Chủ Nhật, 23 tháng 9, 2012

(3) CHIẾN TRANH TRUNG QUỐC – VIỆT NAM 1979

CHIẾN TRANH TRUNG QUỐC – VIỆT NAM 1979


Daniel Tretiak
University of Hong Kong
Member, National Committee of United States – China Relations

Chiến tranh Việt Nam của Trung Quốc và các hậu quả của nó
 Ngô Bắc dịch
  Bản Thân Cuộc Xung Đột
 
       Giờ đây điều trở nên quan trọng là thiết lập, cho dù có tính chất thử nghiệm, thời điểm khi một quyết định được lấy nhằm động viên các binh sĩ Trung Quốc đối phó với Việt Nam.  Niên biểu sau đây xem ra có thể chấp nhận được:
Tháng Mười – Tháng Mười Một 1978:
       Một quyết định được lấy trên nguyên tắc để đông viên QĐGPNDTQ tại biên giới (sự phát biểu này có tính cách suy luận (inferential), nhưng các biến cố theo sau có khuynh hướng hậu thuẫn cho nó).

9-24 Tháng Mười Hai 1978:
       Phái Đoàn được hướng dẫn bởi Wei Kuo-ch’ing (Vi Quốc Thanh), kẻ đứng đầu Tổng Cục Chính Trị của QĐGPNDTQ, cùng với Cho Lin (vợ của Đặng Tiểu Bình) làm phó trưởng phái đoàn, đến thăm viếng Nam Ninh, tỉnh Quảng Tây, bề ngoài để kỷ niệm 20 năm ngày thành lập tỉnh Quảng Tây, nhưng gần như chắc chắn để nhấn mạnh đén sự quan ngại của Trung Quốc về biên giới và lời cam kết căn bản của nó sẽ hành động chống lại các sự vi phạm biên giới và sự ủng hộ các lực lượng chông Pol Pot tại Kampuchea của Việt Nam.
18-22 Tháng Mười Hai 1978:
       Phiên Họp Khoáng Đại Lần Thứ Ba của Ủy Ban Trung Ương Đảng Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ).  Mặc dù phiên họp này đặt trọng tâm vào các vấn đề kinh tế, chúng ta có thể ước đoán rằng nó đã phê chuẩn một quyết định căn bản dẫn dắt Trung Quốc đến một cuộc chiến tranh hạn chế đánh Việt Nam nếu nỗ lực đang phát triển chống lại chế độ của Pol Pot thành công – và nó đã thành công.   
7 Tháng Một 1979:
       Phnom Penh thất thủ trước các lực llượng chống Pol Pot do Việt Nam hậu thuẫn.  Hành động này, cộng với các sự khiêu khích liên tục, khiến cho quyết định của Trung Quốc để giao chiến gần như chắc chắn không thể bãi bỏ được.
Cuối Tháng Một – Đầu Tháng Hai 1979:
       Đặng Tiểu Bình thăm viếng Hoa Kỳ và Nhật Bản để thăm dò “dư luận quốc tế”.
Ngày 17 Tháng hai 1979:
       “Cuộc hoàn kích” của Trung Quốc bắt đầu.
       Nếu niên biểu trên xác thực một cách cơ bản, nó khiến ta liên tưởng đến nhiều sự kiện về quyết định can thiệp của Trung Quốc.  Trước tiên, là quyết định đã không được lấy một cách nhẹ nhàng, nhưng được trù hoạch trong nhiều tháng trước khi cuộc giao chiến thực sự bắt đầu.  Việc tiếp vận chắc chắn đòi hỏi một nhịp bước như thế; nhưng một hành động cân nhắc, chậm rãi có thể được đảo ngược thì cần thiết với các sự phát triển quốc tế không thể tiên đoán được.  Tuy nhiên, phía Trung Quốc đã biết rằng chính quyền Pol Pot có nguy cơ sụp đổ và họ đã phải chuẩn bị cho sự sụp đổ gần như tất yếu của nó.  (Ngược lại, nếu chính quyền Pol Pot không bị thất trận hay sự sụp đổ của nó ít nhanh chóng hơn và không có sự tham gia công khai của Việt Nam như thế, phía Trung Quốc có thể lựa chọn việc không hành động – hay hành động trên một quy mô khiêm tốn hơn – để chống lại Việt Nam).  Sau cùng, hành động của Trung Quốc không có cách chi là hối hả.  (Điều này phải được nêu ra, bởi một số dư luận cảm thấy rằng giới lãnh đạo Trung Quốc, đặc biệt là Đặng Tiểu Bình, đã hành động một cách quá vội vã.) Trong khi điều phải được giả định rằng cuộc động viên trong nước đã được trù hoạch và thi hành một cách cẩn trọng, giới lãnh đạo Trung Quốc, được biểu trưng bởi Đặng Tiểu Bình trong các cuộc du hành của ông ta hồi cuối Tháng M0ột – đầu Tháng Hai, cũng đã toan tính để trắc nghiệm môi trường quốc tế hầu xác định đâu là phản ứng mà Trung Quốc có thể ước định từ Hoa Kỳ và Nhật Bản.
       Ngoài ra, phía Trung Quốc bày tỏ một cách công khai rằng các hành động của họ chống lại Việt Nam sẽ được giới hạn về mặt phạm vi, khiến liên tưởng rằng có lẽ các bảo đảm đã được tìm kiếm và nhận được một cách ngấm ngầm từ Sô Viết rằng họ sẽ không can thiệp nếu Trung Quốc giữ đúng lời hứa của nó là giữ cuộc xung đột được hạn chế về mặt phạm vi và thời gian.  Bất kể các quan hệ Trung Quốc – Sô Viết có tệ hại đến đâu, các luồng liên lạc ngoại giao chính thức vẫn còn hiện hữu; trong cuộc chiến tranh của Hoa Kỳ tại Việt Nam, các sự thỏa thuận đã được đạt tới, trong một môi trường đối nghịch cao độ, về việc giới hạn cuộc xung đột trong khu vực Việt Nam chừng nào các binh sĩ Trung Quốc không tiến vào Việt Nam hàng loạt [en masse, tiếng Pháp trong nguyên bản, chú của người dịch] và các phi vụ của Mỹ trên vùng nam Trung Quốc vẫn thực sự có tính chất ngẫu nhiên và được giới hạn.  Dưới các tình cảnh đối nghịch tương tự, Moscow và Bắc Kinh có thể đã đồng ý rằng Moscow sẽ không can thiệp nếu các sự đột nhập của Trung Quốc được giới hạn.
       Tổng kết, phía Trung Quốc đã lấy quyết định tấn công Việt Nam một cách từ từ và cẩn trọng trong nhiều tháng trước khi có cuộc tấn công; họ đã giữ các sự lựa chọn giải pháp của họ mở ngỏ ít nhất cho đến khi Phnom Penh bị thất thủ.  Một sự theo dõi sự tường thuật hàng ngày của Trung Quốc về các vụ đột nhập bị cáo giác của Việt Nam ngay trước khi cuộc xung đột bắt đầu cung cấp ít – nếu có – bằng chứng rằng phía Trung Quốc đang leo thang ngôn từ được nhận thức là sự đe dọa của họ (như trong trường hợp Triều Tiên) để ra dấu hiệu rằng họ sắp phóng ra một cuộc tấn công.  Đúng hơn, quyết định có căn bản đối nội đã được lấy, có thể trong mùa thu; nó đã được tiếp nối bởi cuộc thăm viếng của họ Vi [Quốc Thanh] tại Quảng Tây trong Tháng Mười Hai để biểu thị sự chú ý và cảnh giác cao độ của Trung Quốc đến các biến cố tại biên giới, bị xúc tác bởi sự thất thủ của Phnom Penh, được bảo đảm về mặt quốc tế với hiệu quả khả hữu bởi các cuộc du hành hải ngoại của họ Đặng.  Bất kể thành quả hay sự thành công của nó ra sao, đó là một quyết định cẩn trọng, chậm rãi, và cân nhắc, mặc dù không có bất kỳ sự cảnh cáo hay ra dấu hiệu bằng lời nói trực tiếp nào.
       Như Bắc Kinh đã hứa hẹn, cuộc xung đột được giới hạn và QĐGPNDTQ đã không xâm nhập sâu vào Việt Nam.  Các bộ đội Trung Quốc được xem là thiện chiến như một lực lượng chiến đấu, lại đã không được nhìn thây có giao chiến quan trọng nào kể từ đầu thập niên 1950, với các vũ khí diện địa trong nhiều trường hợp thì thua kém so với Việt Nam, và có các máy bay MIG-17 và MIG-19 đã lỗi thời và có thể không còn giá trị để chiến đấu nữa. 24
       Phía Việt Nam đã chiến đấu chống lại phía Trung Quốc với sự thành công không nhỏ: sau rốt, họ là lực lượng phòng thủ và đã có thể ấn định một cách dễ dàng hơn nơi và thời điểm giao tranh hay không.  Họ là một lực lượng chiến đấu lão luyện, với các vũ khí tối tân – và với một đồng minh hùng mạnh, Liên Bang Sô Viết.  Tuy thế, họ đã bị đẩy lùi khoảng 25 dậm Anh kể từ biên giới, và phía Trung Quốc (theo mọi nguồn tin của Sô Viết, Trung Quốc, Việt Nam, Mỹ và Nhật Bản) đã thành công trong việc gây tổn hại nặng nề khu vực mà họ chiếm đóng.  Tuy nhiên, phía Việt Nam đã không sử dụng các binh sĩ tinh nhuệ nhất của họ; thay vào đó họ đã sử dụng các lực lượng hạng nhì, và giữ lại các binh sĩ thiện chiến nhất của mình gần Hà Nội, dự phòng trường hợp phía Trung Quốc quyết định mở rộng khu vực kiểm soát của họ.  Phía Trung Quốc đã không làm như thế; từ đó, với quyết định của Trung Quốc vào ngày 5 Tháng Ba về việc triệt thoái các binh sĩ của họ, cuộc xung đột chính thức đã chấm dứt.
       Các thái độ của Trung Quốc đối với cuộc xung đột được kiềm chế vào lúc đó.  Trung Quốc xem ra không muốn phóng đại điều được tuyên bố sẽ là một cuộc xung đột biên giới hạn chế.  Trung Quốc chính vì thế đã không trao cho người Nga lý do để can thiệp và cho phép các binh sĩ của họ được rút lui một cách vinh dự.  Các bài xã luận về cuộc xung đột được ấn hành gần như hàng ngày, song không có các nhà lãnh đạo quốc gia đưa ra các bài diễn văn ủng hộ lập trường của Trung Quốc trong cuộc chiến.  Hơn nữa, đã không có các cuộc biểu tình tại bất kỳ thành phố Trung Quốc nào để ủng hộ chiến tranh và bàu không khí tại Bắc Kinh rất yên tĩnh.  Khi tôi vạch điều này ra với một viên chức Trung Quốc, bình luận rằng gần như không hề có chiến tranh, ông ta đã đáp lại một cách khá cáu kỉnh rằng “ngay đứa con trai của tôi” cũng hay biết về cuộc xung đột, đã thảo luận về nó tại trường học và tỏ ra tức giận về sự cư xử của phía Việt Nam. 25 Nhưng bàu không khí đã thực yên tĩnh và các viên chức Trung Quốc được phỏng vấn trong suốt thời kỳ này đã không đưa ra bằng chứng nào về sự hoảng hốt.  Dĩ nhiên, cuộc xung đột quốc tế đôi khi được dùng để mang lại sự thống nhất trong nước chống lại một kẻ thù chung; mặc dù đã có các sự đề cập bất chợt đến nhu cầu thực hiện nỗ lực để phát huy các “chính sách tứ hiện đại hóa”, phía Trung Quốc đã không khai thác sự hiện diện của chiến tranh để động viên sự thống nhất quốc gia cho các chương trình đối nội.
       Cuộc xung đột kéo dài hơn hai tuần lễ một chút.  Sau đó phía Trung Quốc có khuynh hướng gạt nó sang một bên: it nhà lãnh đạo đến thăm viếng các khu vực biên giới để biểu lộ sự liên đới với các chiến sĩ (Wang Chen và Fang Yi lần lượt có đến thăm Nam Ninh và Côn Minh vào cuối Tháng Ba), 26 nhưng không phóng đại các sự thành công của Trung Quốc trong cuộc xung đột.
       Khá lâu sau khi cuộc xung đột chấm dứt, một nhóm các chiến sĩ anh hùng từ các khu vực biên giới đã được đưa lên Bắc Kinh để được đón tiếp bởi giới lãnh đạo quốc gia.  Các lời tán thưởng được đưa ra về lòng can đảm của họ, “quân xâm lược Việt Nam” bị kết án, nhưng không có sự chiến thắng áp đảo được tuyên xác. 27 Không có sự tường thuật rằng các nhà lãnh đạo cao cấp nhất của xứ sở đã nói chuyện với các anh hùng khi họ được đón tiếp vào ngày 31 Tháng Năm. 28
       Mặc dù nhiều phần rằng một quyết định đồng thuận đã được lấy bởi giới lãnh đạo Trung Quốc để đánh Việt Nam, điều vẫn còn khả tín để nghĩ rằng một số nhà lãnh đạo sắc bén hơn các người khác.  Quyền lực thực sự của Đặng Tiểu Bình trong chính trị Trung Quốc vào thời khoảng 1977-79 còn là điều cần lượng giá, nhưng với các nhận định công khai của viên phó thủ tướng về mối đe dọa của Việt Nam trước và đặc biệt trong chuyến du hành của ông ta tại Hoa Kỳ, chúng ta phải giả định rằng tối thiểu ông đã ủng hộ chính sách này nhưng có nhiều xác xuất hơn, đã là một trong các kẻ bênh vực hàng đầu cho chính sách.  Nếu đã có các kẻ chông đối chính sách này, các kẻ này có thể bao gồm các nhà lãnh đạo Trung Quốc quan tâm nhiều hơn họ Đặng về các hậu quả làm thương tổn đến các kế hoạch hiện đại hóa kinh tế của Trung Quốc.  Với tác phong của Việt Nam vào lúc cuối năm [1978], các chuyên viên kinh tế này có lẽ không ở vào một vị thế chống đối một cách mãnh liệt chính sách chiến tranh.
       Nhưng, bởi vì Trung Quốc không thực sự chiến thắng cuộc chiến và các tổn hại kinh tế khá cao, vị thế chính trị của các kẻ binh vực chiến tranh có lẽ bị suy yếu.  Nếu tình trạng kinh tế tổng quát – trong đó các kinh phí quân sự và sự thực hiện cuộc chiến tranh chỉ là một phần – đã không tồi tệ vào cuối năm 1978, họ Đặng và các người ủng hộ ông ta có thể né tránh mà không thực sự bị thương tổn gì cả; tuy nhiên, cuộc chiến tranh đã diễn ra một cách tồi tệ, nền kinh tế ở vào cảnh khó khăn, và các quan hệ giữa Trung Quốc, Nhật Bản và Hoa Kỳ trở nên chua chát.  Từ đó, bởi sự liên kết của ông với chính sách chiến tranh và các chính sách phụ trợ và liên hệ không thành công khác, thí dụ, sự phát triển kinh tế mau lẹ và các kỳ vọng không thực tế về sự đáp ứng của Mỹ đối với các quan điểm chống Sô Viết một cách vững chắc của Trung Quốc), vị thế của họ Đặng hẳn phải bị suy yếu trong những tháng theo sau cuộc xung đột.  Xem ra không phải ngẫu nhiên rằng Ch’en Yun (Trần Vân), thường được xem như một trong các kiến trúc sư, nếu không phải là bóng dáng nổi bật [eminence grise, tiếng Pháp trong nguyên bản, chú của người dịch] đàng sau hậu trường, của sự tái lượng định kinh tế, được tường thuật có biểu lộ sự chống đối chiến tranh của ông. 29

Các Mục Đích Của Trung Quốc
       Các mục tiêu của Trung Quốc có tính cách cấp miền và toàn cầu.  Muốn có bất kỳ cơ may nào để thành đạt chúng, cuộc xung đột quân sự phải thành công, nếu không Bắc Kinh sẽ không thu được phần đền bù về chính trị của nó.  Nhưng các mục đích nguyên thủy đã không đạt được.
       Bản thân Việt Nam không học được bài học nào; nó đã không chỉ tiếp tục mà còn tăng cường các chính sách mà “bài học” của Trung Quốc được phác họa muốn đình chỉ hay làm chậm lại.  Việt Nam chứng tỏ cho Trung Quốc thấy rằng nó có đủ nhân và vật lực để dành cho Trung Quốc một đòn trả đũa mạnh mẽ trên chiến trường.  Trong khi các tổn thất của Việt Nam có thể cao, Trung Quốc đã phải gánh chịu số tổn thất 20,000 người (bị chết và bị thương). 30 Như các viên chức Trung Quốc được phỏng vấn tại Bắc Kinh trong suốt cuộc chiến thường nêu ra, phía Việt Nam đã sử dụng các vũ khí của Nga, Trung Quốc và Mỹ chống lại một QĐGPNDTQ không có nguồn cung cấp ngoại lai nào cho các khí giới của nó.
       Ngoài ra, biên giới vẫn không lắng dịu; bất kể các cuộc thương thảo tại Hà Nội và Bắc Kinh trong suốt mùa hè 1979, các sự căng thẳng vẫn còn cao với mỗi bên tuyên xác rằng các vụ khiêu khích tiếp tục gần như chiến tranh đã không xảy ra.
       Hơn nữa, phía Việt Nam đã gia tăng sự trục xuất các Hoa kiều hải ngoại – tạo ra một công phẫn trong vùng và trên toàn cầu chống lại Hà Nội.  Trung Quốc đã không thể chặn đứng hành động như thế -- mặc dù nó đã khai thác sự đối xử của Việt Nam đối với các Hoa kiều hải ngoại để giành được cảm tình toàn thế giới cho người tỵ nạn và sự kết án Việt Nam vì các chính sách kỳ thị của họ.
       Sau cùng, Việt Nam đã không bị gián chỉ khỏi việc duy trì ảnh hưởng của nó trên Căm Bốt, gia tăng sự kiểm soát của nó trên Lào và đe dọa an ninh của Thái Lan.  Mặc dù Việt Nam đã không thành lập một Liên Bang Đông Dương chính thức, một liên bang như thế đã hiện hữu trong thực tế.
       Tuy nhiên, khi mùa hè1979 trôi qua, một kết quả ngày trở nên tích cực cho Trung Quốc: bằng việc duy trì một lực lượng bộ đội đông đảo tại biên giới (ước lượng khoảng 100,000 quân), đe dọa phóng ra một cuộc tấn công thứ nhì vào Việt Nam, và ủng hộ các du kích quân Pol Pot yếu ớt song vẫn gây rắc rối, Trung Quốc đã tạo ra các khó khăn quân sự và kinh tế nghiêm trọng cho Việt Nam.  Hà Nội đã phải chi tiêu tiền của để giúp nuôi ăn và trang bị cho chính phủ bù nhìn của nó tại Phnom Penh; hơn nữa, nó phải duy trì một lực lượng bộ đội đáng kể tại biên giới Trung Quốc để đối phó với một cuộc tấn công khả dĩ của Trung Quốc.  Hậu quả, các tài nguyên khan hiếm của Hà Nội bị cạn kiệt: các tình trạng kinh tế tồi tệ khắp nước, dẫn dắt một số nhà quan sát đến việc nghĩ rằng nếu Trung Quốc đã không dạy được cho Việt Nam một bài học quân sự trong Tháng Hai – Tháng Ba, nó có thể “làm cho Việt Nam chảy hết máu’ bằng các phương cách phi quân sự tiếp theo sau cuộc xung đột.  Việt Nam và Liên Bang Sô Viết có thể nói về mối quan hệ chặt chẽ của họ, nhưng sự trợ giúp kinh tế của Sô Viết bị giới hạn – một phần bởi số thu hoạch ngũ cốc của Sô Viết trong năm 1979 thì thấp kém.  Việt Nam có thể lập liên minh với Liên Bang Sô Viết và khối CMEA, nhưng dân chúng của nó không thể ăn vũ khí.
       Đông Nam Á không hài lòng với động thái của Việt Nam tại Đông Dương, nhưng nó cũng không thoải mái với các hành động của Trung Quốc: trong một số phương cách, Trung Quốc xem ra đang dọa nạt Việt Nam, nhưng chung cuộc Trung Quốc đã không kiềm thúc được lân bang của nó.  Chính vì thế, Trung Quốc đã không thể giữ Việt Nam dưới sự kiểm soát và thay vào đó Việt Nam trở nên một mối đe dọa đối với an ninh của khối ASEAN lớn hơn trước đây.
       Hai tác nhân – Hoa Kỳ và Nhật Bản – những nước mà Trung Quốc thực sự muốn có sự ủng hộ chống lại Việt Nam và là các nước mà Trung Quốc mong muốn phô bày phương cách đối phó với một nước chư hầu do Sô Viết hậu thuẫn ra sao, ngay dù với rủi ro của chiến tranh, đã không bị lay chuyển bởi các nỗ lực của Trung Quốc.  Cả Nhật Bản lẫn Hoa Kỳ đều không bị ấn tượng bởi chính sách “đẩy đến bờ vực chiến tranh” rõ ràng của Trung Quốc; họ sẽ ưa thích chính sách né tránh xung đột hơn, chứ không phải một “cuộc hoàn kích tự vệ” kiểu Bắc Kinh [à la Peking, tiếng Pháp trong nguyên bản, chú của người dịch].  Tờ Nhật Báo Quân Đội Giải Phóng (Liberation Army Daily) đã bình luận, sau khi kết thúc cuộc xung đột, rằng:  
       Cuộc hoàn kích để tự vệ là một phương thuốc chào mời [? salutary trong nguyên bản, có nghĩa chào đón, có thể in sai, thay vì salutory, có nghĩa là bổ ích, xem ra  hợp lý hơn, chú của người dịch] cho những kẻ mắc chứng bịnh “sợ Sô Viết: Sovietphobia”  Sự chiến thắng đã là một sự khích lệ vĩ đại cho nhân dân vùng Đông Nam Á và thế giới nói chung trong cuộc chiến đấu của họ chống lại chủ nghĩa bá quyền. 31
       Trong thực tế, Đông Nam Á thì mâu thuẫn, yêu ghét lẫn lộn về độ mạnh của liều thuốc được cho uống, trong khi Hoa Kỳ và Nhật Bản không chấp thuận hành động chút nào.
       Sự đáp ứng của Mỹ đặc biệt làm thất vọng.  Phía Trung Quốc đã hy vọng để phô diễn rằng, bằng việc chấp nhận một rủi ro nghiêm trọng trong việc tấn công Việt Nam và có thể lôi kéo một sự đáp ứng của Sô Viết, Trung Quốc đã không chỉ “trông cậy” vào hệ thống quốc tế, mà còn bắt chước cả một thí dụ từ chính sách ngoại giao của Mỹ đối với người Nga trước đây.  Phía Trung Quốc đã lập luận sớm muộn gì người ta sẽ phải thử thách ít nhất một kẻ thừa ủy nhiệm của Sô Viết, để Sô Viết khỏi cảm thấy rằng họ có thể thực hiện chính sách ngoại giao chống lại các quyền lợi của Mỹ (và các nước khác) mà không bị trừng phạt.  Vào đầu Tháng Ba, khi nói chuyện tại một buổi họp của một học viện thuộc Hàn Lâm Viện Trung Quốc Về Các Khoa Học Xã Hội tại Bắc Kinh, tôi đã bị tra hỏi một cách sắc bén rằng tại sao Hoa Kỳ không lập lại tác phong chống Sô Viết của nó trong Cuộc Khủng Hoảng Hỏa Tiễn ở Cuba, khi Hoa Kỳ đánh liều gây chiến để ngăn chặn một bước tiến hung hăng của Sô Viết.  Ngay dù tôi đã cố gắng để giải thích động thái của Mỹ thời hậu 1962, điều rõ ràng rằng người tra vấn tôi đã, cho dù chậm trễ đến đâu, chấp thuận các hành động của Tổng Thống Kennedy đối với Liên Bang Sô Viết trong năm 1962 và đã so sánh chúng với các hành động của Trung Quốc chống lại “Cuba ở Á Châu” (Việt Nam) và bá chủ của nó, Liên Bang Sô Viết. 32

Sự Tái Lượng Định Của Trung Quốc
       Bởi cuộc chiến tranh thì hao tốn và không thành công, phía Trung Quốc đã phải tái lượng giá các kinh phí quân sự của họ như đã trù hoạch trong chính sách “tứ hiện đại hóa” và gia tăng chúng.  Mặc dù một quyết định đồng thuận có thể đã được lấy để tiến hành cuộc chiến, một số trong giới lãnh đạo chắc chắn đã can dự với nó nhiều hơn các lãnh đạo khác và, như John Kennedy đã nói sau khi có sự thất bại ở Vịnh Con Heo (Bay of Pigs): “Chiến thắng có hàng nghìn cha mẹ, nhưng thất bại chỉ có một đứa con mồ côi”.  Tiếp theo sau sự thất bại quân sự ở Việt Nam, 33 một người nào đó (hay một số viên chức nào đó) đã ủng hộ cuộc chiến tranh phải trả một giá chính trị cho sự binh vực của họ.
       Sự tái lượng định sự phát triển kinh tế của Trung Quốc đã khởi sự trước khi cuộc chiến tranh được phát động, nhưng ít điều được hay biết về tiến trình này cho đến ngay khi cuộc chiến tranh được kết thúc.  Chính vì thế, chiến tranh đã không châm ngòi cho sự tái lượng định toàn diện, nhưng nó đã trợ lực vào việc chứng minh hơn nữa – và còn cả xúc tác – cho nó.  Chiến tranh đã làm mất đi một số lãnh tụ chính trị nào đó, và một cách trùng hợp ngẫu nhiên nó cũng làm tổn hại trên cùng các lãnh tụ đó trong cuộc tái lượng định kinh tế này.
       Sau cùng, chiến tranh đã khởi động một sự “tái thẩm định nhức nhôi’ và kéo dài về chính sách ngoại giao của Trung Quốc.  Kể từ 1970 Trung Quốc trong thực tế, nếu không phải một cách công khai, đã nghiêng về một phía, Hoa Kỳ, để chống lại Liên Bang Sô Viết.  Trong khi mối quan hệ không phải là một liên minh, phía Trung Quốc đã kỳ vọng nhiều ở Hoa Kỳ hơn là một sự kết án vào một thời điểm khi Trung Quốc nghĩ rằng nó đang chấp nhận một rủi ro (tức chiến tranh với người Nga) và đang cố gắng để phô diễn rằng, trong chính trị miền Đông Á và toàn cầu, Trung Quốc trông cậy và đã biểu lộ sự cam kết của nó cho một mặt trận thống nhất chống lại Liên Bang Sô Viết bằng cách dậy cho Việt Nam một “bài học”.  Tuy nhiên, các thành viên trong liên hiệp nguyên sơ của Trung Quốc (đặc biệt Hoa Kỳ) thì ít bị ấn tượng hơn.  Chính vì thế, đối diện với một tình trạng trong đó các tác nhân quốc tế chính yếu đã không đóng vai đúng như điều mà Trung Quốc đã kỳ vọng họ sẽ làm, Trung Quốc đã khởi sự hồi đầu Tháng Tư sự tìm kiếm kéo dài, chậm chạp, dường như khó nhận thấy được, việc cải thiện các quan hệ với Liên Bang Sô Viết.  Mối quan hệ với Hoa Kỳ đã phục vụ tốt cho Trung Quốc và sẽ tiếp tục là một viên đá cột trụ trong chính sách ngoại giao của Trung Quốc.  Nhưng bởi Trung Quốc không thể dựa trên nó khi Trung Quốc phóng ra cuộc tấn công vào Việt Nam nhằm sửa chữa một sự bất thăng bằng toàn cầu không kém các mục tiêu song phương chật hẹp hơn, các quyền lợi của Trung Quốc khi đó đòi hỏi rằng nó nỗ lực để mở lại một sự đối thoại với Liên Bang Sô Viết.
       Chiến Tranh Việt Nam thời thập niên 1960 đã cung cấp chất xúc tác cho việc khai thông của Trung Hoa đối với Hoa Kỳ (và ngược lại), và sự đoạn tuyệt “sau cùng” với Liên Bang Sô Viết vào cuối thập niên 1960.  Một cách mỉa mai, sự thất bại của Trung Quốc trong việc giành được sự ủng hộ quốc tế từ các nước được “trông cậy” trong năm 1979 có thể đã khích động, một sự đảo ngược khác, mặc dù kín đáo hơn, về chính sách: một chiều hướng cẩn trọng hơn đối với phía Mỹ, một sự khai thông nhức nhối với Moscow và một sự cảnh giác đối với phía Nhật Bản.
       Mỗi một trong ba “phóng xạ: fall-outs” từ cuộc xung đột Trung – Việt mùa xuân 1979 sẽ đều quan trọng trong và liên hệ đến bản thân chúng; nhưng bởi vì cuộc chiến tranh xảy ra khi nó được thực hiện và bởi nó đã có tác động trên các vấn đề đa dạng chẳng hạn như sự hiện đại hóa quân sự, các sự sắp xếp cấu hình giới lãnh đạo và chương trình “tứ hiện đại hóa” trong toàn thể [in toto, tiêng la tinh trong nguyên bản, chú của người dịch], cũng như trên các vấn đề to lớn của chính sách ngoại giao, tầm quan trọng của nó đã lớn hơn mức mà Trung Quốc hay Việt Nam nhận thức được, khi họ lần đầu khởi sự giao tranh một cách nghiêm trọng trong các giờ phút sớm sủa của ngày 17 Tháng Hai 1979.
       Tác động của cuộc xung đột trên cơ cấu quân sự Trung Quốc có hai mặt: trước tiên, nó đòi hỏi một sự phân cấp ngân sách bất ngờ để trang trải các phí tổn của cuộc chiến tranh; và thứ nhì, nó gần như chắc chắn đã gây ra một sự gia tăng trong chi tiêu về quân sự trong năm 1979.  Trong nhận định của mình đọc trước Quốc Hội Toàn Dân (QHTD, National People’s Congress: NPC) hồi Tháng Sáu 1979, Bộ Trưởng Tài Chính Chang Ching-fu đã đề cập một cách trực tiếp đến các vấn đề này, có nói:
       Các kinh phí về quốc phòng và các sự chuẩn bị chiến tranh cần đến 20,230 triệu yuan [đơn vị tiền tệ Trung Quốc, chú của người dịch] Trong Tháng Hai và Tháng Ba qua [1979], khi đất nước chúng ta buộc phải phóng ra một cuộc hoàn kích hạn chế để tự vệ chống lại sự xâm lược của Việt Nam, đã có một vài sự gia tăng trong cho chi tiêu quân sự.  Ngoài ra, các nhu cầu phòng thủ biên giới sẽ được tăng cường.  Vì thế điều hợp lý là phần chi tiêu cho quốc phòng và các sự chuẩn bị chiến tranh của chúng ta phải gia tăng, ở một mức độ nào đó, phần tương ứng của nó trong toàn thể ngân sách. 34
       Từ đó, các khoản phân cấp ngân sách cho các kinh phí quân sự cho giai đoạn 1977-79 cho thấy các sự gia tăng rõ rệt, đặc biệt từ tài khóa 1978-79, như các dữ liệu sau đây biểu lộ:
Các kinh phí quân sự (bằng triệu yuan) 35
       1977                                        1978                                        1979
       14,906                                     16,784                                     20,230
       Số gia tăng năm 1979 đến gần 35.7% nhiều hơn ngạch số được phân cấp cho năm 1977, và gia tăng 20.5% so với năm 1978.  (Các ngân sách quân sự tại một số nước có khuynh hướng ước lượng thấp các khoản phân cấp quốc phòng; ngay dù Trung Quốc cũng ước lượng thấp một cách công khai các kinh phí quân sự của họ, một khoản gia tăng 20% trong một năm quả khá lớn).
       Nhiều tiền hơn đã phải chi tiêu cho sự hiện đại hóa quân sự một phần bị bắt buộc bởi các kết quả quân sự của cuộc xung đột: Trung Quốc đã không giành đoạt được một chiến thắng gây sững sờ, thí dụ, như đã xảy ra đối với Ấn Độ trong năm 1962.  Ngoài ra, tỷ số tổn thất của QĐGPNDTQ thì cực kỳ cao: phó tổng tham mưu trưởng Wu Hsiu-ch’uan đã tiết lộ trong một cuộc gặp gỡ với một phái đoàn quân sự Pháp rằng mặc dù Việt Nam đã phải gánh chịu khoảng 50,000 người bị chết hay bị thương, Trung Quốc đã phải chịu 20,000 người bị chết hay bị thương trong cuộc giao tranh náo động trong hai tuần lễ. 36 Điều được giả định một cách tổng quát rằng, bất kể sự chính xác về số tổn thất của Việt Nam ra sao, các sự mất mát của Trung Quốc thì nặng nề -- như  lực lượng tấn công, rất nhiều phần là hơn phân nửa của số tổn thất 20,000 người phải gánh chịu là số tử thương trong khi giao chiến.  Mặc dù phía Trung Quốc nói chung được nhìn là giao chiến tốt, giá về tổn thất nhân lực thì cao – một phần do chỉ có ít kinh nghiệm chiến đấu và, có lẽ quan trọng hơn, bởi các hệ thống vũ khí của Trung Quốc thì quá lạc hậu và các sự giao thông quá lỗi thời cho việc tham gia vào chiến tranh diện địa chống lại một đối thủ mạnh.  Ngân sách đã phải được gia tăng ít nhất 20% -- có lẽ nhiều hơn – và như thế các vật liệu mới sẽ đến từ các vụ mua kỹ thuật quân sự ngoại quốc, ít nhất một phần.
       Bắt đầu từ cuối năm 1978 và kéo dài cho đến năm 1979, Trung Quốc đã bắt tay vào một sự tái điều chỉnh (hay tái lượng định) quyết liệt các kế hoạch kinh tế nguyên thủy được phác họa ra tại QHTD Thứ Năm hồi đầu năm 1975; sự tái lượng định đã được loan báo một cách chính thức tại Phiên Họp Khoáng Đại Thứ Ba của Ủy Ban Trung Ương ĐCSTQ Thứ 11 (được tổ chức từ 18-22 Tháng Mười Hai 1978), và đã bắt đầu tác động khắp nền kinh tế quốc nội và mậu dịch ngoại quốc của Trung Quốc trong các tháng tiếp theo sau. 37 Một cuộc điều trần chính thức và thấu đáo hơn về các vấn đề đối diện nền kinh tế đã xảy ra tại Khóa Họp Thứ Nhì của QHTD, được tổ chức trong nửa phần sau của Tháng Sáu 1979. 38
       Nơi đây các kế hoạch của Trung Quốc thời thanh bình của đầu năm 1978 đã được tái lượng định và điều chỉnh một cách quyết liệt.  Về mặt kinh tế, tác động chính là trên môi trường quốc nội, nhưng ngoại thương cũng bị ảnh hưởng.  Những lời hứa hẹn sẽ mua các khối lượng lớn kỹ thuật của Mỹ được đưa ra bởi họ Đặng trong chuyến thăm viếng của ông ta tại Hoa Kỳ đơn giản là  không giữ được. 39
       Trong suốt năm 1978 nhiều tin đồn đãi đã xảy ra liên quan đến các chức vụ liên hệ của các nhà lãnh đạo chính trị của Trung Quốc.  Điều rõ ràng rằng, vào lúc cuối năm, Đặng Tiểu Bình ở vào một vị thế chỉ huy, được ủng hộ bởi một tập đoàn các nhà hoạch định kinh tế và quân nhân hàng đầu.  Hoa Quốc Phong được xem một cách tổng quát như một kẻ nắm hư vị, chủ tọa nhưng không ảnh hưởng đáng kể đến việc thành lập chính sách.  Vào cuối năm 1978 hay đầu năm 1979, các sự thay đổi được nhận thấy trong giới lãnh đạo.  Các sự thay đổi này có lẽ đã bắt đầu tại Phiên Họp Khoáng Đại Thứ Ba, với việc bổ nhiệm Trần Vân làm một tân phó chủ tịch Đảng; chức nghiệp của họ Trần như một nhà hoạch định kinh tế nghiêm khắc đã dẫn dắt một số nhà quan sát đến việc cảm thấy rằng sự tái vươn lên của ông đã được dư mưu bởi họ Đặng để củng cố các kế hoạch phát triển kinh tế của Trung Quốc.  Bất luận động lực đàng sau sự quay trở lại của họ Trần ra sao, sự xuất hiện của ông trong các hội đồng nhà nước gần như chắc chắn được biểu thị bởi một quan ngại bao trùm: việc hoạch định kinh tế phải thận trọng, kỹ lưỡng, thực tế và không hoang phí.  Sự hiện diện của họ Trần đã mang lại trọng lượng bổ túc cho một số các nhà hoạch định kinh tế kém thế lực hơn trong Bộ Chính Trị: Yu Ch’iu-li và Wang Chen.  Gộp chung, các nhân vạt này xem ra đã tạo thành một phái tranh luận chống lại một số mục đích phấn khích của các kế hoạch được đặt ra bởi QHTD Thứ Năm hồi mùa xuân 1978: nông nghiệp, họ nhấn mạnh, đã phải được xây dựng với mọi giá, và các giấc mơ công nghiệp hóa mau lẹ không thể nào hiện thực qua đêm, hay ngay cả vào năm 1985.  Như đã sẵn nêu ra, các khoản nhập cảng ngoại quốc sẽ phải bị cắt giảm, và cũng hoàn toàn có thể rằng các nhà hoạch định kinh tế đã lập luận chống lại chiến tranh với Việt Nam trên các căn cơ kinh tế: Trung Quốc không thể đài thọ được cuộc chiến.
       Nếu chúng ta chấp nhận sự phác họa quan điểm này của một bộ phận trong giới lãnh đạo, chúng ta phải tra hỏi: ai là kẻ thua thiệt về mặt chính trị nếu các quan điểm đó thắng thế và ai là kẻ thắng lợi? Luận điểm của bài viết này là họ Đặng bị thua, với quyền lực của ông bị xoi mòn từ từ trong năm 1979; rằng quyền lực, ảnh hưởng và vị thế của Trần Vân đã lên cao; và rằng bởi không “bị thua”, họ Hoa đã trở thành một thành viên cần thiết và đuợc kính trọng hơn trong giới lãnh đạo.  Sự nhấn mạnh của họ Trần trên một sự tái lượng định công nghiệp và sự hạ giảm tốc độ sau rốt đã không phù hợp với các hy vọng, tham vọng và lời hứa hẹn của họ Đặng với Trung Quốc và thế giới bên ngoài.  Nhưng các sự nhấn mạnh của họ Trần, với ngoại lệ của hành động quân sự tại Việt Nam, đã thắng thế.  Và bởi sự xác định quá chặt chẽ của họ Đặng với Cuộc Chiến Tranh Trung – Việt, ảnh hưởng của ông ta đã suy giảm hơn nữa do kết quả của thành quả mờ nhạt của Trung Quốc tại đó.
       Tuy nhiên, quyền lực của họ Đặng bị xoi mòn không phải bởi bất kỳ một vấn đề nào chẳng hạn như Việt Nam, mà đúng hơn bởi một sự kết hợp nhiều yếu tố.  Phe bảo thủ kinh tế có thể “rút ra sự thực từ các sự kiện” và chứng tỏ rằng Trung Quốc đơn giản không thể chịu đựng được việc chi tiêu hàng tỷ mỹ kim vào giờ này để mua các sản phẩm đầu tư không thể kết hợp vào nền kinh tế một cách mau chóng như họ Đặng mong muốn.  Sự đột nhập quân sự tại Việt Nam đã không thành công đủ trong việc giảng dạy cho Việt Nam (hay bất kỳ nước nào khác) một bài học.  Thay vào đó, nó đã buộc Trung Quốc phải gia tăng các kinh phí quân sự vào lúc mà Trung Quốc khó có đủ sức để làm như thế.  Từ đó, các chính sách quân sự mà họ Đặng đã gắn bó một cách công khai đã không thành công và gây nhiều tốn phí.  Sau cùng, các tác nhân quốc tế mà trên đó họ Đặng đã đặt các hy vọng thái quá – Hoa Kỳ và Nhật Bản – đã không chịu đáp ứng với các đề nghị của ông về việc thành lập một nhóm chống Sô Viết mạnh mẽ; họ đặc biệt bực dọc với hành động của Trung Quốc chống lại Việt Nam, điều họ nhìn như quá bất trắc và không cần thiết trong bản chất.

Trung Quốc và Hoa Kỳ
       Trong khi họ Đặng có thể tin tưởng rằng sự đáp ứng của Mỹ đối với cuộc xung đột của Trung Quốc với Việt Nam tệ nhất sẽ là sự không chấp thuận kín đáo, nhưng có thể đúng ra là sẽ giữ trung lập, trong thực tế, Hoa Kỳ (và Nhật Bản) đã không chấp thuận một cách công khai hành động của Trung Quốc.  Gần như tức thời sau khi cuộc tấn công của Trung Quốc được loan báo, một phát ngôn viên Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ đã bày tỏ quan điểm căn bản của Chính Quyền [Carter]:
       Chúng tôi chống đối cả cuộc xâm lăng của Việt Nam vào Căm Bốt lẫn cuộc xâm lăng của Trung Quốc vào Việt Nam…  Chúng tôi kêu gọi sự triệt thoái tức thời các bộ đội Việt Nam ra khỏi Căm Bốt và bộ đội Trung Quốc ra khỏi Việt Nam.  Chúng tôi đã tiếp xúc với Trung Quốc, Việt Nam và Liên Bang Sô Viết thúc dục sự kiềm chế …. Tổng Thống [Carter] có nói rõ rằng Hoa Kỳ chống lại hoạt động quân sự nhiều hơn trong vùng đất này.  [Phát ngôn viên Bộ Ngoại Giao có nói thêm:] Phó Thủ Tướng họ Đặng  có nêu ý kiến về hành động không xác định cụ thể đó [có thể sắp xảy ra khi ông ta ở Hoa Kỳ trong tháng qua].  Tổng Thống [Carter] đã nói rõ rằng Hoa Kỳ sẽ chống đối bất kỳ hành động quân sự nào trong vùng”.
       Tuy nhiên, như đã vạch ra trước đây, Tổng Thống Carter đã không biểu lộ một cách công khai sự chống đối của ông đối với hành động khả hữu của Trung Quốc.  Thay vào đó, sự mơ hồ của ông khiến cho Sô Viết không thoải mái và rất có thể đã tạo ra một ảo tưởng ít nhất trong một số các nhà lãnh đạo Trung Quốc rằng sẽ không có sự quở trách công khai của Mỹ nếu họ tấn công Việt Nam.
       Tuy nhiên, nếu phía Trung Quốc đã không có bất kỳ sự nghi ngờ nào về việc Hoa Kỳ cảm thấy ra sao về cuộc tấn công của họ vào Việt Nam, các nhận định tại Bắc Kinh của Bộ Trưởng Ngân Khố khi đó, ông W. Michael Blumenthal, đã gỡ bỏ bất kỳ sự mơ hồ nào và gần như chắn chắn chọc giận phía Trung Quốc – chứ không chỉ làm cho họ bối rối.  Chuyến du hành của ông Blumenthal đã được sắp xếp lịch trình khi họ Đặng đang ở tại Hoa Kỳ: mục đích chính của nó là để thương thảo một giải pháp cho các tài sản bị phong tỏa, mục đích biểu trưng của nó là để khai trương một cách chính thức Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ tại Bắc Kinh vào ngày 1 Tháng Ba.
       Nhưng, một khi Cuộc Chiến Tranh Trung – Việt đã bắt đầu, và phía Nga đã cáo buộc sự thông đồng giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ, trực tiếp đánh vào Việt Nam, và gián tiếp vào Liên Bang Sô Viết, công tác của Blumenthal đã mang một tính khẩn cấp mới mẻ.  Ông có mang theo mình một bức thư cá nhân của [Tổng Thống] Carter gửi các nhà lãnh đạo Trung Quốc và ông đã đọc một bài diễn văn cứng rắn tại Bắc Kinh trong một bữa tiệc khoản đãi bởi Chang Ching-fu, Bộ Trưởng Thương Mại Trung Quốc – kẻ đã được thông báo trước khi có bài diễn văn của Blumenthal rằng ông bộ trưởng sẽ nói về tình hình tại Đông Dương.
       Phát biểu trước, họ Chang phác họa quan điểm của Trung Quốc đối với Việt Nam như sau:
       Các lực lượng biên giới của Trung Quốc đã bị đẩy quá mức chịu đựng trước khi họ đứng dậy đánh trả.  Hành động của họ hoàn toàn chính đáng.  Chúng tôi không muốn giao chiến.  Chúng tôi không muốn lấy một tấc đất của Việt Nam, nhưng chúng tôi sè không tha thứ cho các cuộc đột nhập vô lối vào lãnh thổ Trung Quốc. 41
       Theo sự tường thuật của Tân Hoa Xã về bài diễn văn của Blumenthal, viên bộ trưởng “đã đề cập đến sự quan ngại của Chính Phủ Hoa Kỳ về tình hình tại Đông Nam Á và lập trường của Hoa Kỳ”. 42
       Trong thực tế, Blumenthal đã buộc Trung Quốc chịu trách nhiệm cho các hành động của họ, như các lời phát biểu nguyên văn sau đây cho thấy:
       Tôn trọng nền độc lập và sự toàn vẹn lãnh thổ của mọi quốc gia và dựa vào các phương tiện hòa bình để giải quyết các tranh chấp là các nguyên tắc nền tảng của cách cư xử quốc tế.  Bất kỳ sự xoi mòn các nguyên tắc này làm phương hại đến mọi quốc gia.  Ngay các cuộc xâm lăng hạn chế cũng có rủi ro gây ra các cuộc chiến tranh rộng lớn hơn và khiến công luận quay ra chống bên vi phạm.
       Đừng để có sự nghi ngờ nào về lập trường của Mỹ trên vấn đề này …Như Tổng Thống Carter đã nói trong một hôm trước đây,
       “Đúng trong vài tuần qua chúng ta chứng kiến một cuộc xâm lăng của Việt Nam vào Căm Bốt và, như một hậu quả, một sự xâm nhập qua biên giới của Trung Quốc vào Việt Nam.  Cả hai hành động đã đe dọa sự ổn định của một trong những vùng nhiều triển vọng và quan trọng nhất của thế giới – Đông Nam Á”.
       “Chúng tôi đã sử dụng bất kỳ phương tiên chính trị và ngoại giao khả cung nào để cổ vũ sự kiềm chế từ mọi bên, và để tìm cách ngăn chặn một cuộc chiến tranh mở rộng hơn, chúng tôi sẽ tiếp tục các nỗ lực của mình, cả một cách trực tiếp với các nước can dự, và xuyên qua Liên Hiệp Quốc để đạt được một sự chấm dứt sự giao tranh trong vùng, để mang lại một sự triệt thoái các lực lượng Việt Nam ra khỏi Căm Bốt, và của các lực lượng Trung Quốc ra khỏi Việt Nam, và để giành được sự vãn hồi nền độc lập và sự toàn vẹn của mọi quốc gia can hệ”. 43
       Chưa đầy một tháng sau cuộc thăm viếng của họ Đặng tại Hoa Kỳ, sự trao đổi giữa họ Chang và ông Blumenthal đã phát hiện không chỉ các sự nhận thức sai lầm, sự bất đồng, và sự đụng chạm quyền lợi giữa hai nước, mà còn khởi sự cho sự xoi mòn sự hớn hở về chính trị và không lâu sau đó,  về kinh tế giữa Trung Quốc và Mỹ. 44 Hơn nữa, nó phô bày cho phía Trung Quốc rằng phía Mỹ sẽ không sắp sửa véo mũi của Nga khi không có các quyền lợi sinh tử của Mỹ được thấy là có liên hệ.
       Thay vào đó, sự đáp ứng của Mỹ 45 – được soi sáng bởi bài diễn văn của Blumenthal – được trù tính để làm sáng tỏ các ý định của Mỹ đối với Liên Bang Sô Viết và Trung Quốc.  Sô Viết đã cáo giác rằng Trung Quốc đang mưu toan triệt hạ các quan hệ Sô Viết – Mỹ và Hoa Kỳ đã mặc nhiên ưng thuận. 46 Vào ngày 27 Tháng Hai lời nhắn nhủ của Mỹ dường như đã lọt tới Moscow: Bộ Trưởng Ngoại Giao Gromyko đã không cáo buộc rằng Hoa Kỳ “đã ngấm ngầm chấp thuận cuộc xâm lăng của Trung Quốc [vào Việt Nam], và ông cũng đã không chỉ trích việc Hoa Kỳ để … cho chuyến viếng thăm đã dự trù của Blumenthal sang Bắc Kinh được tiến hành vào lúc này”.  Thay vào đó, ông ta đã ghi nhận một cách cẩn trọng:
       Các nhà lãnh đạo Trung Quốc đăng gắng sức với sự hăng hái đặc biệt để gài Liên Bang Sô Viết và Hoa Kỳ vào một cuộc tranh chấp.  Sự phát triển các quan hệ Sô Viết – Mỹ đang bị ngăn trở dưới ảnh hưởng của họ, và cũng dưới ảnh hưởng của một số lực lượng nội bộ nào đó tại Hoa Kỳ. 47
       Sô Viết được tái bảo đảm và phía Trung Quốc bị bối rối và chạm tự ái 48 bởi bài diễn văn của Blumenthal và các lời tuyên bố của Carter.  Sự đáp ứng của Mỹ đối với động thái của Trung Quốc tại Việt Nam đã là giai đoạn đầu tiên trong một tiến trình xúc tác dẫn đến một sự tái lượng định từ từ, gần như tảng băng trôi đi, về vị thế của Trung Quốc đối với Hoa Kỳ và Liên Bang Sô Viết trong những tháng kế tiêp.  Các thái độ của Mỹ đối với Đài Loan và sự ký kết Hiệp Ước SALT II đã là hai yếu tố khác.
       Tiếp theo sau sự thừa nhận, Hoa Kỳ đã tìm cách định hình một mối quan hệ mới, không chính thức với Đài Loan.  Tóm lược, Tổng Thống Carter đã đệ trình một nghị quyết đề nghị với Quốc Hội liên quan đến Đài Loan; sau đó, Hạ và Thượng đã tu chính nó, cung cấp các sự bảo đảm mạnh mẽ hơn trong sự ủng hộ của Mỹ cho Đài Loan.  Vào cuối Tháng Ba, Huang Hua đã phản đối với Đại Sứ Woodcock về pháp chế này, đã được thông qua bởi cảc hai Viện vào ngày 30 Tháng Ba.  Mặc dù phía Trung Quốc cho rằng Đạo Luật Các Quan Hệ Với Đài Loan (Taiwan Relations Act) có thể đã vi phạm các điều khoản của bản thông cáo thừa nhận ngoại giao Trung – Mỹ, Tổng Thống Carter đã ký ban hành dự luật vào ngày 10 Tháng Tư. 49
       Bất kể sự kín tiếng của Bắc Kinh về Đạo Luật Các Quan Hệ Với Đài Loan sau khi nó được ký ban hành, các viên chức ngoại giao Trung Quốc đã gặp khó khăn bởi việc thông qua đạo luật vào Tháng Sáu.  Trong một phiên họp tại Bộ Ngoại Giao tại Bắc Kinh hồi đầu Tháng Sáu, một viên chức theo sáng kiến riêng của mình đã nêu lên đề tài và mạnh mẽ chỉ trích Hoa Kỳ về việc thông qua đạo luật. 50 Vài ngày sau đó một viên chức khác, tại New York, đã nêu lên vấn đề một cách khá sắc bén, đặc biệt điều khoản quy định rằng các cơ sở ngoại giao của Trung Hoa Dân Quốc trước đây vẫn thuộc sở hữu của Đài Loan – bất kể sự chống đối của Tổng Thống và vi phạm phương thức ngoại giao quốc tế thông thường. 51
       Các nhận định này và quan điểm Bắc Kinh nói chung tiêu cực đối với Đạo Luật không cách nào có nghĩa sự khởi đầu cho một sự chấm dứt mối quan hệ mới giữa Hoa Thịnh Đốn và Bắc Kinh.  Tuy nhiên, ngay khi các biện pháp tích cực được thực hiện (thí dụ, sự giải quyết vấn đề các tài sản bị phong tỏa, sự ký ban hành một đạo luật mậu dịch chuẩn cấp cho Trung Quốc quy chế tối huệ quốc), đã có các điều gây bực bội trong mối quan hệ.  Một dấu hiệu không thể nhầm lẫn được là cách mà tờ Nhân Dân Nhật Báo (People’s Daily) đối xử với Hoa Kỳ trong các trang báo của nó.  Trong ba tháng đầu tiên của năm 1979, tất cả các bài viết (vào khoảng 50) đã tường thuật một cách thuận lợi về các quan hệ ngoại giao của Mỹ (thí dụ, chuyến du hành của họ Đặng) và các sự vụ đối nội.  Sau khi có sự thông qua Đạo Luật Các Quan Hệ Với Đài Loan, từ Tháng Tư cho đến giữa Tháng Sáu, sự tường trình về Hoa Kỳ thì lẫn lộn, mặc dù phần lớn các bài viết vẫn còn tích cực. 52
       Phía Trung Quốc đã không để việc xử lý của Hoa Kỳ về vấn đề Đài Loan mất đi; trong một cuộc phỏng vấn với hãng thông tấn Assocuiated Press tại Bắc Kinh, nhà ngoại giao kỳ cựu Trung Quốc, Wang Ping-nan, đã chỉ trích Hoa Kỳ về việc cung cấp các vũ khí cho Đài Loan – chính vì thế tăng cường quyết tâm của Đài Loan không chịu bước vào các cuộc thương thảo với Bắc Kinh.  Mặc dù sự kiên nhẫn của Trung Quốc thì lâu dài, khi không còn nữa, “một chiều hướng khác sẽ được sử dụng”. 53
       Sự ký kết bản hiệp ước SALT-II giữa Sô Viết – Mỹ tại Vienna hồi giữa Tháng Sáu 1979, một vấn đề then chốt của cán cân chiến lược giữa Hoa Kỳ và Liên Bang Sô Viết và các thái độ của Trung Quốc đối với cán cân đó, khiến cho phía Trung Quốc hạ thấp hơn nữa các ước vọng của họ rằng Hoa Kỳ sẽ tranh cãi dữ dội với Liên Bang Sô Viết.  Phía Trung Quốc đã theo dõi kỹ lưỡng các cuộc thương thảo Hiệp ước SALT; không có lý do cho họ để nghi ngờ rằng Carter sẽ ký vào bản hiệp ước.  Nhưng chữ ký đã lý giải cho họ rằng mối quan hệ Sô Viết – Mỹ sẽ rõ ràng ưu tiên không chỉ trên các quan hệ Trung – Mỹ -- mà rằng, trong mắt nhìn của Trung Quốc, phía Mỹ vẫn tiếp tục tin tưởng một cách ngây thơ vào Sô Viết không chỉ trong Hiệp Ước SALT II, mà còn ở các vấn đề toàn cầu gây tranh cãi khác.  Tờ Nhân Dân Nhật Báo một lần nữa trợ lực vào việc phô bày sự mất ảo mộng gia tăng của Trung Quốc với chính sách của Mỹ đối với Liên Bang Sô Viết.  Từ 15 Tháng Sáu cho đến đầu Tháng Tám 1979, hơn một nửa phần tin tức về Hoa Kỳ có tính cách tiêu cực và chỉ trích trong nội dụng.
       Từ đó, Trung Quốc sẽ phải cố gắng khai thông, một cách đau đớn, chậm chạp và cẩn trọng một giải pháp Sô Viết, ngay trong khi các chiến sự Trung – Việt tiếp tục ở mức độ cực kỳ cao, và đã không có sự hạ giảm trong sự căng thẳng Trung Quốc – Sô Viết có vẻ như sắp xẩy ra.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét