Thứ Bảy, 10 tháng 9, 2011

Đằng sau sự biến động của vàng và đô-la

Một bài viết hết sức đúng. Lưu ý thêm: "Đỉnh điểm của sự thăng hoa (2006) chính là năm chuyển giao quyền lãnh đạo đất nước cho ông NTD".

Đằng sau sự biến động của vàng và đô-la



 - Kể từ đợt biến động dữ dội vào cuối thập niên 1980 sau cú sốc Giá – Lương - Tiền năm 1985, chưa bao giờ thị trường vàng và đô-la ở Việt Nam lại nóng như hiện nay.

TIN LIÊN QUAN

Nhiều người có tiền đang trú chân vào hai loại tài sản này để đảm bảo rằng của cải của mình ít bị hao hụt nhất thay vì bỏ vốn làm ăn để tạo thêm của cải cho xã hội.

Tại sao lại như vậy?

Câu trả lời ở đây là chính là lòng tin và kỳ vọng vào khả năng sinh lời của đồng tiền.

Chúng ta biết rằng, khi kinh tế vĩ mô ổn định, môi trường kinh doanh tốt thì người dân sẽ bỏ vốn ra làm ăn để đồng tiền của mình sinh lời. Kết quả là nền kinh tế sẽ tăng trưởng tốt và cả xã hội khấm khá lên.

Ngược lại, khi bất ổn vĩ mô xảy ra, đồng vốn sẽ được chuyển vào những tài sản ít có khả năng hao hụt nhất thay vì được đưa vào hoạt động kinh doanh. Hậu quả là những bất ổn vĩ mô sẽ trầm trọng hơn và cả xã hội bị thiệt hại.

Những gì đã và đang xảy ra ở Việt Nam kể từ khi Đổi mới đến nay cho thấy rất rõ điều này. 

Thống đốc NHNN với bài tòan khó từ thực trạng kinh tế
Thống đốc NHNN với bài toán khó từ thực trạng cấu trúc nền kinh tế. Ảnh: Tuổi trẻ
Khi cuộc khủng hoảng kinh tế hết sức trầm trọng, được kích hoạt bằng sự kiện đổi tiền năm 1985, nổ ra, nền kinh tế Việt Nam đã rơi vào tình trạng hết sức khó khăn. Hoạt động sản xuất kinh doanh bị đình đốn. Nhiều người đã “tị nạn” khỏi tiền Đồng bằng cách mua bất kỳ thứ gì có thể. Lúc này, thị trường vàng và Đô-la hoạt động hết sức sôi động cho dù việc mua bán ngoại tệ bị cấm.

Hậu quả là kinh tế xã hội Việt Nam ở thời điểm bấy giờ rơi vào tình trạng hết sức rối ren, ai cũng cảm thấy bất an, nhất là trong bối cảnh khối xã hội chủ nghĩa đang bị tan rã và sụp đổ.

Rất may là chính sách đổi mới được bắt đầu tư Đại hội VI của Đảng không chỉ giúp Việt Nam thoát khỏi một cuộc khủng hoảng trầm trọng mà còn đưa kinh tế nước nhà sang một trang mới với những thành công hết sức ấn tượng.

Thứ Năm, 8 tháng 9, 2011

Lạm phát và nền kinh tế Việt Nam

Đọc để biết cách phân tích tiền tệ. Nội dung bài dường như quá cực đoan


Lạm phát và nền kinh tế Việt Nam

 

Người dân Việt Nam đã từng trải qua thời kỳ SIÊU LẠM PHÁT lên tới gần 800% trong 1 năm. Nay tình hình lạm phát đang có xu hướng biến thành lạm phát CỰC KHỦNG trong thời gian tới.

In tiền khủng để chống … lạm phát
“…TS Lê Thẩm Dương – Trưởng khoa Quản trị doanh nghiệp, Đại học Ngân hàng TP.HCM: Khơi thông vốn trên thị trường liên ngân hàng
Tiền rút mạnh, tín dụng tăng chậm thế mà lạm phát vẫn tăng cao, do đó lạm phát ở đây là do chi phí đầu vào tăng…”
Giảm lãi suất cho vay | Kinh tế | Thanh niên
———————————
Ông Lê Thẩm Dương, một tín đồ của chính sách tiền tệ bành trướng luôn thúc giục Ngân hàng Nhà Nước in thêm tiền (DVT, 17/08/2011). Tuy nhiên với cương vị Trưởng khoa một trường Đại học Ngân hàng mà ông không biết rằng Ngân hàng Nhà nước vẫn in tiền đều đặn, thậm chí còn nhiều nữa sao. Thử hỏi TS Lê Thẩm Dương, vậy chứ NHNN “mua” 6 tỉ USD từ tiền ở đâu ra (VinaCorp, 23/08/2011), cứu CK 70 ngàn tỉ đồng hồi cuối tháng 5, trọn tháng 6, (Cafef, 8/6/2011) ở đâu ra?
Tiền trả trái phiếu đáo hạn, cả chục ngàn tỉ đồng, ở đâu ra?
120 ngàn tỉ đồng thâm hụt ngân sách (Tạp chí ngân hàng, 1/4/2011), tiền ở đâu ra chi trả?
Mới đây còn tung thêm 15.000 tỉ đồng giải cứu các ngân hàng phá sản. (GaFin, 5/9/2011)
Hơn thế nữa, họ còn mới đưa thêm 37.000 tỉ đồng dự trữ bắt buộc vào lưu thông, đó cũng là một hình thức bơm tiền ra ngoài thị trường. (GaFin, 6/9/2011)
=> NHNN lén lút in ra gần 500 ngàn tỉ đồng (*) từ đầu năm đến nay, lén lút tung ra thị thường, chỉ là “không báo cáo” mà thôi.
Chưa kể hơn 40 ngàn tỉ đồng nợ trái phiếu đáo hạn (Cafef, 24/3/2011) , tăng tín dụng theo dự tính nghe đâu cũng 23% số đang lưu hành (Dân Trí, 28/12/2010), v.v…
TẤT CẢ số trên đều phải in tiền ra, chứ hoàn toàn không có nguồn thu nhập nào khác.

Thứ Hai, 5 tháng 9, 2011

NỢ CÔNG CỦA VIỆT NAM

NỢ CÔNG CỦA VIỆT NAM


Nguyễn Việt.

Đối với một quốc gia, vấn đề nợ công tác động đến các chính sách tài khóa, tiền tệ, an sinh xã hội, tỷ giá… Nợ công là nợ sinh ra từ khu vực công. Khu vực công gồm: khu vực nhà nước (trung ương, địa phương), khu vực kinh tế công (có sự góp vốn, góp mặt của nhà nước)… Phải kể lể dài dòng ra như vậy để thấy rằng có nhiều công ty quốc doanh trở thành công ty trách nhiệm hữu hạn, nhưng khi công ty bị phá sản, nhà nước không thể phủi tay về trách nhiệm nợ của các công ty ấy. Do đó ở Việt Nam, nợ công là một “đặc sản” của Việt Nam – không thể tìm thấy ở Thái Lan, Philippin… và rất nhiều nước trên thế giới. Nghĩa là vấn đề nợ công ở Việt Nam trục trặc ngay từ khâu đầu tiên, định nghĩa thế nào là nợ công. Đây là nguyên nhân dẫn đến sự khác biệt về tỷ lệ nợ/GDP trong năm 2009 giữa Việt Nam công bố là 41% với Ngân hàng Thế giới (WB) là 47%, mấy năm trước cũng vậy và năm nay vẫn chưa khác. 

Một thực tế bí và mật
Khủng hoảng tài chính của Hy Lạp là một ca nghiên cứu kinh điển của nhiều chuyên gia kinh tế, lý giải quá trình hình thành và các diễn biến ca khủng hoảng này tốn rất nhiều công sức. Tỷ lệ nợ công/GDP của Hy Lạp có khoảng 113% – không quá lớn so với nhiều quốc gia khác – tại sao lâm vào khủng hoảng. Kết quả nghiên cứu cho thấy: chính các hành vi dối trá trong thống kê của Hy Lạp đã làm giới đầu tư quốc tế mất niềm tin, dân chúng trong nước bất hợp tác đã đẩy Hy Lạp rơi vào vòng xoáy bất ổn kinh tế. Mức thâm hụt ngân sách năm 2008 được Hy Lạp công bố là 5%, nhưng đến nay phát hiện lên đến 14%. Bi kịch Hy Lạp là bài học nhỡn tiền của chủ trương đặt tham vọng chính trị lên trên thực lực kinh tế. Tổng cục Thống kê Việt Nam thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư, nhưng công tác thống kê tài chính lại hoàn toàn do Bộ Tài chính làm. Bên cạnh những con số thuộc loại “bí” vì chưa bao giờ được tính toán ra, lại có quá nhiều con số thuộc loại “ mật” nên chẳng giải trình công khai được. Thực tế bí và mật đã dẫn đến chuyện các công chức hữu trách cũng chẳng biết nước ngoài lấy đâu ra các số liệu về kinh tế Việt Nam, “chuyện trong nhà chưa tỏ, ngoài ngõ đã hay” ở trường hợp này thể hiện rất chí lý.

BẠN NÊN ĂN TRỨNG NHƯ THẾ NÀO ?

BẠN NÊN ĂN TRỨNG NHƯ THẾ NÀO ?

Dược Sĩ. PHAN ĐỨC BÌNH
Bác Sĩ. VĨNH PHÚC 
 

Không có món ăn nào quen thuộc với mọi gia đình hơn quả trứng.
Thế nhưng có rất nhiều điều bạn chưa biết về quả trứng !

ª TRỨNG BỔ DƯỠNG NHƯ THẾ NÀO?
Khi ta ăn một miếng thịt luộc hay rô ti, thì đó chỉ là một phần thịt heo, bò… với vài chục dưỡng chất mà chủ yếu là các acid amin… Còn lại các chất khoáng cần cho xương cốt thì ở phần xương; các sinh tố ở gan, lòng; gelatin cần cho da thì ở da; keratin cần cho lông tóc lại ở sừng bò… mà ta không thể ăn được. Ngược lại, khi ta ăn một quả trứng thì ta hưởng được trọn vẹn hơn 60 dưỡng chất trong quả trứng, mà nếu để ấp sau 21 ngày sẽ nở ra một cá thể gà hay vịt con có đủ da, thịt, xương, lông, cánh… không dư không thiếu một chất nào. Tính bổ dưỡng toàn phần này được chứng minh bằng giá trị sinh học của trứng, nghĩa là lấy lượng nitrogen của protein tăng cân (sinh cơ) chia cho lượng nitrogen của protein trứng được ăn vào sẽ có tỉ số bằng 1, tức là ăn bao nhiêu protein của trứng vào thì sẽ biến bấy nhiêu thành protein cơ thể. Lấy tỉ số này nhân với 100 ta sẽ có giá trị sinh học của trứng là 100, trong khi của các thực phẩm khác luôn thấp hơn (xem bảng 2, cột 3)
Protein của trứng hoàn hảo như vậy nên được gọi là protein lý tưởng. Lấy số mg acid amin thiết yếu (8 acid amin đầu trong bảng 1) trong 1g protein trứng để nhân với 100 rồi chia cho số mg acid amin thiết yếu có trong 1g protein  lý tưởng (trứng) ta sẽ có thang điểm đánh giá thực phẩm về mặt hóa học (xem bảng 2, cột 2). Cột 4 bảng 2 còn cho ta biết hiệu quả sinh cơ của một số thực phẩm. Lưu ý trứng ở đây là trứng gà, vịt, cút… ăn cả lòng trắng và lòng đỏ thì mới đạt hiệu quả toàn vẹn được.

Chủ Nhật, 4 tháng 9, 2011

THỀM BIỂN ĐÔNG – CHIẾC NÔI CỦA NGƯỜI VIỆT

THỀM BIỂN ĐÔNG – CHIẾC NÔI CỦA NGƯỜI VIỆT

Hà Văn Thùy

 Cho đến nay, có lẽ ít người để ý rằng, tiến trình hình thành dân cư Việt Nam có khoảng trống lớn. Từ giữa thế kỷ XX, khảo cổ học xác nhận, 32.000 năm trước, người khôn ngoan (Homo sapiens) có mặt đầu tiên trên đất nước ta tại di chỉ Sơn Vi. Nhưng những nghiên cứu di truyền học gần đây cho thấy, người tiền sử đã từ châu Phi theo bờ biển Ấn Độ tới Việt Nam khoảng 70.000 năm trước.
Khám phá của các nhà di truyền học là đáng tin vì khảo cổ học cũng đã phát hiện bộ xương người Mongoloid tại Lưu Giang, Quảng Tây 68.000 năm tuổi, một sọ người Australoid 60.000 năm trước tại sa mạc Mungo nước Úc. Như vậy, di truyền học đã đẩy thời gian người tiền sử xuất hiện trên đất nước ta xa thêm 40.000 năm. 40.000 năm ấy là khoảng trống vô tận của khảo cổ học, chắc chắn đã vô tăm tích nếu không được ghi dấu trong bộ gen của chúng ta!
Vấn đề đặt ra là, trong thời gian thăm thẳm ấy, tổ tiên chúng ta sống ở đâu và hoạt động như thế nào?