04.09.2012
Đây là một quan điểm rất mạnh. Nó không phải là một lời tiên tri, cũng không phải là một công trình nghiên cứu định lượng hoàn hảo, tuy nhiên, nói như Krugman, thì “mục đích của các bài viết như vậy là làm cho bạn nghĩ theo cách khác hẳn” so với cách tư duy đang thịnh hành.
Lập luận của Gordon tập trung vào hai ý rất quan trọng:
Tiến bộ khoa học kỹ thuật đang ngày càng kém dần
Ông cho rằng động lực của tăng trưởng kinh tế là các tiến bộ về khoa học kỹ thuật. Tăng trưởng kinh tế giờ đây được người ta nhìn nhận như một lẽ tự nhiên, một quá trình liên tục và không bao giờ chấm dứt. Thế nhưng thực ra nhìn lại lịch sử của nhân loại thì tăng trưởng kinh tế là một hiện tượng tương đối mới, chủ yếu diễn ra từ khoảng 250 năm trở lại đây, và được thôi thúc bởi sự tiến bộ về khoa học kỹ thuật (KHKT).
Cũng theo Gordon, tiến bộ về KHKT không phải là một quá trình tiệm tiến, liên tục, mà là một quá trình gồm các phát minh rời rạc, được tiếp nối bằng các cải tiến nhỏ nhằm đưa ứng dụng của các phát minh ban đầu này vào cuộc sống. Có nhiều sự tiến bộ KHKT trong một số lĩnh vực chỉ diễn ra theo kiểu giật cục, thậm chí chỉ có một lần mà chưa có lần tiếp theo. Thí dụ, tốc độ của máy bay hiện nay so với khoảng 50, 60 năm trước là về cơ bản không có tiến bộ nào, thậm chí máy bay thương mại hiện nay còn bay chậm hơn hồi trước vì lý do phải tiết kiệm năng lượng hơn.
- Cuộc cách mạng KHKT lần thứ nhất (IR#1) diễn ra vào khoảng năm 1750 và kéo dài tới 1830 với các điểm nhấn là động cơ hơi nước, máy quấn sợi, và đường sắt.
- Cuộc cách mạng KHKT lần thứ 2 (IR#2) diễn ra từ 1870 và kéo dài tới 1900 với các phát minh “hàng khủng” như điện, động cơ đốt trong, đường ống dẫn nước và hệ thống cung cấp/thoát nước tới tận các hộ gia đình.
- Cuộc cách mạng KHKT lần thứ 3 (IR#3) bắt đầu vào khoảng năm 1960, đạt đến cực thịnh vào cuối những năm 1990s với các phát minh chủ yếu trong lĩnh vực điện toán và internet.
Theo Gordon, hai cuộc cách mạng KHKT lần 1 và lần 2 đều mất khoảng 100 năm mới phát huy được hết các ảnh hưởng của nó đến kinh tế. Lý do là các phát minh quan trọng nhất trong mỗi cuộc cách mạng này sẽ được tiếp nối bởi nhiều các phát minh dựa trên các phát minh gốc ban đầu. Thí dụ cuộc cách mạng KHKT lần 2 còn tiếp tục làm lột xác nền kinh tế trong những thập niên 1950-70 với các phát minh “phái sinh” như máy điều hoà không khí, thiết bị gia dụng, và hệ thống đường cao tốc xuyên liên bang. Sau năm 1970 thì các phát minh phái sinh này cơ bản đã cạn và tốc độ tăng trưởng năng suất lao động vì thế giảm đi rất nhiều.
Đối với cuộc cách mạng KHKT lần thứ 3, trái với nhiều người hiện nay đang ca ngợi là cuộc cách mạng quan trọng nhất, Gordon cho rằng đây là một cuộc cách mạng ngắn ngủi và các ứng dụng của nó liên quan đến tăng năng suất lao động cơ bản đã cạn kiệt từ khoảng 10 năm trước. Nhiều trong số các ứng dụng liên quan đến năng suất lao động của cuộc cách mạng điện toán và internet này đã diễn ra từ rất lâu (những năm 1970 và 1980).
Theo Gordon, từ năm 2000 trở lại đây các phát minh của IR#3 chủ yếu tập trung vào giải trí và liên lạc với các sản phẩm ngày càng nhỏ hơn, thông minh hơn, khả năng sử lý tốt hơn, nhưng thực ra không làm thay đổi năng suất lao động hoặc mức sống của con người một cách đáng kể như các phát minh ra điện, xe hơi, hay hệ thống cấp thoát nước trong hộ gia đình – là các phát minh bản lề của IR#3.
Gordon đưa ra một ví dụ đặc biệt thú vị để minh chứng cho luận điệu này của ông. Theo Gordon, hãy giả tưởng rằng bạn phải đứng trước 2 lựa chọn:
- Lựa chọn A là bạn phải bỏ tất tuốt các tiến bộ công nghệ từ năm 2002 trở lại đây, mà chỉ được dùng các tiến bộ công nghệ IR#3 có từ trước đó (đã bao gồm máy tính xách tay với hệ điều hành Window, trình duyệt web, trang bán hàng trực tuyến Amazon…) và bạn được quyền giữ lại một phát minh từ IR#2 – đó là có hệ thống cấp thoát nước đến tận nhà bạn.
- Lựa chọn B là bạn được quyền giữ lại tất cả các tiến bộ công nghệ của IR#3 tính đến thời điểm này (bao gồm cả Facebook, Twitter, Ipad, Blog…), nhưng bạn phải từ bỏ một phát minh của IR#2, đó là bạn sẽ không có hệ thống cấp thoát nước đến tận hộ gia đình (và vì thế cũng không có nhà vệ sinh trong nhà). Bạn phải tự tay xách nước về nhà và trở nước thải đi đổ. Ngay cả vào lúc 3 giờ sáng vào một ngày mưa gió, lựa chọn duy nhất cho bạn khi muốn đi vệ sinh là đi bộ ra khỏi nhà dưới trời mưa và có thể là lầy lội nữa.
Gordon đã đặt câu hỏi này với nhiều người, bao gồm cả các tín đồ trung thành của cuộc cách mạng điện toán và internet. Câu trả lời thì đương nhiên là quá rõ ràng – luôn luôn là lựa chọn A. Gordon nhấn mạnh rằng đó là việc đánh đổi chỉ có MỘT phát minh của IR#2, trong khi IR#2 có rất nhiều phát minh còn quan trọng hơn là hệ thống cấp thoát nước tại nhà.
Vì thế theo Gordon, mặc cho các lời ca tụng hào nhoáng về cuộc cách mạng điện toán và internet đang diễn ra, về mặt năng suất lao động thì các phát minh trong khoảng hơn 10 năm gần đây cơ bản đã không còn. Nói cách khác, IR#3 đã cơ bản không còn ảnh hưởng tích cực tới tăng năng suất lao động, và vì thế tăng trưởng kinh tế nữa. (Cần lưu ý rằng Gordon không có ý so sánh các thành tựu của IR#3 với một phát minh duy nhất là hệ thống cấp thoát nước tại nhà. So sánh của ông chỉ nhằm nói về tiến bộ KHKT của IR#3 trong vòng 10 năm trở lại đây – từ năm 2002- là hầu như không còn đáng kể nữa nếu so với các phát minh của các cuộc cách mạng KHKT lần trước).
Khi nào thì sẽ có một cuộc cách mạng KHKT mới để tạo động lực mới cho một giai đoạn mới của tăng năng suất lao động, và vì thế tăng trưởng kinh tế, ở Mỹ? Đây là câu hỏi không ai có thể trả lời được vào thời điểm này. Tuy nhiên, theo Gordon, có những yếu tố mà, giả sử tiến bộ KHKT vẫn tiếp diễn và không ảnh hưởng kém đi đến việc tăng năng suất lao động, thì chúng vẫn làm tương lai tăng trưởng của nước Mỹ bị teo giảm tới mức gần như bằng không trong tương lai không quá xa của nước Mỹ.
Gordon giả sử rằng tiến bộ công nghệ vẫn sẽ tiếp diễn, với các kỳ tích như xe hơi không cần người lái hay nghiên cứu về gen dẫn tới việc chữa thành công các bệnh về ung thư và các bệnh hiểm nghèo khác. Theo ông, dù công nghệ có tiến bộ nhanh hay chậm như thế nào, nền kinh tế Mỹ vẫn sẽ phải đối mặt với 6 lực cản hết sức lớn trong tương lai. Các lực cản này sẽ kéo thụt lùi tốc độ tăng trưởng kinh tế, và có thể đưa nó về mức gần như bằng không.
Thứ nhất, các lợi ích từ cấu trúc dân số của giai đoạn trước giờ đây đã đảo ngược. Đó là việc tham gia mạnh mẽ của nữ giới vào lực lượng lao động trong giai đoạn 1965 tới 1990 cũng như thời kỳ dân số vàng (baby-boomers), khiến cho “số giờ làm việc trung bình trên đầu người” của nước Mỹ tăng vọt. Hiện nay thế hệ baby-boomers đang dần về hưu, không còn đóng góp vào tổng số giờ làm việc nữa nhưng vẫn là một phần của dân số. Vì vậy hiện nay “số giờ làm việc trung bình trên đầu người” của nước Mỹ đang giảm dần. Và thực tế là tuổi thọ đang tăng lên (trong khi tuổi về hưu không tăng) làm cho lực cản này đã lớn càng lớn.
Thứ hai là về chất lượng và chi phí của hệ thống giáo dục Mỹ. Theo một công trình có tính mở đường của Claudia Golden và Lawrence Katz (2008), nước Mỹ đang ngày càng thụt lùi về thứ hạng liên quan đến tỷ lệ dân cư ở các độ tuổi nhất định tốt nghiệp sau phổ thông. Theo Gordon, hiện trạng này là sự kết hợp của nhiều yếu tố, trong đó có vấn đề chi phí giáo dục sau phổ thông ở Mỹ quá đắt, dẫn tới chỗ nợ nần của sinh viên ngày càng lớn - và điều này lại dẫn tới các lựa chọn méo mó về nghề nghiệp (tập trung vào các nghề có thu nhập cao hơn nhanh chóng để có tiền trả nợ thay vì các quan tâm khác không trực tiếp liên quan tới tiền bạc), và làm nản lòng các nhóm dân cư thu nhập thấp liên quan tới chuyện vào cao đẳng/đại học.
Theo kết quả khảo thí của OECD liên quan tới trình độ của học sinh cấp 2 ở 37 quốc gia, nước Mỹ xếp thứ 21 về khả năng đọc hiểu, thứu 31 về toán, và thứ 34 về khoa học. Ngay trong nội bộ nước Mỹ, khoảng cách về trình độ giữa các học sinh da trắng và Á châu với nhóm các học sinh da đen và Mễ ngày càng lớn dần. Trong khi đó, tỷ lệ học sinh gốc Mễ trong tổng số học sinh Mỹ lại ngày càng tăng. Điều này càng kéo mặt bằng trình độ học sinh của Mỹ tụt lùi hơn. Tệ hơn nữa là khoảng cách về học thức và thành tích học tập của nam và nữ ở Mỹ đang ngày càng lớn, với số nữ tốt nghiệp cao đẳng/đại học hiện chiếm tới 58% tổng số sinh viên tốt nghiệp.
Lực cản thứ 3, theo Gordon là quan trọng nhất, là sự bất bình đẳng về thu nhập ngày càng tăng. Tăng trưởng về thu nhập của hộ gia đình từ năm 1993 tới 2008 ở Mỹ là 1.3%. Tuy nhiên, 99% bên dưới chỉ được hưởng tăng trưởng thu nhập có 0.75%. Số 1% ở bên trên đã hưởng tới 52% thành quả của toàn bộ tiến bộ về thu nhập trong vòng 15 năm qua của Mỹ.
Lực cản thứ 4 theo Gordon là quá trình toàn cầu hoá cũng như sự phổ biến của ICT (công nghệ thông tin và liên lạc). Hệ quả của nó là việc outsourcing đủ loại, từ các tổng đài dịch vụ trả lời điện thoại tới các phòng xét nghiệm y khoa. Lao động giá rẻ (hơn) của nước ngoài sẽ không chỉ cạnh tranh với người Mỹ qua outsourcing mà còn qua cả nhập khẩu. Hàng nhập khẩu của nước ngoài sẽ không chỉ dừng lại ở các sản phẩm thâm dụng lao động, mà đang và sẽ kết hợp cả lợi thế về lao động rẻ lẫn trình độ và năng lực công nghệ đang ngày càng phát triển của các nước này.
Lực cản thứ 5 là các tiêu chuẩn về sử dụng năng lượng và môi trường. Nếu như hồi đầu thế kỷ 20, các tiêu chuẩn môi trường là một khái niệm thứ yếu và các ống khói nhà máy nhả khói đen lên bầu trời được coi là các biểu hiện của thịnh vượng thì ngày nay hệ thống các tiêu chuẩn về môi trường đang làm cho gánh nặng của người tiêu dùng trong việc trả các chi phí môi trường này ngày càng nặng.
Ấn Độ và Trung Quốc là hai nước tăng trưởng nhanh hơn Mỹ rất nhiều, và kết hợp lại họ có mức xả thải chí CO2 nhiều gấp đôi nước Mỹ. Thế nhưng hai nước này vẫn phản đối chuyện áp dụng các tiêu chí về môi trường nghiêm ngặt hơn, vì theo họ, các nước giàu ở Bắc Mỹ, Âu Châu, và Nhật đã không bị bất cứ ràng buộc nào về môi trường trong thế kỷ 20 khi các nước này phát triển hệ thống công nghiệp của họ. Vì thế không có lý do gì ép các nước đi sau phải chịu các ràng buộc mới.
Lực cản thứ 6, và là cuối cùng theo Gordon, là tình trạng lưỡng thể của thâm hụt ngân sách chính phủ và ngân sách hộ gia đình. Ngay từ năm 2007 thì nước Mỹ đã rơi vào tình trạng chưa từng có trong lịch sử là tổng số nợ lên tới 133% thu nhập khả dụng. Tình trạng nợ công hồi đó vẫn trong tình trạng kiểm soát được nhưng giờ đây đã bùng nổ. Các hộ gia đình đang phải thắt lưng buộc bụng để giảm nợ (và điều này sẽ có hại cho tăng trưởng). Để cải tình trạng thâm hụt ngân sách, chính phủ Mỹ cũng sẽ phải tăng thuế, giảm chi tiêu công, cắt giảm các khoản hỗ trợ, thậm chí phải tăng độ tuổi về hưu (nhằm giảm gánh nặng cho các quỹ hưu trí và trợ cấp). Tất cả các yếu tố này đều sẽ có ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế trong trung và dài hạn.
Ảnh hưởng đến tăng trưởng
Gordon cho rằng mặc dù theo ông tiến bộ công nghệ hiện nay không thúc đẩy tăng năng suất lao động nhiều như trước, nhưng để lập luận, cứ giả sử rằng vai trò này vẫn y như 2 thập kỷ trước năm 2007. Trong vòng 2 thập kỷ này, Gordon tính được tốc độ tăng trưởng GDP thực tế bình quân đầu người là 1.8% ở Mỹ. Ông áp dụng giả sử này để ước tính tốc độ tăng trưởng kinh tế Mỹ trong 20 năm kế tiếp, từ 2007 tới 2027.
Theo ông, việc thế hệ baby-boomer nghỉ hưu sẽ làm cho kỳ vọng tăng trưởng bị tụt xuống chỉ còn 1.6% (tính toán dựa theo kết quả của các cơ quan chính phủ Mỹ) và sự tụt hậu của hệ thống giáo dục sau phổ thông tiếp tục kéo tiềm năng tăng trưởng xuống thêm 0.2% nữa, còn lại 1.4% (theo kết quả tính toán của Dale Jorrgenson và cộng sự).
Nếu bất bình đẳng về thu nhập tiếp tục diễn biến xấu đi theo đúng chiều hướng của hai thập kỷ trước, thì Gordon cho rằng 99% dân cư Mỹ chỉ được kỳ vọng hưởng mức tăng GDP thực tế bình quân đầu người là 0.9%. Thế nhưng toàn cầu hoá sẽ tiếp tục tấn công vào tầng lớp trung lưu Mỹ, đưa kỳ vọng này xuống còn 0.7%. Các chỉ tiêu về năng lượng và môi trường của Mỹ kéo tiếp kỳ vọng này xuống còn 0.5%. Cuối cùng, quá trình giảm thâm hụt của cả chính phủ Mỹ lẫn người dân Mỹ sẽ làm cho kỳ vọng tăng trưởng của Mỹ trong giai đoạn 2007-2027 chỉ còn lại đúng 0.2%.
Và theo Gordon, các ước tính của ông là khá lạc quan. Lý do là ông vẫn dựa trên giả sử về việc tiến bộ công nghệ trong giai đoạn này vẫn có tác dụng tích cực đến năng suất lao động y như hồi hai thập kỷ liền trước năm 2007. Điều này, theo ông là một giả sử hơi hoang đường, vì như ông đã lập luận, giá trị của các tiến bộ công nghệ trong khoảng 10 năm trở lại đây của cuộc cách mạng KHKT lần thứ 3 đối với tăng trưởng kinh tế đã gần như không còn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét