Thứ Bảy, 21 tháng 7, 2012

Vài suy nghĩ về toán học và khoa học của Việt Nam

  
http://www.magmire.com/wp-content/uploads/2010/02/mathematics.pngEntry này giới thiệu một bài viết của Ts Đặng Đình Thi (Anh Quốc), trong đó anh bày tỏ vài suy nghĩ về toán học và khoa học Việt Nam. Có thể tóm lược những ý này trong (i) so với những ngành khác ở Việt Nam, toán học có một thế đứng tốt và đi vào nề nếp nhờ những người đặt nền móng như Gs Lê Văn Thiêm và Gs Hoàng Tuỵ; (ii) nhưng thiếu một cầu nối giữa toán học và các ngành khoa học khác, kể cả kinh tế, nên toán học Việt Nam tồn tại như một ốc đảo; và (iii) đánh giá một nền toán học nên dựa vào những thước đo định lượng mà các nước khác đã và đang làm. Hi vọng tôi hiểu đúng những gì anh Thi nói vì tôi cũng đã có trao đổi cá nhân với anh ấy.
Tôi chỉ muốn thêm một ý nhỏ thôi: đó là phân biệt đánh giá chung một nền khoa học và đánh giá một cá nhân nhà khoa học. Để đánh giá chung một nền khoa học, ngày nay người ta sử dụng các chỉ số về scientometrics hay bibliometrics (chắc tạm dịch là đo lường khoa học). Những chỉ số này bao gồm số lượng bài báo khoa học và những chỉ số liên quan đến tần số trích dẫn (citation). Số bài báo thể hiện hay phản ảnh mức độ hoạt động của nền khoa học (tiếng Anh là activity). Một nền khoa học năng động có nhiều nhà khoa học trong nhiều ngành, và do đó nhiều bài báo bao trùm các ngành khoa học. Do đó, số lượng bài báo có thể xem là một đo lường về đầu ra – output của một nền khoa học.
Số lượng còn cho phép chúng ta so sánh giữa các nền khoa học một cách khách quan và biết mình đang ở đâu. Chẳng hạn như Việt Nam có trên 9000 giáo sư và phó giáo sư, nhưng mỗi năm “sản xuất” được khoảng 1000 bài trên các tập san quốc tế. Trong khi đó, ở Thái Lan, con số giáo sư là khoảng 450 người và assistant professor & associate professor nghe nói là 4 lần con số này. Mỗi năm Thái Lan công bố được khoảng 5000 bài trên các tập san quốc tế. So sánh như vậy để thấy năng suất khoa học Việt Nam ra sao.

Nhưng số lượng có thể không phản ảnh chất lượng, và do đó, các chuyên gia phải dùng những chỉ số khách quan để “đo lường” chất lượng. Có hàng chục chỉ số, nhưng tất cả đều dựa vào tần số trích dẫn. Tần số trích dẫn phản ảnh một phần chất lượng nghiên cứu. Một công trình nghiên cứu sau khi đã công bố một thời gian, nếu có đóng góp gì đó cho chuyên ngành, thì sẽ được trích dẫn. Nghiên cứu khoa học mang tính kế thừa. Thế hệ sau đứng trên vai thế hệ trước. Do đó, một công trình nghiên cứu được nhiều trích dẫn là thể hiện chất lượng của công trình đó.   Ngược lại, những công trình không được ai trích dẫn có thể là những công trình chẳng ai quan tâm, hoặc chất lượng quá thấp. Ngoài các chỉ số trên, các nhà nghiên cứu còn phát triển một số chỉ số khác để đánh giá một nền khoa học. Những chỉ số này bao gồm: relative citation index, field citation score, top 1% citation, v.v. Những chỉ số này được phát triển để so sánh mức độ ảnh hưởng của nhà khoa học và nền khoa học
Đối với một cá nhân, dùng chỉ tiêu gì để đánh giá? Ở Úc, các nhà khoa học xã hội cho rằng đánh giá cá nhân phải dựa vào thẩm định của chuyên gia trong ngành, tức là phải đọc công trình từng cá nhân để đánh giá, chứ không nên dựa vào những chỉ số bibliometrics trên đây. Vài năm qua, Úc đã làm như thế cho giới khoa học xã hội, nhưng họ … đầu hàng, và bỏ cách làm này. Sau một thời gian áp dụng, các nhà quản lí mới biết là sự nghiệp của một cá nhân có thể tuỳ thuộc vào sự đánh giá cảm tính của một vài cá nhân, mà không dựa vào một chỉ số định lượng về lượng cũng như phẩm chất. Do đó, cách đánh giá mới là dựa vào các chỉ số bibliometrics VÀ đánh giá định tính của các chuyên gia (nhưng đánh giá định tính có trọng lượng thấp). Trong thực tế, người ta đánh giá một nhà khoa học qua 4 tiêu chí chính:
  • năng suất và chất lượng khoa học;
  • tầm ảnh hưởng cấp quốc gia và trên trường quốc tế;
  • phục vụ cho chuyên ngành; và
  • phục vụ cộng đồng.

Năng suất và chất lượng nghiên cứu khoa học có thể đánh giá qua các chỉ số như mô tả trong phần đầu. Đối với cá nhân nhà khoa học, người ta thường đánh giá qua chỉ số H. Sau này còn có thêm chỉ số G. Chỉ số H thường được dùng như là một thước đo để quyết định đề bạt chức danh giáo sư, để cung cấp tài trợ cho nghiên cứu khoa học, v.v. Theo giới toán học thì ngoài  chỉ số H, tầm ảnh hưởng của nhà toán học có thể đánh giá qua vài “tín hiệu” như sau:
Được mời giảng trong các hội nghị có uy tín cao. Những hội nghị do các hiệp hội chuyên ngành tổ chức có thể thu hút hàng ngàn, hàng vạn người tham dự là những diễn đàn quan trọng trong chuyên ngành. Trong ngành toán, có lẽ các hội nghị như International Congress of Mathematicians, International Congress of Industrial and Applied Mathematics, và International Congress on Mathematical Physics được xem là những diễn đàn có uy tín cao. Được mời nói chuyện và giảng trong các hội nghị này là một vinh dự, nhưng cũng là một cách ghi nhận sự đóng góp quan trọng của nhà khoa học.
Được các trung tâm nghiên cứu tinh hoa (elite institutes) mời làm việc và bảo trợ chi phí. Trong y khoa, có những trung tâm lừng danh như Mayo Clinic, Broad Institute, Howard Hughes Medical Institute, v.v. và khách mời của những nơi này được xem là một vinh dự. Trong ngành toán, theo tôi biết có những trung tâm nổi tiếng như Newton, Erwin Schrodinger và Viện Mittag-Leffler, hoặc Mathematical Sciences Research Institute, the Institute for Mathematics and its Applications và Fields Institute là những trung tâm quan trọng. Dĩ nhiên, cần phải phân biệt hai loại khách mời. Loại được các trung tâm này mời và bảo trợ toàn bộ chi phí ăn ở đi lại. Loại thứ hai là khách tự xin đến làm và tự lo chi phí ăn ở đi lại. Không nói ra, ai cũng biết chỉ có khách mời loại đầu mới là vinh dự.
Được trao các giải thưởng quan trọng trong ngành. Các giải thưởng của các hiệp hội chuyên ngành, các fellowships cũng là những phần thưởng ghi nhận sự đóng góp quí báu của nhà khoa học.
Ngoài ra, một thước đo khác là hoạt động phục vụ cho chuyên ngành. Các hoạt động này bao gồm được mời phục vụ trong ban biên tập các tập san khoa học có tiếng trong chuyên ngành, thành viên trong các ủy ban khoa học của các hội nghị quốc tế, và phục vụ như là chuyên gia bình duyệt đơn xin tài trợ và của các tập san khoa học.
Nói tóm lại, để đánh giá một nền khoa học và so sánh các nền khoa học, chúng ta cần phải sử dụng các phân tích gọi chung là bibliometrics hay scientometrics (bao gồm số lượng và chỉ số về chất lượng) nghiên cứu khoa học. Để đánh giá cá nhân nhà khoa học, ngoài những chỉ số scientometrics, còn phải sử dụng đến tầm ảnh hưởng cấp quốc gia và trên trường quốc tế và phục vụ cho chuyên ngành và cộng đồng.
Những cách đánh giá này chẳng có gì mới, vì thế giới và cộng đồng khoa học đã sử dụng trong nửa thế kỉ qua. Nhà đầu tư cho khoa học có quyền đòi hỏi đồng tiền của họ đầu tư phải mang hiệu quả, và hiệu quả không thể chỉ là những nhận định cảm tính, định tính, mà quan trọng hơn là phải mang tính định lượng.
NVT
====

Vài suy nghĩ về toán học và khoa học của Việt Nam
Đặng Đình Thi

Gần đây trên diễn đàn Humboldt, một diễn đàn của nhiều các nhà khoa học và học giả người Việt Nam, một số học giả có trao đổi về bài nói chuyện về toán học của giáo sư Hoàng Tụy tại Viện Toán học-Hà Nội, tóm tắt buổi nói chuyện này đã được đăng trên báo Tia Sáng.
Là người đã theo dõi các thảo luận trên diễn đàn Humboldt, cũng như đã đọc một số bài viết trên Internet, so sánh giữa toán học của Việt Nam với các nước khác ở Châu á. Tôi xin có vài ý kiến như sau:
Ngành toán nói riêng và các lĩnh vực khoa học khác của Việt Nam nói chung, so sánh với các nước khác quả là khó! Sự yếu kém cũng có rất nhiều nguyên nhân, và cũng không thể đổ lỗi hết cho những người làm khoa học. Việc nhìn nhận thẳng thắn những yếu kém là rất cần thiết, tuy nhiên cũng phải lấy những điểm sáng (dù là nhỏ nhất) làm điểm tựa để hy vọng và làm động lực để phấn đấu cho từng các nhân và cả cộng đồng.  So với các lĩnh khác ở Việt Nam, tôi cho rằng ngành toán và vật lý vẫn là hai ngành mạnh nhất, hai cộng đồng này đã được hình thành và đang phát triển. Hai cộng đồng này có nhiều điểm sáng để cho các cộng đồng khác noi theo, họ đã tổ chức được những buổi seminar hàng tuần, hàng tháng. Cách đây gần một năm khi bàn về tạp chí trong ngành cơ, tôi có hỏi một giáo sư ở Viện Cơ học- Hà Nội rằng “tại sao không noi gương các nhà khoa học bên ngành toán, người ta có tạp chí làm ăn khá bài bản như là Acta Mathematica Vietnamica, họ mời được khá nhiều các nhà toán học có uy tín ở nước ngoài vào trong ban biên tập, trong khi ngành cơ cũng có một số nhà cơ học gốc Việt ở nước ngoài tầm cỡ Quốc tế…” thì được trả lời rằng "họ không nhiệt tình", tôi hơi ngạc nhiên vì tôi có tiếp xúc và nói chuyện với một vài nhà khoa học này nên tôi biết.

So với các ngành khác, ngành toán may mắn có được một chút lịch sử và có những người tầm cỡ tạo dựng từ thủa ban đầu như GS Lê Văn Thiêm, GS Hoàng Tụy... và xa hơn nữa ở thế kỷ 15 có hai nhà toán học là Vũ Hữu, được sử sách ghi nhận là nhà toán học đầu tiên của Việt Nam, với công trình "Lập thành toán pháp" bao gồm kiến thức cơ bản về hình học và số học. Người thứ hai là trạng nguyên Lương Thế Vinh (ông nổi tiếng vì giỏi cả văn chương, âm nhạc lẫn toán học) với công trình "Đại thành toán pháp", cả hai cuốn sách đều trở thành sách giáo khoa về toán trong lịch sử giáo dục Việt Nam hàng mấy thế kỷ.

Về tầm quan trọng của toán học, có lẽ không cần nói nhiều chỉ cần trích dẫn một câu triết lý khá sâu sắc của Galilei là đủ "toán học là ngôn ngữ của khoa học",  tôi nhớ trong một bài nói chuyện về khoa học, nhà toán học lừng danh Michael Atiyah người Anh cũng đã diễn giải như vậy.
Theo thiển ý của tôi, khoa học kỹ thuật của Việt Nam ta yếu vì có một nguyên nhân sâu xa từ thời xa xưa, ông cha ta vốn rất giỏi về văn chương và thơ ca (đây là một lĩnh vực khác cũng rất quan trọng), nhưng xã hội rất miệt thị những người làm toán, nên rất coi nhẹ việc học toán và thi toán, những người làm toán chủ yếu được phân làm những công việc sổ sách, tính thuế (lại viên), đo đạc ruộng đất, địa chất...trong Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú ghi rằng "Xét ra chức nha, lại cho là hèn thấp. Việc kiểm soát sổ sách không giao cho kẻ sĩ. Kẻ sĩ làm văn, cho việc lại là ti tiện nên không nhúng tay vào“. Người làm toán không được xem là kẻ sĩ, vì vậy những người thông minh tài giỏi đều theo nghiệp văn chương thơ ca, coi khinh toán học, thì làm sao chúng ta có những nhà toán học. Lịch sử của chúng ta là thế!
Xã hội có thành kiến với toán học như vậy cho nên làm sao khoa học kỹ thuật phát triển được,  nhưng có một câu hỏi vẫn làm tôi suy nghĩ là nước Đại Việt bị ảnh hưởng của Trung Hoa cả ngàn năm, trong khi toán học của Trung Hoa phát triển từ rất sớm và khá mạnh, từ mấy ngàn năm về trước họ đã có những nhà toán học nổi tiếng thời đó như là Chang Tshang (ca 200-142 BC), Liu Hui (ca 220-280 BC), thế kỷ 13 có Qin Jiushao (1202-1261) cùng kỷ nguyên của Qin còn có các nhà toán học khác Li Zhi, Yang Hui, and Zhu Shiejie. Theo cố giáo sư Hoàng Xuân Hãn "Ở đời Đường, toán học bên Trung Hoa đã bành trướng đến cực Tây, mà nay ta còn có tủ sách cũ”. Trung Hoa thời xa xưa có một nền toán học mạnh như vậy, vậy mà tại sao toán học đã không được du nhập vào Việt Nam từ sớm? tôi vẫn băn khoăn câu hỏi này, chỉ đến thế kỷ 15 mới có Vũ Hữu và Lương Thế Vinh và bị đứt quãng sau đó....

Thời nay quan niệm của xã hội về toán học đã khác xưa, nhưng đúng là xã hội ta thời xưa miệt thị toán học như thế thì các ngành khoa học kỹ thuật khác lấy đâu ra, đâu có lịch sử truyền thống gì? toán học vẫn may mắn có được một chút lịch sử như vậy.
GS. Hoàng Tụy vốn là một nhà toán ứng dụng nổi tiếng, rất tâm huyết với nền khoa học và giáo dục của nước nhà, ông đi nhiều, biết nhiều, đọc những bài viết của ông là cảm nhận thấy ngay sự trăn trở, suy tư của một con người, một nhân chứng đã chứng kiến đầy đủ một quãng đường lịch sử đầy đau thương, gian khổ của một dân tộc (ông sinh trước1930 ba năm), những ý kiến của ông thường rất sâu sắc và thẳng thắn. Những tâm tình của ông trong bài nói chuyện tại Viện Toán cũng vậy, tôi tán thành với nhiều ý kiến của giáo sư trong bài viết. Tuy nhiên theo thiển ý của tôi, để toán học nói riêng và khoa học kỹ thuật của Việt Nam phát triển, chúng ta cần có một cách tiếp cận phù hợp.
Toán học nói riêng và khoa học kỹ thuật nói chung muốn phát triển, những người làm quản lý khoa học của chúng ta cần phải thiết lập các tiêu chuẩn đạo đức cao nhất "highest ethical standards" và mọi người phải tuân thủ chặt chẽ các tiêu chuẩn này, việc đánh giá vẫn phải dựa vào các con số (ở đây là số lượng và chất lượng công trình nghiên cứu). Chúng ta cần phải dựa vào hai thứ này để đi, nó như là cái lề đường cho người mới tập đi để bám theo mà đi, đặc biệt trong lúc giông tố, đầy cát bụi (đây không chỉ là ý kiến của tôi mà là kinh nghiệm của một số nước đã làm thành công, Hàn Quốc là một ví dụ).  Nếu chúng ta không bám vào những thứ này, chúng ta sẽ mất phương hướng ngay tức khắc.
Khoa học toán (mathematical sciences) bao gồm lý thuyết (pure mathematics) và toán ứng dụng (applied mathematics). Những người làm về toán lý thuyết thường chủ yếu giải quyết những vấn đề nội tại trong toán, cũng là để củng cố và phát triển một lý thuyết, một phương pháp nào đó, nhiều khi làm sáng tỏ sự hiểu biết của con người trong một vấn đề nào đó trong toán học, tất cả những nghiên cứu này ở cự ly xa gần đều để hướng tới phục vụ loài người. Những người làm toán ứng dụng thường nghiên cứu của họ có thể ứng dụng trực tiếp vào những vấn đề trong đời sống xã hội. Khó có thể nói cái này quan trọng hơn cái kia. Quan trọng là nghiên cứu này, nghiên cứu kia có thực sư đóng góp “significant contribution” về mặt lý thuyết hay ứng dụng hay không mà thôi. Nhiều trường hợp rất khó để phân biệt người này hay người kia là làm lý thuyết hay ứng dụng.
Vấn đề đối với toán học ở Việt Nam, tôi vẫn thấy thiếu những “cây cầu” để kết nối giữa toán học với các ngành công nghiệp của chúng ta “missing links”. Lấy ví dụ ngành cơ học và khoa học máy tính là hai ngành gần gũi với toán học nhất, hai ngành này có thể kết nối toán học với công nghiệp của chúng ta, chúng ta thiếu những "cây cầu" để liên kết các ngành với nhau để giải quyết các bài toán thực tiễn phục vụ kinh tế của đất nước. Tôi xin lấy một vài ví dụ để minh họa cho những “cây cầu” đó, ở Mỹ đó là:
1- Viện khoa học tính toán "The Institute for Computational Engineering and Sciences (ICES)" ở Texas, Austin: http://www.ices.utexas.edu/
2. Viện toán và ứng dụng "Institute for Mathematics and its Applications (IMA)" ở ĐH Minnesota, Minneapolis: http://www.ima.umn.edu/
3. Viện toán lý thuyết và ứng dụng “Institute for Pure and Applied Mathematics” ở UCLA:
http://www.ipam.ucla.edu/
4. Viện khoa học sinh học toán “Mathematical Biosciences Institute” ở Columbus, Ohio. http://www.mbi.osu.edu/
Và nhiều viện, trung tâm nghiên cứu khác. Tôi chắc rằng chỉ khi nào chúng ta có được những “cây cầu” có hình dáng như vậy và có ngành công nghiệp đủ mạnh, có tính cạnh tranh. Khi đó xã hội sẽ thấy rõ được tầm quan trọng của toán học, và sẽ xóa bỏ được những thành kiến còn lại từ xa xưa.
Chúng ta cần phải có những nhà lãnh đạo thấu hiểu được vấn đề này!
Về công nghiệp thực ra ngành công nghiệp của chúng ta, các công ty xí nghiệp có lúc (cách đây khoảng 10-15 năm trước) đã đạt đến điểm mà tại đó, đang rất cần khoa học và công nghệ để vượt qua được sự "làng nhàng" của mình, để có thể cạnh tranh được với bên ngoài trong cơ chế thị trường, ví dụ các nhà máy đóng tàu Hạ Long, Phà Rừng, Bạch Đằng, Bến Kiền, nhà máy chế tạo ô tô Hòa Bình, các nhà máy phân đạm, nhà máy kẹo Hải Hà, nhà máy Chế tạo Công cụ số 1… (nhiều nhà máy xí nghiệp này bây giờ còn đâu?) thì đất nước lại có đội ngũ lãnh đạo không có đủ tâm và tầm. Trong khi chưa thấy được nhu cầu mà công nghiệp của chúng ta đòi hỏi, đã làm không nghiêm túc, không quan tâm khoa học và công nghệ, bây giờ dẫn đến một loạt các doanh nghiệp, công ty, xí nghiệp phá sản nợ nần theo thời gian. Sức cạnh tranh các ngành công nghiệp của chúng ta bây giờ rơi xuống điểm rất thấp.
Nếu chúng ta thực sự muốn phát triển được khoa học và công nghệ, chúng ta cần phải thay đổi tư duy, cần có cung cách làm ăn chuyên nghiệp, một thái độ đúng đắn của tất cả những người liên quan là hết sức cần thiết.

Đặng Đình Thi

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét