Do đó, trong một bài báo năm 2008 với tựa đề “Tình trạng vĩ mô” (tức là kinh tế vĩ mô, chuyên nghiên cứu các vấn đề lớn như suy thoái), Olivier Blanchard tại Học viện Công nghệ Massachusett, nay là kinh tế trưởng tại Quỹ tiền tệ quốc tế IMF, tuyên bố rằng “tình trạng vĩ mô vẫn ổn.” Cuộc chiến khi xưa đã kết thúc và đã có một “sự đồng thuận lớn về cách nhìn.” Trong thực tiễn, các nhà kinh tế tin rằng mình đã kiểm soát được mọi thứ: “vấn đề cốt lõi là ngăn ngừa suy thoái đã được giải quyết,” Robert Lucas từ ĐH Chicago tuyên bố năm 2003 trong bài diễn văn nhậm chức Chủ tịch Hiệp hội Kinh tế Mỹ.

Năm 2004, Ben Bernanke, cựu GS ĐH Princeton nay là Chủ tịch Hội đồng Thống đốc Cục dự trữ liên bang, tán dương “Thời kỳ ổn định lớn” về kinh tế trong hai thập niên vừa qua, mà ông cho rằng một phần là nhờ đóng góp của việc hoạch định chính sách kinh tế tốt hơn.

Năm ngoái, tất cả sụp đổ.

Rất ít nhà kinh tế thấy được cuộc khủng hoảng hiện nay đang tới, nhưng dự đoán sai lầm mới chỉ là vấn đề ít nghiêm trọng nhất của môn khoa học này. Quan trọng hơn là việc kinh tế học không nhận ra được khả năng nền kinh tế thị trường sẽ gặp phải những thất bại khủng khiếp.

Thời vàng son, các nhà kinh tế học tài chính đi đến chỗ tin tưởng rằng thị trường vốn đã ổn định – thực tế, cổ phiếu và các các loại tài sản khác luôn được định giá đúng. Các mô hình kinh tế đang thịnh hành không hề nhắc tới khả năng sẽ có một vụ sụp đổ như năm ngoái. Trong khi đó, các nhà kinh tế vĩ mô bị chia rẽ bởi nhiều quan điểm. Nhưng quan điểm chính là giữa những người khẳng định nền kinh tế thị trường tự do không bao giờ đi chệch hướng và những người tin rằng nền kinh tế có thể tạm thời chệch hướng nhưng có thể và sẽ được FED, với tất cả quyền năng của mình, điều chỉnh lại.
Cả hai bên đều không được chuẩn bị để đối phó với trường hợp nền kinh tế vẫn trật bánh dù FED đã nỗ lực hết sức.

Thời hậu khủng hoảng, sự chia rẽ này lại càng sâu sắc hơn bao giờ hết. Lucas nói kế hoạch kích thích kinh tế của chính quyền Obama là “thứ kinh tế học rác rưởi,” còn người đồng nghiệp cũng tại Chicago John Cochrane nói chúng dựa trên “những câu chuyện cổ tích” chẳng có chút uy tín. Đáp lại, Brad DeLong từ ĐH California, Berkeley, viết đó là một sự “sụp đổ về mặt tri thức” của trường phái Chicago, và chính người viết bài này đã từng viết rằng những lời bình luận của các nhà kinh tế trường phái Chicago là sản phẩm từ thời Trung Cổ của môn kinh tế vĩ mô, khi mà những kiến thức gian khó lắm mới giành được bị lãng quên.

Điều gì đã xảy ra đối với giới kinh tế học? Và hướng đi sắp tới của họ như thế nào?

Giới kinh tế học lạc lối vì họ, với hàng tá phương trình toán học hấp dẫn trong tay, đã nhầm lẫn giữa cái đẹp và sự thật. Cho đến trước cuộc Đại suy thoái, phần lớn các nhà kinh tế đều có quan điểm rằng chủ nghĩa tư bản là một hệ thống hoàn thiện hoặc đã gần hoàn thiện. Quan điểm đó không tồn tại được lâu trước thực tế thất nghiệp tràn lan, nhưng khi những ký ức về cuộc suy thoái phai nhạt dần, các nhà kinh tế lại trở về với quan điểm lý tưởng hóa xưa cũ về một nền kinh tế nơi những cá nhân hợp lý tương tác lẫn nhau trong một thị trường hoàn hảo, lần này còn được bọc thêm lớp vỏ toán học hấp dẫn. Chắc chắn sự lãng mạn về một thị trường lý tưởng ấy một phần là vì luồng gió chính trị đã thay đổi, một phần vì động lực tài chính.

Nhưng cho dù việc làm tại viện Hoover hay Phố Wall đều là những thứ giá trị, nguyên nhân chính của những thất bại của môn khoa học kinh tế là khát khao có một cách tiếp cận bao quát mọi vấn đề và toàn hảo về mặt tri thức đem lại cơ hội cho các nhà kinh tế thể hiện khả năng toán học của mình.

Đáng buồn là quan điểm lãng mạn và đơn giản hóa về nền kinh tế này khiến đa phần các nhà kinh tế lờ đi mọi thứ có thể khiến mình sai lầm. Họ nhắm mắt làm ngơ trước những hạn chế khiến một con người hiệu quả có thể bơm căng cũng như chọc thủng bong bóng tài sản; trước những vấn đề tại các tổ chức họat động một cách mù quáng; trước những sự không hoàn hảo của thị trường, đặc biệt là thị trường tài chính, có thể khiến “hệ tuần hoàn” của nền kinh tế phải trải qua những đợt suy giảm đột ngột không thể đoán trước được; và trước những nguy cơ nảy sinh khi chính các cơ quan điều tiết không còn tin vào sự giám sát nữa.

Khó mà nói trước được con đường phía trước của môn kinh tế học. Điều chắc chắn duy nhất là các nhà kinh tế sẽ phải học cách sống chung với sự hỗn loạn. Tức là họ sẽ phải nhận thức được tầm quan trọng của những hành vi bất hợp lý và thường là không đoán trước được, đối diện với sự không hoàn hảo mang tính cố hữu của thị trường và chấp nhận rằng còn lâu mới có một môn lý thuyết kinh tế học có thể bao quát được mọi vấn đề. Trong thực tiễn, điều đó có nghĩa là họ nên đưa ra những lời cố vấn chính sách cẩn trọng hơn và kiên quyết dỡ bỏ những tấm nệm kinh tế an toàn với niềm tin rằng thị trường sẽ giải quyết được mọi vấn đề.

II. TỪ SMITH TỚI KEYNES VÀ NGƯỢC LẠI

Sự ra đời của kinh tế học với tư cách một môn khoa học thường được cho là nhờ công của Adam Smith với việc xuất bản cuốn “Sự giàu có của các quốc gia” năm 1776. Trong suốt 160 năm sau đó lý thuyết kinh tế đã phát triển mạnh, nhưng thông điệp trung tâm vẫn là: Tin ở thị trường.

Đúng, các nhà kinh tế thừa nhận có những trường hợp thị trường có thể thất bại, trong đó quan trọng nhất là trường hợp của các “ảnh hưởng ngoại ứng”, những chi phí con người gây ra cho người khác mà không phải trả tiền, ví dụ như tắc nghẽn giao thông hay ô nhiễm. Tuy nhiên giả định cơ bản của các nhà kinh tế “tân cổ điển” (đặt theo tên những nhà lý thuyết cuối thế kỷ 19 đã phát triển thêm khái niệm của các nhà tiền bối “cổ điển”) là chúng ta nên đặt niềm tin ở hệ thống thị trường.

Tuy vậy, cuộc Đại suy thoái làm niềm tin đó tiêu tan. Thực tế, ngay cả khi mọi thứ đang sụp đổ một số nhà kinh tế vẫn khăng khăng rằng dù chuyện gì có xảy ra thì nền kinh tế thị trường vẫn đúng: “Đại suy thoái không chỉ toàn điều xấu,” Joseph Schumpeter tuyên bố năm 1934. Chúng là “những gì cần phải diễn ra.” Nhưng nhiều nhà kinh tế, cuối cùng là toàn bộ giới kinh tế học tìm đến những quan điểm của John Maynard Keynes để giải thích điều gì đã xảy ra và tìm giải pháp cho những cuộc suy thoái trong tương lai.

Dù bạn đã được nghe những gì, Keynes không hề muốn chính phủ vận hành nền kinh tế. Ông miêu tả phân tích của mình trong kiệt tác năm 1936, “Lý thuyết chung về việc làm, lãi suất và tiền tệ,” là “tương đối bảo thủ về mặt hàm ý.” Ông muốn chỉnh sửa chứ không phải thay thế chủ nghĩa tư bản.

Nhưng ông đã thách thức quan niệm rằng những nền kinh tế thị trường tự do có thể họat động không cần người giám sát, thể hiện sự coi thường đặc biệt đối với thị trường tài chính, thứ ông xem là đang bị thống trị bởi thói đầu cơ ngắn hạn mà chẳng quan tâm gì đến các yếu tố cơ bản. Ông kêu gọi chính phủ nên chủ động can thiệp, in thêm tiền và nếu cần thiết, chi tiêu mạnh tay cho các công trình công cộng để chống thất nghiệp khi suy thoái xảy ra.

Cũng cần hiểu rằng Keynes đã làm nhiều hơn so với chỉ đưa ra những lời khẳng định kiên quyết. “Lý thuyết chung” là một tác phẩm phân tích rất sâu sắc, có sức thuyết phục trước những nhà kinh tế trẻ tuổi tài năng nhất thời điểm đó. Dù vậy, câu chuyện của kinh tế học trong suốt nửa thế kỷ qua lại là câu chuyện về sự thoái trào của tư tưởng Keynes và trở về với chủ nghĩa tân cổ điển.

Sự phục hưng của trào lưu tân cổ điển ban đầu dưới sự lãnh đạo của Milton Friedman từ ĐH Chicago, người ngay từ năm 1953 đã khẳng định rằng kinh tế học tân cổ điển có thể chỉ ra con đường để họat động của nền kinh tế thực sự “vừa đem lại nhiều trái ngọt, vừa rất đáng tin cậy.” Thế còn những cuộc suy thoái thì sao?

Cuộc phản công của Friedman chống lại Keynes bắt đầu với một học thuyết có tên là chủ nghĩa trọng tiền. Những nhà trọng tiền, về cơ bản, không đồng ý với quan điểm rằng nền kinh tế thị trường cần được chủ động bình ổn. Các nhà trọng tiền khẳng định rằng chính phủ chỉ cần can thiệp một cách hết sức hạn chế, cụ thể là, để ngân hàng trung ương giữ cung tiền quốc gia tăng đều đặn (tổng tiền mặt trong lưu thông và tài khoản tiền gửi tại ngân hàng). Như vậy là đủ để ngăn ngừa suy thoái.

Friedman cùng người đồng nghiệp Anna Schwartz từng có một tuyên bố nổi tiếng rằng nếu Cục dự trữ liên bang hành động hợp lý, cuộc Đại suy thoái đã không xảy ra. Sau đó, Friedman đưa ra lập luận thuyết phục phản đối mọi nỗ lực có chủ đích nào của chính phủ nhằm đẩy tỷ lệ thất nghiệp xuống dưới mức “tự nhiên” (hiện nay được cho là vào khoảng 4,8% tại Mỹ): ông dự đoán rằng chính sách nới lỏng tiền tệ quá đáng sẽ chỉ dẫn đến lạm phát và thất nghiệp cao, một dự đoán đã được xác thực bởi thời kỳ đình lạm những năm 1970.

Uy tín của phong trào chống Keynes lại càng dâng cao mạnh mẽ.

Tuy vậy, cuối cùng phong trào chống Keynes cùng những người kế tục Friedman lại đi xa hơn nhiều so với quan điểm tương đối ôn hòa của ông. Trong giới kinh tế học tài chính, quan điểm coi thường thị trường tài chính, xem nó như “sòng bạc” của Keynes được thay thế bằng lý thuyết “thị trường hiệu quả” cho rằng với tất cả những thông tin sẵn có, thị trường tài chính luôn định giá đúng.

Trong khi đó, nhiều nhà kinh tế vĩ mô hoàn toàn phủ nhận cách giải thích của Keynes về suy thoái kinh tế. Một số còn trở lại với quan điểm của Schumpeter và những người biện hộ cho cuộc Đại suy thoái, xem suy thoái là điều tốt, là một phần trong quá trình điều chỉnh để thay đổi của nền kinh tế. Và kể cả những người không cực đoan đến thế cũng lập luận rằng mọi nỗ lực chống suy giảm kinh tế đều có hại hơn là có lợi.

Không phải nhà kinh tế vĩ mô nào cũng đi theo con đường đó: nhiều người tự gọi mình là những người “Keynes-mới”, họ tiếp tục tin vào vai trò chủ động của chính phủ. Dù vậy ngay cả họ cũng đồng ý với quan điểm rằng nhà đầu tư và người tiêu dùng hợp lý còn thị trường nói chung là luôn đúng.

Đương nhiên, cũng cố một số người không đi theo xu hướng chung: một số ít nhà kinh tế thách thức giả định về hành vi hợp lý, nghi ngờ niềm tin vào thị trường tài chính và chỉ ra hàng loạt những cuộc khủng hoảng tài chính trong lịch sử đã để lại những hậu quả kinh tế thảm khốc. Nhưng họ như đang bơi ngược dòng, không thể đả phá nổi tính tự mãn ngu ngốc đang lan tỏa trong toàn giới kinh tế khi ấy.

(còn tiếp) 
Paul Krugman / The New York Times
Dịch: Minh Tuấn - Hoàng Sơn

Các nhà lý thuyết tài chính không chấp nhận giả thuyết thị trường hiệu quả chỉ vì nó đẹp, tiện dụng và có lợi. Họ cũng tiến hành rất nhiều quan sát thống kê có vẻ cực kỳ thuyết phục...

III. NỀN TÀI CHÍNH PANGLOSS

(*) Pangloss: nhân vật trong tác phẩm Candice của Voltaire, thường được dùng để chỉ những người lạc quan một cách ngây thơ.

Trong thập kỷ 30, vì nhiều lý do hiển nhiên thị trường tài chính không dành được nhiều sự tôn trọng. Keynes từng so sánh nó với “một cuộc thi trong đó những người tham gia phải lựa chọn sáu khuôn mặt đẹp nhất từ hàng trăm tấm ảnh, giải thưởng sẽ được trao cho ai có lựa chọn gần giống nhất với tất cả những người còn lại; vì thế mỗi người tham dự không lựa chọn khuôn mặt nào mình thấy đẹp nhất mà lại chọn khuôn mặt anh ta nghĩ nhiều khả năng sẽ lôi cuốn những người cùng chơi khác nhất.”

Và Keynes cho rằng sẽ chẳng phải là ý tưởng hay nếu để những thị trường nơi nhà đầu cơ dành thời gian theo đuôi kẻ khác làm chủ những quyết định kinh doanh quan trọng: “Khi thị trường vốn của một quốc gia trở thành thứ phụ phẩm của một sòng bạc, nó sẽ không thực hiện được chức năng của mình.”

Tuy vậy, cho đến khoảng năm 1970, việc nghiên cứu về thị trường tài chính dường như đã rơi vào tay những Tiến sỹ Pangloss trong tác phẩm của Voltaire, những người cho rằng chúng ta đang sống trong thế giới tốt đẹp nhất có thể có. Những tranh luận về sự bất hợp lý của nhà đầu tư, về bong bóng, về những vụ đầu cơ phá hoại gần như biến mất khỏi những buổi trao đổi học thuật.

Kinh tế học bị thống trị bởi “giả thuyết thị trường hiệu quả,” do Eugene Fama từ ĐH Chicago đề xướng, theo đó với những thông tin sẵn có, giá trị tài sản trên thị trường tài chính chính là giá trị thực chất của nó. (Ví dụ như giá cổ phiếu của một công ty luôn phản ánh chính xác giá trị của công ty đó với những thông tin sẵn có như lợi nhuận doanh nghiệp, triển vọng kinh doanh,…).

Và cho đến những năm 1980, nhiều nhà kinh tế học tài chính, đáng chú ý có Michael Jensen từ Trường Kinh doanh Havard, lập luận rằng vì thị trường tài chính luôn định giá đúng, điều tốt nhất lãnh đạo doanh nghiệp nên làm là tối đa hóa giá trị cổ phiếu của mình, không chỉ vì lợi ích của bản thân họ mà còn của toàn nền kinh tế. Nói cách khác, các nhà kinh tế học tài chính tin rằng chúng ta nên đặt thị trường vốn của quốc gia mình vào tay thứ Keynes đã gọi là “sòng bạc.”

Sự chuyển biến trong giới kinh tế này không dựa trên bất kỳ sự kiện thực tế nào. Thực tế, những ký ức về năm 1929 đang phai nhạt dần, thị trường hết tăng lại đến giảm với những câu chuyện truyền kỳ về các vụ đầu cơ quá mức. Ví dụ như trong hai năm 1973-1974, cổ phiếu mất 48% giá trị. Trong vụ sụp đổ 1987, chỉ số Dow mất 23% trong chỉ một ngày mà chẳng rõ nguyên nhân. Ít nhất sau những vụ việc ấy người ta cũng nên có chút nghi ngờ về cái gọi là thị trường hợp lý.

Tuy vậy, những sự kiện Keynes đáng lẽ đã lấy làm bằng chứng về sự thiếu tin cậy của thị trường lại chẳng ngăn chặn nổi những ý tưởng đẹp đẽ. Các nhà kinh tế học tài chính đã phát triển một mô hình lý thuyết đẹp một cách hoàn mỹ dựa trên giả định mọi nhà đầu tư đều cân đối một cách hợp lý giữa rủi ro và lợi nhuận, Mô hình Định giá Tài sản Vốn (Capital Asset Pricing Model – CAPM).

CAPM không chỉ đưa ra cách chọn lựa danh mục đầu tư, mà quan trọng hơn nó còn cho biết định giá các chứng khoán phái sinh ra sao. Sự đẹp đẽ và có vẻ như rất hữu dụng của lý thuyết này mang lại hàng loạt giải Nobel cho các tác giả của nó, và những người tinh thông lý thuyết này cũng nhận được phần thưởng trần tục hơn một chút: với những mô hình mới trong tay và khả năng toán học siêu đẳng, những giáo sư tầm thường tại các trường kinh doanh có thể vụt trở thành những khoa học gia hàng đầu kiếm bộn tiền tại phố Wall.

Công bằng mà nói các nhà lý thuyết tài chính không chấp nhận giả thuyết thị trường hiệu quả chỉ vì nó đẹp, tiện dụng và có lợi. Họ cũng tiến hành rất nhiều quan sát thống kê có vẻ như cực kỳ thuyết phục. Nhưng những thống kê này vô cùng hạn chế. Các nhà kinh tế học tài chính hiếm khi hỏi một câu hỏi dù rất rõ ràng những cũng rất khó trả lời rằng liệu giá tài sản có tương xứng với các yếu tố cơ bản ví dụ như lợi nhuận hay không. Larry Summers, nay là cố vấn kinh tế hàng đầu cho chính quyền Obama, từng chế giễu các nhà kinh tế học tài chính là “các nhà kinh tế học cà chua” “đã chỉ ra rằng một chai nước sốt cà chua 2 quart (đơn vị đo chất lỏng của Anh ) phải được bán với giá gấp đôi chai nước sốt cà chua 1 quart,” rồi đi đến kết luận rằng thị trường nước sốt cà chua hoàn toàn hiệu quả.

Nhưng lời chế nhạo ấy hay những phê phán lịch sự hơn từ các nhà kinh tế như Robert Shiller từ ĐH Yale cũng chẳng có mấy tác dụng. Các nhà lý thuyết tài chính vẫn tin rằng mô hình của mình về cơ bản là đúng, và nhiều người nắm quyền lực trong tay cũng vậy. Đặc biệt trong số đó có Alan Greenspan, người sau này là Chủ tịch FED và là đã từ lâu ủng hộ việc bãi bỏ luật lệ của ngành tài chính.

Ông không kêu gọi khống chế cho vay dưới chuẩn cũng như phủ nhận sự tồn tại của bong bóng nhà đất với niềm tin rằng các nhà kinh tế học tài chính đã kiểm soát được mọi thứ. Năm 2005, trong buổi lễ tôn vinh nhiệm kỳ của Greenspan tại FED, một người dũng cảm tên là Raghuram Rajan (bất ngờ là ông này đến từ ĐH Chicago) đã công bố một nghiên cứu cảnh báo hệ thống tài chính đang chấp nhận quá nhiều rủi ro tới mức đáng báo động. Ông bị cả hội trường chế nhạo, kể cả Larry Summers cũng gạt lời cảnh báo này đi vì cho rằng nó “sai lầm.”

Tuy vậy, đến tháng 10 năm ngoái, chính Greenspan phải thú nhận rằng mình đang ở trong tình trạng “khủng hoảng niềm tin,” vì “tòa lâu đài tri thức trong tôi” đã “sụp đổ.” Vì sự sụp đổ của tòa lâu đài tri thức ấy đi kèm với sự sụp đổ của thị trường trong thế giới thực, kết quả là một cuộc suy thoái nghiêm trọng, cuộc suy thoái tồi tệ nhất kể từ thời Đại suy thoái.

Những nhà hoạch định chính sách nên làm gì? Đáng buồn là kinh tế học vĩ mô đáng lẽ phải đưa ra những lời chỉ dẫn rõ ràng để nền kinh tế thoát khỏi bão tố thì chính nó lại đang rơi vào cơn bĩ cực của chính mình.

IV. VẤN ĐỀ VĨ MÔ
“Chúng ta đang vướng phải một mớ bòng bong khủng khiếp, chẳng kiểm soát nổi một cỗ máy quá phức tạp mà ngay đến họat động của nó chúng ta còn chưa tỏ tường. Kết quả là mơ ước làm giàu có thể sẽ biến mất trong một thời gian, có lẽ đó sẽ là một khoảng thời gian rất dài.” John Maynard Keynes đã viết như vậy trong bài tiểu luận nhan đề “Cuộc đại suy thoái 1930,” trong đó ông cố giải thích nguyên nhân của cơn đại nạn đang quét qua thế giới khi ấy. Và đúng là ước mơ làm giàu đã biến mất trong một thời gian quá dài và chỉ Chiến tranh thế giới II mới thực sự chấm dứt được Đại suy thoái.

Tại sao ban đầu phân tích của Keynes về Đại suy thoái như một “mớ bòng bong khủng khiếp” lại giàu sức hấp dẫn đến vậy? Và tại sao những nhà kinh tế vào khoảng năm 1975 lại chia rẽ khi đánh giá quan điểm của Keynes?

Người viết bài này muốn giải thích bản chất của kinh tế học theo Keynes bằng một câu chuyện ngụ ngôn ngắn gọn, một phiên bản thu nhỏ của mớ bòng bong đang tàn phá nền kinh tế.

Lấy ví dụ có một Hợp tác xã trông trẻ Đồi Capitol.

Hợp tác xã này là một tổ chức gồm 150 cặp vợ chồng trẻ đồng ý giúp người khác trông con khi họ vắng nhà vào buổi tối. Để đảm bảo mọi cặp vợ chồng đều trông trẻ như nhau, hợp tác xã đưa ra một loại “tiền” là những phiếu làm bằng bìa cứng, mỗi phiếu chứng nhận người cầm nó đã trông trẻ trong vòng nửa giờ. Khi gia nhập hợp tác xã mỗi thành viên nhận được 20 phiếu và sẽ phải trả lại đúng số lượng đó khi rời nhóm.

Đáng buồn là hóa ra các thành viên của hợp tác xã đều muốn dự trữ hơn 20 phiếu, có lẽ là để phòng trường hợp muốn đi vắng vài lần. Kết quả là tương đối ít người muốn tiêu “tiền” và đi chơi tối, trong khi nhiều người lại muốn trông trẻ để có thể tiết kiệm được nhiều hơn. Nhưng cơ hội trông trẻ chỉ đến khi có ai đó muốn đi chơi tối, điều đó có nghĩa là khó mà tìm được việc trông trẻ, khiến các thành viên của hợp tác xã này lại càng miễn cưỡng đi chơi tối, việc trông trẻ đã hiếm nay lại càng hiếm hơn.

Nói ngắn gọn là hợp tác xã rơi vào suy thoái.

Đừng coi câu chuyện này ngu ngốc hay vớ vẩn: kể từ thời Adam Smith ngộ ra gốc rễ của các quá trình kinh tế trong một nhà máy đinh ghim, các nhà kinh tế đã sử dụng các ví dụ quy mô nhỏ để đưa ra lời giải đáp cho những vấn đề to lớn. Câu hỏi đặt ra là liệu ví dụ cụ thể ấy có nói lên bản chất của những gì đang diễn ra trong một cuộc suy thoái, theo đó nguyên nhân của suy thoái là sức cầu không tương xứng hay không có đủ công việc trông trẻ cho tất cả những ai có nhu cầu.

40 năm trước đa phần các nhà kinh tế đều đồng tình với cách giải thích này. Nhưng kể từ đó các nhà kinh tế vĩ mô chia thành hai phe: các nhà kinh tế “nước mặn” (saltwater economist, chủ yếu tại các trường ĐH ven biển của Mỹ) dù ít dù nhiều cũng chia sẻ quan điểm của Keynes về suy thoái; và các nhà kinh tế “nước ngọt” (freshwater economist, chủ yếu đến từ các trường trong nội địa) phủ nhận quan điểm trên.

Các nhà kinh tế “nước ngọt” về cơ bản là những nhà lý thuyết thuần túy tân cổ điển. Họ tin rằng tất cả các phân tích kinh tế có giá trị phải xuất phát từ giả định cá nhân hiêu quả và thị trường luôn đúng nhưng câu chuyện hợp tác xã trông trẻ lại vi phạm giả định đó. Theo quan điểm của họ, nhìn chung là không thể có chuyện thiếu cầu, vì giá luôn thay đổi để cung tương xứng với cầu. Nếu mọi người muốn nhiều phiếu trông trẻ hơn, giá trị của những phiếu này sẽ tăng lên, vì thế chúng sẽ có giá 40 phút trông trẻ thay vì nửa tiếng chẳng hạn, hay tương ứng với chi phí của một giờ trông trẻ giảm từ 2 xuống 1,5 phiếu.

Vấn đề sẽ được giải quyết khi sức mua của phiếu trông trẻ trong lưu thông tăng lên nên mọi người thấy không cần phải tích trữ thêm nữa, do đó, không có suy thoái. Nhưng suy thoái không giống một giai đoạn không có đủ nhu cầu thuê mướn thêm người sẵn sàng làm việc chăng? Vẻ bề ngoài không nói lên điều gì, các nhà lý thuyết “nước ngọt” nói.

Theo cách nhìn của họ, những nguyên lý kinh tế có giá trị cho thấy không thể có sự thiếu hụt chung về cầu. Kinh tế học theo Keynes đã được “chứng minh là sai lầm” như Cochrane từ ĐH Chicago nói.

Nhưng suy thoái vẫn cứ diễn ra. Tại sao vậy?

(còn tiếp)

 Phải đến cuộc khủng hoảng này cả hai phái "nước ngọt" và "nước mặn" mới nhận ra họ khác nhau nhiều đến ra sao và phái “Keynes mới” đã lạc quan tếu đến thế nào.

Thp niên 70, nhà kinh tế hc “nước ngt” hàng đu tng đot gii Nobel Robert Lucas lp lun rng nguyên nhân ca suy thoái là s hn lon nht thi: doanh nghip và người lao đng không phân bit ni s thay đi mc giá chung vì lm phát hot gim phát và s thay đi ti chính ngành mình. Lucas cnh báo rng bt kỳ n lc nào chng li chu kỳ kinh doanh s phn tác dng: các chính sách kinh tế ch làm tình hình thêm ri lon.
Tuy vy cho đến nhng năm 80, các nhà kinh tế “nước ngt” còn ph đnh c chuyn suy thoái là điu xu. Thay vào đó, nhng nhà lãnh đo mi ca phong trào này, đc bit là Edward Prescott khi đó đang công tác ti ĐH Minnesota lp lun rng biến đng ca giá và thay đi sc cu không h có liên quan ti chu kỳ kinh doanh.
Thay vào đó, chu kỳ kinh doanh phn ánh s biến đng da trên tiến b công ngh, nó đươc khuếch đi bi phn ng hp lý t người lao đng, h tình nguyn làm vic nhiu hơn khi điu kin thun li và ít hơn khi điu kin không thun li. Tht nghip là quyết đnh có ch đích ca người lao đng mun dành thi gian ngh ngơi.
Nói trng ra như vy thì lý thuyết này nghe tht ng ngn, Đi suy thoái hóa ra li là mt kỳ ngh dài ngày à? Thc thà mà nói người viết bài này thy nó tht s ngô nghê. Nhưng gi đnh cơ bn trong “lý thuyết chu kỳ kinh doanh thc” ca Prescott li được din gii thành nhng mô hình toán hc khéo léo đến tài tình, được sp xếp thành nhng chui d liu thng kê tinh tế và rút cc lý thuyết này li tiến ti chi phi vic ging dy môn kinh tế vĩ mô ti nhiu cơ s đi hc.
Năm 2004, như mt minh chng cho sc nh hưởng ca lý thuyết đó, Prescott nhn chung gii Nobel vi Finn Kydland t ĐH Carnegie Mellon.
Trong khi đó, các nhà kinh tế hc “nước mn” do d. Dù các nhà kinh tế như N. Gregory Mankiw ti Havard, Olivier Blanchard t MIT và David Romer t ĐH California, Berkeley nhn thc được rng khó mà dung hòa được cách nhìn nhn suy thoái t phía cu ca Keynes vi quan đim ca lý thuyết tân c đin, h đã tìm thy bng chng cho thy khó mà chi b được cách nhìn nhn suy thoái t phía cu.
Vì thế h sn sàng t b gi thuyết th trường hoàn ho hoc s hp lý hoàn ho, hoc là c hai, đưa thêm nhng khuyết tt ca th trường vào đ nhìn nhn suy thoái trên quan đim ca Keynes. Theo cách nhìn “nước mn”, vn nên thc thi các chính sách ch đng ngăn nga suy thoái.
Nhưng các nhà kinh tế t coi mình thuc phái “Keynes mi” này không cưỡng li được s hp dn ca nhng cá nhân hiu qu và th trường hoàn ho. H c gi mình càng gn lý thuyết tân c đin chính thng càng tt. Điu đó có nghĩa là không có ch trong các mô hình thông dng cho nhng th như bong bóng hay h thng ngân hàng sp đ. Cuc khng hong kinh tế tài chính vĩ mô như Châu Á trong hai năm 1997-1998 và cuc suy thoái ti Arghentina năm 2002, nhng s kin din ra trong thế gii thc y không được phn ánh trong dòng tư tưởng ch đo ca phái Keynes mi.
K c như vy, người ta vn có th nghĩ rng s khác bit quan đim gia hai trường phái kinh tế “nước ngt” và “nước mn” s luôn đt h thế đi đu v các chính sách kinh tế.
Tuy vy đáng ngc nhiên là t năm 1985 cho đến năm 2007, tranh lun gia hai phái “nước ngt” và “nước mn’ ch yếu v lý thuyết ch không phi thc tin. Lý do là nhng người “Keynes mi”, không ging như nhng người theo Keynes nguyên bn, không nghĩ rng cn phi s dng chính sách tài khóa (thay đi trong thuế khóa và chi tiêu chính ph) đ chng suy thoái.
H tin rng chính sách tin t do nhng nhà k tr ti FED cm trch là đ đ điu tiết nn kinh tế. Ti l sinh nht 90 tui ca Milton Friedman, Ben Bernanke, người dù ít dù nhiu cũng tng là mt GS theo phái “Keynes mi” ti ĐH Princeton và khi y là mt thành viên trong Hi đng thng đc FED, phát biu v cuc Đi suy thoái: “Ông đã đúng. Chúng tôi đã gây ra nó. Chúng tôi xin li. Nhưng nh có ông, nó đã không xy ra thêm mt ln na.” Thông đip rõ ràng là tt c nhng gì cn đ tránh suy thoái là mt Cc d tr liên bang khéo léo hơn.
Và k t khi chính sách kinh tế vĩ mô được giao vào tay nhc trưởng Greenspan và không còn các chương trình kích thích kinh tế kiu Keynes, các nhà kinh tế “nước ngt” chng còn gì đ phàn nàn. (H không tin chính sách tin t có tác đng gì tt đp, nhưng h tin rng nó cũng chng có gì hi.)
Phi đến cuc khng hong này c hai phái mi nhn ra h khác nhau nhiu đến ra sao và phái “Keynes mi” đã lc quan tếu đến thế nào.
V. AI MÀ BIT ĐƯỢC …
Trong các cuc tranh lun ca gii kinh tế hc gn đây, câu m đu được ưa chung nht thường là “không ai có th tiên đoán được …” Đó là nhng gì người ta nói v mt thm ha hoàn toàn có th d đoán, đáng l ra đã được tiên đoán và thc s đã được mt s ít nhà kinh tế - nhng người b ch trích vì n lc cnh báo ca mình - nhìn thy trước.
Có th ly ví d v s leo thang ri xung dc ca giá nhà đt. Mt vài nhà kinh tế, trong đó ni bt là Robert Shiller, đã nhn thy tình trng bong bóng ca th trường này và lên tiếng báo đng v nhng hu qu nghiêm trng nếu xy ra đ v. Tuy nhiên, nhng nhà hoch đnh chính sách không tiếp thu được s tht đó. Năm 2004, Alan Greenspan đã gt b nhng li bình lun v bong bóng nhà đt, ông tuyên b: “Không th có tình trng giá c b bóp méo nghiêm trng trên phm vi toàn quc”. Đến năm 2005, Ben Bernanke phát biu: “Giá nhà tăng ch yếu do nn tng kinh tế vng chc”.
Ti sao h không thy được bong bóng này? Khách quan mà nói, lãi sut được gi mc thp mt cách bt bình thường chính là mt trong nhng nguyên nhân làm cho giá nhà tăng. Có l ngài Greenspan và ngài Bernanke mun biu dương thành công ca Fed trong vic cu nn kinh tế thoát khi suy thoái năm 2001, nhưng nó cũng đng nghĩa vi vic tha nhn nhng thành công đó phn ln là nh h đã to ra mt qu bong bóng khng l mà v n ca nó có th dp tt nim hân hoan mng thng li.
Tuy vy, công chúng vn tin tưởng rng chng có bong bóng nào c. Tht đáng ngc nhiên là nếu đc li nhng li cam đoan ca Greenspan s thy chúng chng h da trên mt bng chng thc tế nào mà ch xut phát t mt gi đnh đơn gin - không th có bong bóng nhà đt. Nhng nhà lý thuyết tài chính còn tin tưởng mnh m hơn vào quan đim này.
Trong mt cuc phng vn vào năm 2007, Eugene Fama, cha đ ca lý thuyết th trường hiu qu, đã tuyên b: “Đi vi tôi, t “bong bóng” chng có ý nghĩa gì c”, và ông gii thích lý do ti sao chúng ta có th tin tưởng th trường nhà đt: “Th trường nhà đt tuy thanh khon thp, nhưng bù li mi người rt thn trng khi quyết đnh mua nhà. Đó thường là khon đu tư ln nht mà h thc hin, vì thế h s xem xét k càng và so sánh giá c. Chuyn mc c cũng rt cht ch.”
Đúng như vy, nhng người mua nhà thường so sánh rt cn thn giá ngôi nhà mà h có th s s hu vi nhng căn nhà khác. Nhưng điu này không có nghĩa rng giá c chung trên toàn b th trường nhà đt là hp lý. Chúng ta li bt gp kinh tế hc kiu “nước st cà chua”: bi vì mt chai nước st cà chua 2 quart (đơn v đo cht lng ca Anh – ND) đt gp đôi chai 1 quart nên các nhà nghiên cu lý thuyết tài chính cho rng giá ca nước st là hp lý.
Tóm li, nim tin vào tính hiu qu ca các th trường tài chính đã che mt rt nhiu nếu không mun nói là gn như tt c các nhà kinh tế hc, khiến h không nhn ra tình trng báo đng v mt trong nhng bong bóng tài chính ln nht trong lch s. Và lý thuyết th trường hiu qu phi chu trách nhim vì đã thi phng qu bong bóng đó lên.

Gi thì v n bong bóng đã xy ra, tính ri ro thc s ca nhng tài sn được cho là an toàn đã bc l rõ nét và h thng tài chính đã th hin rõ s mong manh ca nó. 13 nghìn t USD đã bc hơi khi tng tài sn ca các h gia đình M sau cuc khng hong. Thêm vào đó là hơn sáu triu vic làm b ct gim, t l tht nghip đang hướng ti mc k lc k t năm 1940. Vy kinh tế hc hin đi đưa ra gii pháp nào cho tình trng hin thi?
Và liu chúng ta có nên tin tưởng vào gii pháp đó hay không?

VI. NHNG TRANH CÃI XUNG QUANH GÓI KÍCH THÍCH
S yên bình gi to đã ph bóng lên kinh tế hc vĩ mô sut t năm 1985 cho ti năm 2007. Thc tế không h có mt s hi t nào gia hai trường phái “nước mn” và “nước ngt” trong sut quãng thi gian này. Thế nhưng đó là nhng năm tháng ca “Thi kỳ n đnh ln” – giai đon nn kinh tế tăng trưởng vi lm phát không đáng k và ch có mt vài đt suy thoái nh. Nhng nhà kinh tế theo trường phái “nước mn” tin rng Fed đã kim soát mi th rt tt. Trong khi trường phái “nước ngt”  không cho rng hành đng ca Fed thc s đem li li ích, nhưng h chp nhn im lng trước s gi di đó.
Thế ri cuc khng hong xy ra đã kết thúc thi kỳ êm đm gi to y. Nhng chính sách k tr hn hp được c hai trường phái ng h đt nhiên không còn đáp ng được hoàn cnh na – và s cn thiết phi có chính sách mnh tay hơn đã li châm ngòi cho nhng cuc tranh cãi muôn thu, ln này tr nên gay gt hơn bao gi hết.
Vì sao nhng chính sách cũ tr nên không phù hp na? Câu tr li gói gn ch trong mt t: “s 0”.
Trong mt cuc suy thoái thông thường, Fed s phn ng bng cách mua vào Trái phiếu kho bc – chng khoán n ngn hn ca chính ph - t các ngân hàng. Điu này làm cho lãi sut trái phiếu gim, các nhà đu tư mun tìm kiếm li nhun cao hơn s chuyn sang các tài sn khác và kéo li tc t nhng tài sn đó gim theo; và thường thì lãi sut được h xung thp theo cách như vy s kích thích nn kinh tế đi lên nhanh chóng.
Trong quá kh, Fed cũng đã đi phó vi cuc suy thoái năm 1990 bng cách h t l lãi sut ngn hn t 9% xung còn 3%; và vi cuc suy thoái năm 2000, lãi sut được h t 6,5% xung 1%. Trong n lc đương đu vi đt suy thoái hin nay, Fed tiếp tc điu chnh lãi sut t 5,25% xung 0%.
Thế nhưng 0% vn là chưa đ đ vc dy nn kinh tế, và Fed cũng không th đy lãi sut xung thp hơn được na. T lúc lãi sut gn bng 0%, nhiu nhà đu tư đã chn gii pháp tích tr tin mt thay vì cho vay ra. Do đó, vào cui năm 2008, khi lãi sut cơ bn đã mc mà các nhà kinh tế hc vĩ mô gi là “gii hn s không” thì chính sách tin t đã mt hoàn toàn tác dng, mc cho suy thoái vn tiếp tc lún sâu hơn.
Vy chúng ta phi làm gì trước tình trng này? Đây là ln th hai nước M vp phi s cn tr t “gii hn s không”, ln đu tiên chính là trong cuc Đi suy thoái. Nhưng cũng chính vì nhìn thy được gii hn lãi sut y, Keynes đã ch trương dùng bin pháp tăng chi tiêu chính ph: khi chính sách tin t không phát huy được hiu qu và không th khuyến khích khu vc tư nhân tăng chi tiêu, thì chính ph phi thay thế v trí đó đ chng đ cho nn kinh tế. Kích thích tài khóa là câu tr li ca Keynes cho nhng ln suy thoái trm trng như cuc khng hong hin nay.
Tư tưởng ca Keynes chính là nn tng cho nhng chính sách kinh tế dưới thi chính quyn Obama đã được trường phái “nước ngt” ng h mnh m. Trong 25 năm qua, h đã không phn đi cho nhng n lc điu tiết nn kinh tế ca Fed, nhưng s hi sinh ca hc thuyết Keynes đã khiến mi th hoàn toàn thay đi.
Tr li nhng năm 1980, Lucas, giáo sư đi hc Chicago, đã viết rng kinh tế hc ca Keynes b coi thường đến ni “trong các hi tho nghiên cu, mi người không còn coi trng lý thuyết ca Keynes na; nhng thính gi thường huýt sáo và cười đùa vi nhau” - vic tha nhn cái nhìn đúng đn ca Keynes đng nghĩa vi b giu ct và chế nho.
G.S Cochrane t ĐH Chicago ni gin vi ý tưởng tăng cường chi tiêu công có th gim bt suy thoái. Ông ta đã nói: “Nó không còn nm trong bài ging ca bt c ging viên đi hc nào t nhng năm 1960. Nhng tư tưởng ca Keynes ch là chuyn hão huyn mà sai lm ca chúng đã được chng minh.
Khi b stress, ta có th gii ta bng cách hi tưởng li nhng câu chuyn c tích được nghe t thi thơ u, nhưng điu đó không làm cho chúng bt hoang đường hơn.” (Đây chính là bng chng th hin mi bt đng sâu sc gia hai trường phái “nước ngt” và “nước mn”, đến ni Cochrane tin rng “không mt ai” còn dy kinh tế hc theo Keynes na, nhưng thc tế thì nó vn đang được ging dy nhng trường như Princeton, MIT hay Havard.
Gi đây, nhiu nhà kinh tế hc trường phái “nước mn” – nhng người đã t hài lòng vi nim tin rng s rn nt trong kinh tế hc vĩ mô đang thu hp li – đang thc s b sc khi nhn ra trường phái “nước ngt” lâu nay thm chí còn chng bun lng nghe.
Các nhà kinh tế “nước ngt” đã lên tiếng ch trích kch lit gói kích thích ca chính ph không có v là nhng người đã nghin ngm k kinh tế hc theo Keynes và thy chúng vn còn thiếu sót mà h ging như nhng k không biết gì v lý thuyết này và đang làm sng li nhng tư tưởng sai lm trước năm 1930 mà c nghĩ rng nhng gì mình phát biu là hoàn toàn mi m và sâu sc.
Và có v như Keynes không phi người duy nht mà nhng suy nghĩ ca ông b lãng quên. Nhà nghiên cu Brad Delong t ĐH California, Berkeley đã viết v v “s sp đ tri thc” ca trường phái Chicago rng: quan đim ca trường phái này hin thi cũng hoàn toàn ph nhn tư tưởng ca Milton Friedman. Friedman tin rng nên s dng các chính sách ca Fed hơn là thay đi chi tiêu công đ n đnh nn kinh tế, nhưng ông chưa bao gi khng đnh rng tăng cường chi tiêu chính ph, dưới bt c hoàn cnh nào, cũng không th to thêm vic làm. Thc tế, nếu đc li cun “Lý thuyết chung v phân tích tin t”, tác phm tóm tt nhng nghiên cu ca ông, bn s cm thy ngc nhiên khi thy nó “Keynes” đến nhường nào.
Và tt nhiên Friedman cũng không h tin tưởng vào quan đim t l tht nghip cao phn ánh tinh thn lao đng sa sút cũng như ý kiến cho rng các cuc suy thoái thc ra có tác dng tt cho nn kinh tế. Nhng lp lun này đã được chính thế h các nhà kinh tế hc “nước ngt” gn đây đưa ra.
Casey Mulligan, nhà kinh tế trường phái Chicago, lp lun rng t l tht nghip cao là do có nhiu người không mun làm vic: “Đng lc tài chính sn có khiến người lao đng không thiết tha đi tìm vic... s st gim t phía ngun cung lao đng (mong mun đi làm ca người dân) là nguyên nhân chính làm cho s lượng vic làm ít đi ch không phi là phía cu lao đng (s công nhân mà nhà tuyn dng cn thuê mướn).” C th, Mulligan cho rng người công nhân la chn phương án tiếp tc ngh làm bi h s nhn được khon tin tr cp tài sn thế chp nhiu hơn. Còn Cochrane thì tuyên b t l tht nghip cao thc ra là mt điu tt: “Chúng ta nên có mt cuc suy thoái. Nhng người th c đi ch biết đóng đinh Nevada cn mt th gì đó khác đ làm.”
Cá nhân tôi cho rng điu này tht s điên r. Ti sao nên đ tht nghip lan tràn khp c nước ch nhm mc đich kéo nhng người th mc đi khi Nevada? Và ai có th nói mt cách nghiêm túc rng chúng ta đã mt 6,7 triu vic làm đơn gin bi người M không mun đi làm na? Nhưng sm mun gì thì nhng nhà kinh tế “nước ngt” cũng s mc vào cái by ca chính h và lâm vào ngõ ct: nếu bn bt đu vi gi đnh rng cá nhân hoàn toàn hp lý và th trường hoàn toàn hiu qu, thì bn phi đi đến kết lun rng tht nghip là t nguyn và suy thoái là điu đáng mong mun!
Nếu như cuc khng hong đã khiến cho nhng nhà kinh tế “nước ngt” tr nên ng ngn, thì nó cũng làm nhiu nhà kinh tế “nước mn” quay tr li vi nn tng ca mình. Không ging như trường phái Chicago, lý thuyết ca h đng ý vi kh năng tht nghip là không t nguyn và coi nó như mt điu ti t. Tuy nhiên mô hình ca trường phái “Keynes mi” đang thng tr c trong ging dy và nghiên cu li cũng gi đnh rng con người luôn hành đng theo lý trí và th trường tài chính hoàn toàn hiu qu.
Đ đưa cuc suy thoái hin nay vào mô hình, “nhng người Keynes mi” buc phi chp vá thêm nhng yếu t vn vt kém thuyết phc vi vai trò là tác nhân kéo chi tiêu ca khu vc tư nhân tm thi gim sút. (Đó chính xác là nhng gì người viết bài này đã làm trong mt vài nghiên cu gn đây) Và nếu da vào nhng yếu t đó đ phân tích tình cnh hin ti thì làm sao chúng ta có th tin tưởng được vào nhng d đoán ca mô hình v tương lai nn kinh tế?
Tóm li, vi tình trng vĩ mô không ly gì làm tt đp hin nay, nhng nhà nghiên cu s phi làm gì?
(còn tiếp)
Paul Krugman / The New York Times
Dch: Minh Tun - Hoàng Sơn

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét