Thứ Bảy, 28 tháng 5, 2011

Chính danh, bút danh, nặc danh và mạo danh

Thế giới đa dạng, không nên cho rằng chỉ những người dùng tên của chính mình ký dưới các bài viết mới là chân chính.

Chính danh, bút danh, nặc danh và mạo danh

TS Nguyễn Quang A
Người tự tin luôn dùng tên thật của mình, đấy là chính danh. Các nhà văn, nhà báo đôi khi dùng bút danh, tên dùng trong các bài viết. Một người có thể có vài ba bút danh cho các thể loại khác nhau, nhưng bút danh của các nhà văn nhà báo tử tế thường ổn định và báo giới biết rõ tên thật của tác giả đó. Các nhà hoạt động chính trị trong vòng bí mật cũng thường dùng bút danh để tránh bị nhà cầm quyền truy bức, nhưng khi thắng lợi và nắm quyền thường họ dùng tên thật.
Với sự phát triển của thông tin mạng, trên thế giới ảo, ai cũng có thể viết, có thể ra báo của riêng mình và có thể trở thành “nhà báo”, “nhà văn”. Các nhà báo, nhà văn vẫn thường dùng bút danh quen thuộc hay có bút danh mới cho thế giới mạng. Những người viết tử tế vẫn ứng xử như xưa. Bút danh nổi tiếng có thể trở thành tên gọi “thật” của một con người cụ thể và bạn đọc thậm chí không biết tên khai sinh của họ là gì. Đấy là cách dùng có ý nghĩa cao đẹp của bút danh.

Thứ Sáu, 27 tháng 5, 2011

Những “nghịch lý” lạ của kinh tế Việt Nam

Đọc bài dưới đây thấy quá buồn cười vì người viết chẳng hiểu gì về lý thuyết kinh tế lẫn thực trạng ở VN. Có lẽ cũng vì thế mà ban biên tập VNnet cẩn thận thêm dòng chữ: Bài viết thể hiện góc nhìn riêng của tác giả. Đưa bài này lên đây để xem như tin lạ.

Những “nghịch lý” lạ của kinh tế Việt Nam

(VEF.VN) – Kinh tế Việt Nam ẩn chứa những đặc điểm riêng biệt mà cần phải thấu hiểu những đặc thù này mới có thể đưa ra những chính sách kinh tế phù hợp và đạt hiệu quả tốt nhất.

Độc giả Nguyễn Hồng Hải đưa ra một số đặc thù của nền kinh tế Việt Nam mà việc áp dụng các mô hình và giải pháp kinh tế như tại các nước phát triển để giải quyết các vấn đề kinh tế vĩ mô sẽ khó đạt được hiệu quả.
Bài viết thể hiện góc nhìn riêng của tác giả.

Thứ Ba, 24 tháng 5, 2011

Nghĩa địa xa hoa nhất Việt Nam

Nghĩa địa xa hoa nhất Việt Nam


(Tin tuc) - Do đâu một làng chài từng có thời kỳ vì nghèo đói quá mà phải dắt díu nhau đi ăn xin trở nên giàu có xa hoa như vậy? Đằng sau những ngôi mộ xa hoa bậc nhất Việt Nam là những câu chuyện mà không phải ai cũng biết.

Chỉ có ở Việt Nam - Only in VIETNAM (part 6)

Chỉ có ở Việt Nam
Only in VIETNAM

Tuyên truyền cổ động bầu cử tại Nghĩa trang - Trần sao âm vậy ? Người âm có hỗ trợ ?

GDP đầu người của Việt Nam còn bao nhiêu?

GDP đầu người của Việt Nam còn bao nhiêu? 

Cuối năm, báo cáo chính thức của các cơ quan nhà nước đều nói GDP đầu người của Việt Nam tính đến hết năm 2010 lên đến 1.168 USD. Theo Tổng cục Thống kê, tổng sản phẩm trong nước tính theo giá thực tế trong năm 2010 là 1.980.941 tỷ đồng. Nếu lấy tỷ giá trước lúc điều chỉnh là 19.500 đồng/1 USD thì GDP đầu người của Việt Nam đúng là vào khoảng 1.168 USD.
Nếu lấy tỷ giá sau điều chỉnh vào tuần trước là 20.900 đồng/1 USD thì GDP đầu người còn 1.089 USD. Còn nếu lấy tỷ giá thực tế vào chiều hôm qua, thứ Sáu 18/2/2011 là 22.250 đồng thì GDP của mỗi người dân Việt Nam chỉ còn lại 1.023 USD.
Đừng tin tưỏng mù quáng vào GDP

Những món tiền xây mộ Tổ

Những món tiền xây mộ Tổ

                                Một ngôi mộ ở VN.

Ảnh thăm Campuchia - Angkor (phần 2)

Ảnh Campuchia của tôi chụp 12.2008
Ảnh về Hội phát triển hợp tác kinh tế
Việt Nam - Lào - Campuchia thăm Campuchia
Thăm đền Angkor - Siem Riệp


Ảnh thăm Campuchia - Angkor (phần 1)

Ảnh Campuchia của tôi chụp 12.2008

Ảnh về Hội phát triển hợp tác kinh tế
Việt Nam - Lào - Campuchia thăm Campuchia
Thăm đền Angkor - Siem Riệp


Ảnh thăm Campuchia - Khu vực Hoàng cung và Đài tưởng niệm quân tình nguyện VN tại CPC

Ảnh Campuchia của tôi chụp 12.2008

Ảnh về Hội phát triển hợp tác kinh tế
Việt Nam - Lào - Campuchia thăm Campuchia
Thăm khu Hoàng cung và Đài  tưởng niệm quân tình nguyện VN

Khu Hoàng cung:

Thứ Hai, 23 tháng 5, 2011

Ảnh thăm Campuchia - Cảnh họp với một số cơ quan bạn

Ảnh Campuchia của tôi chụp 12.2008

Ảnh về Hội phát triển hợp tác kinh tế
Việt Nam - Lào - Campuchia thăm Campuchia
Cảnh họp với một số cơ quan bạn


Với Hội đồng phát triển Campuchia

BÀN THÊM VỀ ĐẦU TƯ NHÀ NƯỚC VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ TRONG NỀN KINH TẾ NƯỚC TA


Bài viết cũ của tôi:

BÀN THÊM VỀ ĐẦU TƯ NHÀ NƯỚC VÀ VAI TRÒ  CỦA NÓ TRONG NỀN KINH TẾ NƯỚC TA

Nhà nước và vai trò của đầu tư nhà nước trong nền kinh tế thị trường
          Vai trò của nhà nước, kèm theo nó là đầu tư nhà nước, trong nền kinh tế thị trường thường xuyên là mối quan tâm của nhiều trào lưu kinh tế thế giới. Trong các lý thuyết kinh tế cổ điển, vai trò của nhà nước trong hoạt động kinh tế rất bị coi nhẹ, đặc biệt là vai trò của đầu tư nhà nước; ngược lại, vai trò của khu vực tư nhân được đề cao một cách tuyệt đối. Adam Smith ngay từ năm 1776 đã đưa ra thuyết bàn tay vô hình với lập luận rằng trong một nền kinh tế thị trường cạnh tranh, các cá nhân theo đuổi lợi ích tư nhân riêng lẻ sẽ làm cho nền kinh tế phát triển, từ đó thúc đẩy tăng trưởng phúc lợi chung toàn xã hội.
Trong thập kỷ 50 của thế kỷ 20, Arrow[1] và Debreu[2] đã nâng quan điểm của A. Smith thành cái mà ngày nay được gọi là hai định lý cơ bản của kinh tế học phúc lợi. Hai định lý này nói rằng trong những điều kiện nhất định, không có chính phủ hay nhà hoạch định kế hoạch tập trung nào, cho dù thông thái và có mục tiêu rõ ràng đến đâu, có thể cải thiện được kết quả mà hệ thống thị trường tự do đã tạo ra. Khả năng tốt nhất đối với các nhà hoạch định kế hoạch là làm như các doanh nghiệp cạnh tranh, tức là cố gắng tối đa hoá lợi ích của chính mình.

ĐỔI MỚI ĐẦU TƯ NHÀ NƯỚC THEO HƯỚNG NÀO ĐỂ TĂNG HIỆU QUẢ ?

Bài viết cũ của tôi:

ĐỔI MỚI ĐẦU TƯ  NHÀ NƯỚC

THEO HƯỚNG NÀO ĐỂ TĂNG HIỆU QUẢ ?

          Trong những năm gần đây, nguồn vốn nhà nước (gồm vốn ngân sách nhà nước, vốn tín dụng nhà nước và vốn đầu tư trực tiếp của các doanh nghiệp nhà nước) có khuynh hướng tăng lên rất nhanh do chính sách kích cầu đầu tư của nhà nước được triển khai ngày càng mạnh; tỷ trọng của đầu tư nhà nước trong tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội đến nay đã lên gần 60% trong khi đầu tư của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh chỉ chiếm khoảng 24% và đầu tư của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài chỉ chiếm khoảng 17%. Trong những năm tới đây, dù tỷ trọng vốn nhà nước sẽ tăng lên hay giảm đi thì vai trò của nó vẫn rất quan trọng; vì vậy việc nghiên cứu phương hướng sử dụng nó nhằm đạt hiệu quả cao nhất là cực kỳ cần thiết và cấp bách.

Chỉ có ở Việt Nam - Only in VIETNAM (part 5)

Ảnh cũ lưu trong máy:

Chỉ có ở Việt Nam
Only in VIETNAM
 Lộ hàng – Tranh thủ ngắm nào

Chỉ có ở Việt Nam - Only in VIETNAM (part 4)

Ảnh cũ lưu trong máy:
Chỉ có ở Việt Nam
Only in VIETNAM
 Bốn anh trật tự giao thông khiêng 1 em về đồn; chiều em quá đáng.

Chỉ có ở Việt Nam - Only in VIETNAM (part 3)

Chỉ có ở Việt Nam
Only in VIETNAM

Chỉ có ở Việt Nam - Only in VIETNAM (part 2)

Chỉ có ở Việt Nam
Only in VIETNAM

Chỉ có ở Việt Nam - Only in VIETNAM (part 1)

Chỉ có ở Việt Nam
Only in VIETNAM

Thật khổ cho chị em khi phải qua đây… !


Ảnh thăm Campuchia - Cảnh sinh hoạt và đường phố

Ảnh Campuchia của tôi chụp 12.2008

Ảnh về Hội phát triển hợp tác kinh tế
Việt Nam - Lào - Campuchia thăm Campuchia
Cảnh sinh hoạt và đường phố


Chủ Nhật, 22 tháng 5, 2011

Đầu tư gián tiếp nước ngoài: Một Bài Học Toàn Cầu Hóa

Tài liệu cũ lưu trên máy tính:

Đầu tư gián tiếp nước ngoài: 
Một Bài Học Toàn Cầu Hóa

8.2007.
Trong Tháng Mười tôi đi Bangkok, ngạc nhiên vì đổi một đô la Mỹ chỉ được 35 bạt; mới đầu năm ngoái còn đổi được gần 40 bạt! Một tô hủ tíu ngồi ăn trên vỉa hè vẫn giá 25 bạt, nhưng tính ra đô la thì tăng hơn 20 phần trăm! Ðồng bạt lên giá, chính phủ Thái Lan lo lắng vì đồng bạt lên giá thì hàng hóa Thái Lan khi xuất cảng sẽ lên giá theo, khó cạnh tranh với hàng Trung Quốc, hàng Việt Nam. Ðầu tuần này chính phủ Thái đã tìm cách kiềm không cho tiền lên giá nữa, họ thay đổi luật về tiền đầu tư của người nước ngoài vào các chứng khoán trong nước. Không ngờ (ít nhất, ông bộ trưởng tài chánh Thái không ngờ) nhiều người vội đem bán cổ phần và chỉ số SET của thị trường chứng khoán Bangkok tụt mất 15 phần trăm trong một ngày. Hôm sau, chính phủ Thái sửa lại luật, thị trường lại lên được 11 phần trăm. Nhưng, giới đầu tư thấy mất niềm tin, và các nước đang phát triển khác, nhất là trong vùng Ðông Nam Á cũng bị ảnh hưởng.

QUẢN LÝ ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ BẢN (phần 3)

Bài giảng cũ:
QUẢN LÝ ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ BẢN
PHẦN THỨ HAI
ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH THỰC TIỄN VỪA QUA VỀ ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ BẢN NHỮNG KẾT QUẢ VÀ HẠN CHẾ

I. NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC TRONG LĨNH VỰC
ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN

1. Những mặt làm được

(1). Ban hành nhiều cơ chế, chính sách huy động nguồn lực của đất nước cho đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật. Nguồn vốn đã được đa dạng hoá; cơ chế bao cấp trong đầu tư phát triển đã từng bước được hạn chế và xoá bỏ dần. Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII, đã ban hành hàng loạt cơ chế chính sách về định hướng thu hút nguồn lực trong và ngoài nước và tạo môi trường thông thoáng cho đầu tư phát triển. So với thời kỳ trước đây, trong 3 năm qua  đã ban hành mới, sửa đổi, bổ sung nhiều luật, pháp lệnh, nghị định và các văn bản pháp quy khác liên quan đến thu hút nguồn lực cho đầu tư phát triển, nhờ vậy, tổng nguồn lực huy động cho đầu tư phát triển, tuy chưa đạt kế hoạch đề ra, nhưng đã tăng lên đáng kể.

QUẢN LÝ ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ BẢN (phần 2)

Bài giảng cũ:

QUẢN LÝ ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ BẢN

4. Cơ cấu vốn đầu tư
Đi song song với việc đổi mới nền kinh tế, công tác kế hoạch hoá đã được đổi mới theo 4 hướng sau đây:
Một là, từ cơ chế kế hoạch hoá với 2 thành phần kinh tế cơ bản là quốc doanh và tập thể chuyển sang cơ chế kế hoạch hoá huy động toàn bộ nguồn lực của các thành phần kinh tế phát triển theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước bằng cơ chế chính sách luật pháp và kế hoạch.
Hai là, từ cơ chế khép kín, tự cấp, tự túc trong từng ngành, từng khu vực chuyển sang cơ chế mở cả trong nước và nước ngoài, lấy hiệu quả làm thước đo trong quá trình phát triển.

QUẢN LÝ ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ BẢN (phần 1)


Bài giảng cũ:
QUẢN LÝ ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ BẢN

PHẦN THỨ NHẤT
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP LUẬN NGHIÊN CỨU

I. NHỮNG KHÁI NIỆM CƠ BẢN
 1 Đầu tư và xây dựng cơ bản
 Đầu tư phát triển vừa là nhiệm vụ chiến lược, vừa là giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện thắng lợi các mục tiêu thời kỳ kế hoạch .
 Nói một cách tổng quát đầu tư phát triển là việc sử dụng nguồn lực vật chất (tiền vốn, vật tư, thiết bị, sức lao động...) để xây dựng cơ sở vật chất kỷ thuật của nền kinh tế, tạo ra năng lực các ngành sản xuất như nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế như giao thông vận tải, bưu chính viễn thông, thuỷ lợi, điện lực và các ngành cơ sở hạ tầng xã hội như giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ, y tế, văn hoá xã hội, thể dục thể thao....

OVERVIEW OF INVESTMENT SITUATION AND POLICY IN VIETNAM IN THE 1990s (part 2)

Bài giải trình cũ:
OVERVIEW OF INVESTMENT SITUATION

AND POLICY IN VIETNAM IN THE 1990s
(reduced version in english)

Part 2: The effectiveness of investment capital

A/ Impact of policy and mechanism on the effective allocation of scare resources

I- Impact of policy and mechanism on the allocation of investment capital in early 1990s

In late 1980s and early 1990s, economic liberalization and the open door policy created a milestone in the national ideology: multi-sector economy is adopted in the reality, and the motive to enrich oneself is stimulated in all social groups. Investment policies are greatly eased to allow the participation of all economic components. Capital mobilized for investment in early 1990s has grown rapidly with increasingly higher effectiveness.

OVERVIEW OF INVESTMENT SITUATION AND POLICY IN VIETNAM IN THE 1990s (part 1)

Bài giải trình cũ:
OVERVIEW OF INVESTMENT SITUATION

AND POLICY IN VIETNAM IN THE 1990s
(reduced version in english)

Investment has been one of the most important factors contributing to the high economic growth of Vietnam through the period of economic reform, which started from 1989. Primary analyses show that there are converse trends of investment in the two periods: 1991-1995 and 1996-2000. The most concerned trend is that the growth rate of investment in the second period has decreased too much in comparison with that of the previous period. In order to rationalize causes of those trends, this report will examine investments in state sector, State owned enterprises (SOE), private sector and households as well as foreign invested sector during the 1990s in the following aspects:

-        Investment trends in the above 4 sectors;

-        Reviewing investment regimes in those sectors

-        Assessing problems and difficulties of current investment policies.

-        Discussing some measures to amend investment regime in the next 5 years.

Về hệ số ICOR 2001-2003

Bài giải trình năm 2003:
Về hệ số ICOR 2001-2003
Để đánh giá hiệu quả đầu tư, phương pháp thông dụng nhất là sử dụng hệ số ICOR. Hệ số ICOR thể hiện nhu cầu vốn đầu tư cần thiết để tăng thêm một đơn vị GDP. Trên thực tế, vốn đầu tư thường có tác động để có tăng trưởng GDP sau một số năm, nhưng người ta thường sử dụng thời gian trễ là 1 năm (tức là đầu tư năm t sẽ làm tăng GDP của năm t+1). Hệ số ICOR của năm t được xác định bằng cách chia vốn đầu tư của năm t-1 cho khối lượng GDP tăng thêm của năm t. Nếu hệ số ICOR tăng lên thì hiệu quả sử dụng vốn đầu tư giảm sút và ngược lại, nếu hệ số ICOR giảm xuống thì hiệu quả sử dụng vốn đầu tư tăng lên.

Hệ số ICOR của cả nền kinh tế Việt Nam trong các năm 2001, 2002 và 2003 tương ứng là 4,78; 4,83 và 4,74 (bình quân 3 năm 2001-2003 là 4,78). So với các nước phát triển thì hệ số ICOR cũng tương đối hợp lý trong thời kỳ tăng trưởng kinh tế nhanh. Tuy nhiên, xét trong bối cảnh xuất phát điểm của chúng ta còn thấp, tỷ trọng nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ giản đơn còn cao… thì hệ số ICOR nói trên của ta tương đối cao, tức hiệu quả vốn đầu tư vẫn thấp (năm 2000 hệ số ICOR của Đài Loan là 3,8; Singapore là 3,2; Malaysia là 3,2, Trung Quốc là 4,7…).
Trong ba khu vực của nền kinh tế, hệ số ICOR cũng khá khác nhau qua ba năm qua.