CHIẾN TRANH TRUNG QUỐC – VIỆT NAM 1979
Daniel Tretiak
University of Hong Kong
Member, National Committee of United States – China Relations
University of Hong Kong
Member, National Committee of United States – China Relations
Chiến tranh Việt Nam của Trung Quốc và các hậu quả của nó
Ngô
Bắc dịch
Cuộc Chiến
Tranh Trung – Việt hồi Tháng Hai – Tháng Ba 1979 đánh dấu
đỉnh điểm của nhiều tháng quan hệ
căng thẳng giữa hai nước cộng sản láng
giếng. Bài viết này khảo sát chính sách ngoại giao của
Trung Quốc như đã tiến triển từ trước,
trong và sau cuộc xung đột. Luận đề cơ
bản của tôi là các mục đích nguyên thủy của
Trung Quốc vừa có tính chất quân sự lẫn chính trị,
liên quan đến sự xác định và tăng cường
vai trò của Trung Quốc trong chính trị quốc tế cấp
vùng (tức Đông Dương và Đông Nam Á), cũng
như vai trò được nhận thức của Trung Quốc
trong mối quan hệ toàn cầu giữa Liên Bang Sô Viết
và Hoa Kỳ. Bởi vì các mục đích quân sự của
cuộc xung đột không đạt được hoàn
toàn, các mục đích chính trị cũng không được
thỏa mãn, ảnh hưởng không chỉ mối quan hệ
giữa nhiều phe cánh khác nhau trong giới lãnh đạo Trung
Quốc và quan điểm của họ về các kế hoạch
phát triển kinh tế của Trung Quốc, mà còn trên tầm
quan trọng của các phí tổn hiện đại hóa quân
đội như một phần của chương trình “tứ
hiện đại hóa” và ngay cả trên sự sắp xếp
hàng ngũ của Trung Quốc đối diện với
Liên Bang Sô Viết và Hoa Kỳ. Tôi sẽ trình bày trước
tiên màn giáo đầu của cuộc chiến tranh.
Đã có hai thành quả
ở tầm mức quan trọng trong chính sách ngoại giao
của Trung Quốc trong năm 1978 đã củng cố uy
tin quốc tế của Trung Quốc và nâng cao ảnh
hưởng cấp miền và toàn cầu của nó. Trong
Tháng Tám, Nhật Bản và Trung Quốc đã ký kết Hiệp
Ước Hữu Nghị và Hòa Bình sau các cuộc
thương thảo kéo dài rất lâu. Đặng Tiểu
Bình đã đi thăm viếng Nhật Bản vào cuối
Tháng Mười để trao đổi các văn kiện
phê chuẩn và củng cố hơn nữa các quan hệ
Trung Hoa – Nhật Bản. Sau đó, vào giữa Tháng Mười
Hai, Trung Quốc và Hoa Kỳ đã chính thức chấm dứt
sự xa cách lâu dài của chúng: vào ngày 15/16 Tháng Mười
Hai, Hoa Kỳ đã loan báo sự thừa nhận Cộng
Hòa Nhân Dân [Trung Quốc], và sự thiết lập các tòa
đại sứ tại Bắc Kinh và Hoa Thịnh Đốn.
Như trong trường hợp Nhật Bản, họ
Đặng đã đi thăm Hoa Kỳ không lâu sau đó,
vào đầu năm 1979, để biểu trưng cho mối
quan hệ đã thay đổi giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc.
Song mọi điều
đã không êm xuôi trong chính sách ngoại giao của Trung Quốc:
vấn đề day dứt của Đông Dương
đang tồi tệ hơn. Sự đối nghịch của
Việt Nam đối với Trung Quốc được
biểu lộ trong một số phương cách. Tài sản
Hoa kiều hải ngoại, đặc biệt tại vùng
vốn là Nam Việt Nam, nhưng cũng cả ở miền
bắc, bị tịch thu. Hoa kiều hải ngoại tại
Việt Nam bị ngược đãi và trục xuất tại
một số tỉnh sang miền nam Trung Quốc. Việt
Nam đã tăng cường việc đứng vào hàng
ngũ quốc tế với Liên Bang Sô Viết, trước
tiên bằng việc gia nhập vào Hội Đồng Tương
Trợ Kinh Tế (Council of Mutual Economic Assistance: CMEA) trong
Tháng Sáu 1978 và sau đó, trong Tháng Mười Một, bằng
việc ký kết một Hiệp Ước Hữu Nghị
và Hợp Tác với Liên Bang Sô Viết trong đó Sô Viết
thực sự hứa hẹn trợ giúp Việt Nam nếu
bị tấn công. 1 (Trung Quốc có thể phải
chịu trách nhiệm một phần cho đường lối
mới, thân Sô Viết của Việt Nam; trong mùa hè 1978 phía
Trung Quốc đã cắt đứt mọi khoản ngoại
viện cho Việt Nam, nói là bởi tiền dùng cho việc
tài trợ các khoản viện trợ đã phải chuyển
cho việc trợ giúp dân tỵ nạn. Trung Quốc chính
vì thế đã dành cho Việt Nam không mấy sự chọn
lựa ngoài việc hướng đến người Nga
để có sự ủng hộ kinh tế.)
Trong khi đó trong năm
1978, một loạt các vụ khiêu khích biên giới ngày càng
nghiêm trọng xảy ra giữa Trung Quốc và Việt Nam.
Như trong bất kỳ tình trạng biên giới căng thẳng
nào, thật khó khăn để xác định bên nào đã
khai hỏa trước. Trong suốt năm 1978, Cơ Quan
Thống Tấn Tân Hoa Xã (New China News Agency: NCNA) tường
thuật từ các tỉnh Vân Nam và Quảng Tây thuộc
Trung Quốc, đã tuyên bố rằng phía Việt Nam đã
thực hiện các hành vi hiểm ác chống lại các nhân
viên quân sự, các thường dân và các thị trấn Trung
Quốc, trong khi phía Việt Nam tuyên bố rằng Quân Đội
Giải Phóng Nhân Dân Trung Quốc (QĐGPNDTQ) đã thực
hiện cùng các loại hành vi như thế. 2 Nhưng
có lẽ hành vi nghiêm trọng nhất mà Việt Nam đã thực
hiện để chống lại các quyền lợi của
Trung Quốc là việc leo thang các nỗ lực của nó
để lật đổ chính quyền Pol Pot do Trung Quốc
hậu thuẫn, chống lại Việt Nam, tại
Kampuchea (Căm Bốt). Vào ngày 7 Tháng Một 1979 binh sĩ Việt
Nam và một số bộ đội Khmer đã chiến
đấu hữu hiệu hơn trong một cuộc tấn
công chớp nhoáng vào Căm Bốt bằng việc chiếm
giữ Phnom Penh. Trong năm 1978 một nỗ lực đã
được thực hiện để thương thảo
một giải pháp: trong Tháng Tám và Tháng Chín, Thứ Trưởng
Ngoại Giao Chung His-tung đã đi đến Hà Nội,
nhưng các cuộc thương thảo đã không có kết
quả.
Bốn sự bực
tức đầu tiên – sự tịch thu tài sản, sự
trục xuất dân tỵ nạn, việc đứng vào
hàng ngũ với Liên Bang Sô Viết, các vụ khiêu khích biên
giới – đã khá nghiêm trong., nhưng có thể chưa
đủ để khiến cho phía Trung Quốc phải
giao chiến với Việt Nam trong một cuộc xung
đột trực tiếp nhưng hạn chế. Sự
sụp đổ của Kampuchea, mặc dù không nhất thiết
là không bất ngờ, khiến cho phía Trung Quốc nhận thức
tham vọng của Việt Nam như đe dọa không chỉ
đến các quyền lợi của Trung Quốc tại
bán đảo Đông Dương, mà còn cho vị thế của
nó tại các quốc gia thuộc khối ASEAN phi côộg sản
ở Đông Nam Á. Với sự sụp đổ của
Phnom Penh, các nhà lãnh đạo Trung Quốc bất đầu
nói đến vệc ‘dạy cho Việt Nam một bài học”.
3
Sự thừa nhận
của Hoa Kỳ đối với Trung Quốc không thể
chỉ bị nhìn dưới mặt song phương
đơn thuần. Trung Quốc đã nhìn sự thiết
lập các liên hệ ngoại giao như một cơ hội
để sắp hàng Hoa Kỳ với chính Trung Quốc, Nhật
Bản và Tây Âu, nhằm phá vỡ mối đe dọa lan
tràn mà Trung Quốc đã nhận ra của Liên Bang Sô Viết
như đặt ra cho an ninh riêng của Trung Quốc và toàn
cầu. Vào lúc trước khi có cuộc thăm viếng của
ông ta tại Hoa Kỳ, họ Đặng đã chỉ cho
thấy tầm quan trọng mà ông ta đã đặt trên Hoa
Kỳ trong khuôn khổ chính trị quốc tế toàn cầu
trong một cuộc phỏng vấn với các viên chức
của tạp chí Time:
Hỏi: Nhìn
vào tình hình tam phương giữa nước ông và Liên Bang
Sô Viết cùng Hoa Kỳ, điều phải được
tái đoan chắc với ông rằng cả Trung Quốc lẫn
Hoa Kỳ đều có một mối quan hệ rất chặt
chẽ với một nước thứ tư rất quan
trọng, Nhật Bản. Không có một nước tương
đương cho Liên Bang Sô Viết ở phía họ trên bàn
cân.
Trả lời: Câu
hỏi là: sau khi thiết lập mối quan hệ này giữa
Trung Quốc, Nhật Bản và Hoa Kỳ, chúng ta phải
phát triển hơn nữa mối quan hệ trong một
đường hướng sâu đậm. Nếu chúng ta
thực sự muốn đặt các sự kiềm chế
trên con gấu bắc cực [chỉ Liên Bang Sô Viết, chú
của người dịch] điều thực tiễn
duy nhất cho chúng ta là phải thông nhất. Nếu chúng ta
chỉ tùy thuộc vào sức mạnh của Hoa Kỳ không
thôi, nó sẽ không đủ. Nếu chúng ta chỉ tùy thuộc
vào sức mạnh của Âu Châu, nó sẽ không đủ.
Chúng tôi là một nước nghèo, không đáng kể, nhưng
nếu chúng ta thống nhất, vâng, nó sẽ có trọng
lượng.
Hỏi: Trở
lại với Nhật Bản, nước đó không làm lệch
sự cân bằng tam giác hay sao?
Trả lời: Điều
không chỉ liên quan đến Trung Quốc mà còn có ý
nghĩa to lớn cho an ninh thế giới, ổn định
thế giới, rằng sẽ có các quan hệ thân hữu
giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ, Âu Châu, cùng Nhật Bản.4
Từ đó, mối
quan ngại của họ Đặng về việc củng
cố quan hệ chiến lược với Hoa Kỳ
đã được mang sang Hoa Kỳ vào cuối Tháng Một
– đầu Tháng Hai. Các nhận định công khai của
ông về mối quan hệ Hoa Kỳ khiến ta nghĩ rằng
ông ta đã mong muốn nó được làm vững mạnh
hơn. Ông đã kỳ vọng – và có thể cảm thấy
ông đã nhận được – các sự bảo đảm
từ Hoa Kỳ rằng mối quan hệ sẽ được
củng cố, và rằng Hoa Kỳ sẽ không chỉ trích
Trung Quốc một khi Trung Quốc tính toán việc dậy
cho Việt Nam một bài học.
Cuộc thăm viếng
của họ Đặng tại Hoa Kỳ được
nổi bật bởi các nhận định chống lại
Sô Viết cũng như các lời tuyên bố ám chỉ
đến khả tính của một cuộc tấn công vào
Việt Nam để dạy cho nước này “một bài học”
vì các hành động của nước này đối với
chính phủ Pol Pot do Trung Quốc hậu thuẫn và vì các vụ
khiêu khích biên giới của nước này đối với
Trung Quốc. Trong suốt cuộc thăm viếng, các viên
chức Mỹ đã không công khai tỏ vẻ bất đồng
với vị khách của họ; các nhận định của
ông ta vẫn là một phần của tài liệu lưu trữ,
chính vì thế lôi kéo sự chú ý và chỉ trích của Sô Viết.
5
Một sự khảo
sát các nhận định của họ Đặng tại
Hoa Kỳ xác nhận luận điểm rằng ông ta
đang dùng chuyến du hành của mình không chỉ để
cố gắng cải thiện các quan hệ song
phương, mà còn để làm sáng tỏ quan điểm của
Trung Quốc về các vấn đề cấp vùng và toàn cầu
quan yếu. Vào ngày 29 Tháng Một, thí dụ, trong một bài
diễn văn chào đón họ Đặng, Tổng Thống
Carter đã mời Trung Quốc hãy gia nhập cùng với Hoa
Kỳ trong một “hành trình chung” tiến tới hòa bình và ổn
định trên thế giới. Ngược lại, họ
Đặng đã mô tả thế giới như “còn lâu mới
yên tĩnh”, tuyên bố: “Các yếu tố gây ra chiến
tranh đang tăng trưởng một cách thấy rõ. Dân
chúng của thế giới có công tác khẩn cấp để
tăng cường gấp đôi các nỗ lực của
họ nhằm duy trì hòa bình, an ninh, và sự ổn định
thế giới”. 6 Vào ngày 30 Tháng Một, họ
Đặng “nói ông ta không thể loại bỏ khả tính
của việc sử dụng các lực lượng vũ
trang của Trung Quốc chống lại Việt Nam … hầu
bảo toàn an ninh và biên giới Trung Quốc, ‘chúng tôi cần
hành động một cách thích đáng, chúng tôi không thể
cho phép Việt Nam chạy hoang khắp nơi. Vì quyền lợi
của hòa bình và ổn định thế giới và vì quyền
lợi của chính đất nước chúng tôi, chúng tôi
có thể bị buộc phải làm những gì chúng tôi không
thích làm.’” 7
Hoàn toàn không bất
ngờ, cũng trong ngày 30 Tháng Một, họ Đặng
đã tố cáo Việt Nam về “sự xâm lăng vũ
trang ồ ạt” của nó tại Căm Bốt, với sự
hậu thuẫn của Liên Bang Sô Viết. “Trung Quốc sẽ
không ngần ngại ngay cả việc gánh vác các sự hy sinh
cần thiết nhằm bảo vệ công bình quốc tế
và các quyền lợi dài hạn của hòa bình và ổn
định thế giới”. 8 Ngày kế tiếp, họ
Đặng đưa ra lời cảnh cáo “các bài học” nổi
tiếng của ông liên quan đến Việt Nam: bởi vì
cuộc xâm lăng vào Căm Bốt và các biến cố ở
biên giới với Trung Quốc, Trung Quốc đã chuẩn
bị để hành động chống lại Việt
Nam. “Nếu bạn không dạy cho họ một vài bài học
cần thiết, họ sẽ không biết phải quấy
là gì”. Sau đó, ông đã nói thêm, Tôi có thể cho quý vị thấy
rằng những gì người Trung Quốc nói ra thì khả
tín”. Tuy nhiên, ông đã bổ túc một cách cẩn trọng,
“Bất kỳ hành động nào thực hiện bởi
Trung Quốc sẽ được cứu xét cẩn thận.
Chúng tôi sẽ không có bất kỳ hành động hấp tấp
nào. Về những biện pháp mà chúng tôi sẽ chuẩn
thuận, chúng tôi vẫn còn đang xem xét vấn đề”.
9 Tại Houston, họ Đặng tái xác nhận sự
ủng hộ dành cho Kampuchea, tuyên bố rằng Trung Quốc
chắc chắn “sẽ ủng hộ Kampuchea” tới mức
tôi đa có thể làm được, mặc dù các
phương tiện của Trung Quốc có giới hạn”.
10
Tân Hoa Xã (NCNA) đã
tóm tắt các nỗ lực của họ Đặng đề
giành đoạt sự ủng hộ của Mỹ cho các
chính sách của ông ta như sau: “Các sự khác biệt của
hệ thống xã hội và tín điều chính trị
đã không thể kềm hãm tình hữu nghị [Trung Quốc
– Hoa Kỳ] khỏi việc lớn mạnh. Sự đe dọa
của chủ nghĩa bá quyền từ bên ngoài chỉ có
thể đưa đến việc gắn bó hai dân tộc
chặt chẽ hơn với nhau. Cuộc thăm viếng
của Phó Thủ Tướng họ Đặng xác nhận
sự thực này. Các quan hệ thân hữu … giữa … Trung
Quốc và Hoa Kỳ sẽ làm thay đổi mô thức của
các quan hệ quốc tế thời hậu chiến và
tăng cường sức mạnh lớn lao làm lợi cho
hòa bình và an ninh thế giới”. 11 Truyền thông được
nói đã “xem trọng các lời tuyên bố vững chắc
của phó thủ tướng [về Việt Nam] khi tin tức
hàng đầu đã không che dấu sự thỏa mãn của
chúng”. 12
Bản tóm tắt của
Tân Hoa Xã khó có thể bị thách đố một cách dễ
dàng. Không lúc nào trong suốt cuộc thăm viếng, phía Mỹ
lại đã tỏ vẻ bất đồng với tinh thần
của các nhận định chống Việt Nam và chống
Sô Viết của họ Đặng. Theo một sự
tường thuật, phía Mỹ cảm thấy rằng
“Moscow … có thể nhận thấy rằng phía Mỹ đã
không ủng hộ một cách công khai [các nhận định
đó] và có thể từ đó nhìn thấy rằng Hoa Thịnh
Đốn thì bằng lòng việc [không] bất đồng
một cách công khai với Trung Quốc”. 13 Hoa Thịnh
Đốn đã không bất đồng một cách mạnh
mẽ và công khai; từ đó, Moscow càng trở nên bực dọc
hơn – và họ Đặng dường như cảm thấy
rằng phía Mỹ đã đồng ý một cách kín đáo
với các nhận định của ông.
Ngoài ra, bản thông
cáo chung dành cho báo chí được công bố tại Hoa Thịnh
Đốn chứa đựng trong đó một sự
đề cập đến sự kiện rằng Hoa Kỳ
và Trung Quốc “khẳng định là họ chống lại
các nỗ lực của bất kỳ nước hay một
nhóm nước nào muốn thiết lập bá quyền hay sự
thống trị trên nước khác …” 14
Các sự quan ngại
của Nga cũng như các sự nghi ngờ tại Hoa Kỳ
về việc họ Đặng đã khai thác Hoa Kỳ
đên đâu đã kéo dài sau khi chuyến du hành kết thúc.
Tổng Thống Carter được hỏi tại cuộc
họp báo của ông hôm 12 Tháng Hai:
“Khi Phó Thủ
Tươ/ng Đặng [Tiểu Bình] của Trung Quốc tại
Hoa Kỳ, ông đã đưa ra một số lời tuyên bố
chống lại Sô Viết. Đặc biệt, trong vài dịp,
ông ta có nói rằng Sô Viết đang tìm cách thống trị
thế giới. Tôi thắc mắc là liệu ông [Tổng
Thống] có đồng ý với lời phát biểu đó
hay không, và nếu không, tôi thắc mắc về quan điểm
của Tổng Thống đối với các ý định
toàn cầu của Sô Viết?
Tổng Thống
Carter đã trả lời câu hỏi đó:
“Tôi không bao giờ
toan tinh việc thực hiện sự kiểm duyệt
đối với một vị quốc trưởng hay
viên chức quan trọng đến thăm xứ sở
chúng ta. Tôi đã không cố gắng để nói với họ
Đặng những gì sẽ phát biểu khi ông ta có cuộc
họp báo. Tôi đã không cố gắng để nói với
họ Đặng về những gì phát biểu khi ông ta gặp
gỡ các Thành Viên của Quốc Hội. Tôi đã không cố
gắng để viết lời chúc tụng ở bàn tiệc
cho ông ta. Và tôi nghĩ thật là chính xác để nói rằng
các lời tuyên bố của họ Đặng tại xứ
sở chúng ta chắc chắn đáng chú ý hơn những sự
phát biểu mà ông ta đã đưa ra trong chính nước
của mình hay những sự phát biểu mà ông đã
đưa ra tại các nước khác.
“Quan điểm và
thái độ của phía Trung Quốc đối với
Liên Bang Sô Viết thì rất rõ ràng đối với tất
cả chúng ta trong nhiều năm qua. Chúng ta có một số
lãnh vực mà chúng ta bất đồng với sự lượng
định về Liên Bang Sô Viết như được
phát biểu bởi họ Đặng. Mục đích của
chúng ta, mục tiêu của chúng ta, tôi sẽ nói có lẽ trách
nhiệm quan trọng nhất mà tôi gánh vác trên vai, với
tư cách Tổng Thống, là bảo vệ hòa bình trên thế
giới, và đặc biệt có các mối quan hệ tốt,
vững chắc với Liên Bang Sô Viết đặt trên
ước muốn chung về hòa bình, điều mà tôi tin
chắc rằng họ cũng chia sẻ. Chúng ta hiện
đang làm việc hàng ngày để cố gắng tìm ra một
thỏa ước SALT [hạn chế vũ khí chiến
lược, chú của người dịch] với Liên Bang
Sô Viết … Chúng ta sẽ khai phá mọi cách chúng ta có thể
làm được, một phương thức để
thực hiện các mục đích và tôn vinh các nguyên tắc
của chính quốc gia chúng ta, để cạnh trạnh với
chính phủ và nhân dân Liên Bang Sô Viết một cách hòa bình khi
cần thiết, song tìm kiếm cùng với họ sự
thân hữu, hợp tác, và mậu dịch ở mức tôi
đa khả hữu dưới các tình huống đó”. 15
Khi đặt bên cạnh
các nhận định của họ Đặng về mối
đe dọa của Sô Viết và nhu cầu một “Đại
Liên Hiệp” chống lại Liên Bang Sô Viết, các nhận
định của [Tổng Thống] Carter sau cuộc
thăm viếng của họ Đặng cho thấy sự
bất đồng trong quan điểm giữa giới lãnh
đạo Mỹ và Trung Quốc về cách thức đối
đầu với Liên Bang Sô Viết và, một cách mặc
nhiên, cán cân chiến lược. Cuộc thương thảo
với Liên Bang Sô Viết thì phù hợp vpới các quyền
lợi của Mỹ; đối với họ Đặng,
điều đó không thể chấp nhận được
bởi Sô Viết là một mối đe dọa quá to lớn
và không thể tin cậy được. Sự khác biệt
nền tảng này giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc ở cực
điểm của cơn thống khoái (euphoria) mà hai nước
đã có về nhau đã báo trước sự yểu mệnh
của cơn thống khoái: nó sẽ bị xì hơi bởi
sự tái lượng định nội bộ về nền
kinh tế của Trung Quốc và bởi quyết định
của Trung Quốc để phóng ra một “cuộc hoàn
kích tự vệ” đánh Việt Nam. Trong khi Hoa Kỳ có thể
sống chung với nước kể trước [Trung Quốc],
nó đã chọn để phát biểu một cách mạnh mẽ
và phê phán nước kể sau [Việt Nam], ngay trước
ngày 1 Tháng Ba, khi phía Trung Quốc và Mỹ biến cải các
văn phòng liên lạc của họ lần lượt tại
Hoa Thịnh Đốn và Bắc Kinh thành các tòa đại sứ.
Như sẽ được
nêu ra dưới đây, họ Đặng đã ước
lượng quá đáng mức độ của sự ủng
hộ, chấp thuận và thông cảm ngấm ngầm của
Hoa Kỳ đã biểu lộ dành cho các quan ngại cấp
miền và toàn cầu của Trung Quốc, đặc biệt
các lý do nằm bên dưới các hành động mà Trung Quốc
đã dự tính tại Đông Dương. Các hậu quả
của sự ước lượng thấp đó, cộng
với sự thông qua Đạo Luật Các Quan Hệ Với
Đài Loan năm 1979 bởi Quốc Hội Mỹ, đã
làm xì hơi cơn thống khoái bao quanh các thái độ
chính trị Hoa Kỳ - Trung Quốc tiếp theo sau cuộc
xung đột Trung Quốc – Việt Nam, giống như sự
tái lượng định kinh tế Trung Quốc – làn sóng
gợn đầu tiên được cảm thấy ngay
khi cuộc chiến tranh giảm dần cường độ
-- đã làm xẹp đi cơn thống khoái mậu dịch
của Hoa Kỳ (và Nhật Bản) đối với Trung
Quốc. Họ Đặng – bất kể sự đón tiếp
hào sảng dành cho ông tại Hoa Kỳ -- đã không thể
đạt được sự hậu thuẫn của Mỹ
cho chính sách chống Sô Viết của ông (bất kể các
cáo giác không xác thực của Sô Viết nói rằng ông
đã nhận được sự ủng hộ đó),
đã không có thể đạt được sự ủng
hộ ngấm ngầm từ Hoa Kỳ cho sự giảng dạy
của Trung Quốc một bài học dành cho Việt Nam, và
đã không làm giảm bớt nhiệt tình của quốc hội
để thông qua pháp chế quy định một cách chính
thức các bảo đảm của Mỹ đối với
Đài Loan.
Mặc dù bản Hiệp
Ước mới với Nhật Bản đã đánh dấu
một khúc ngoặt trong các quan hệ Trung – Nhật, sự
ký kết của nó đã không đạt được nếu
không có sự thỏa hiệp về phía Trung Quốc.
Đòi hỏi nguyên thủy của Trung Quốc về
điều khoản chống lại chính sách bá quyền
đã được làm nhẹ bớt và vấn đề
Quần Đảo Senkaku (Điều Ngư: Tiaoyut’ai) – vốn
suýt làm tan vỡ các cuộc đàm phán hồi Tháng Tư 1978
– được xếp lại.16 Chuyến du hành
của họ Đặng sang Đông Kinh, cũng giống
như chuyến du hành sau này sang Hoa Kỳ, đã không chỉ
quan tâm đến việc cải thiện các quan hệ
Trung – Nhật. Mục đích của ông là lôi kéo Nhật Bản
lại gần hơn với Trung Quốc trong các vấn
đề cấp miền và toàn cầu, và đặc biệt
nhằm khai thác sự thù nghịch của Nhật Bản
đối với Liên Bang Sô Viết. Nước kể sau
[Liên Bang Sô Viết] đã không chịu hoàn trả “Bốn
Đảo Phương Bắc” cho Nhật Bản và đã
không ký kết một hiệp ước hòa bình với cựu
thù của nó. Trái lại, Trung Quốc đã ký kết một
hiệp ước và đã hứa hẹn sẽ hủy bỏ
Hiệp Ước Hữu Nghị, Liên Minh và Trợ Giúp Hỗ
Tương giữa Trung Quốc – Sô Viết năm 1950 với
nội dung công khai chống lại Nhật Bản của
nó.
Cuộc viếng
thăm của họ Đặng tại Nhật Bản
đã phô bày không quá nhiều sự thất bại của một
khía cạnh quan trọng trong chính sách ngoại giao của
Trung Quốc, nhưng thay vào đó, các sự phức tạp
mà Trung Quốc phải đối diện trong việc cố
gắng thi hành chính sách của nó. Trước khi có cuộc
du hành, truyền thông Trung Quốc và viên phó thủ tướng
có nói rõ rằng Trung Quốc ủng hộ sự tăng cường
Các Lực Lượng Tự Vệ của Nhật Bản
và sự duy trì thỏa ước an ninh hỗ tương
giữa Hoa Kỳ - Nhật Bản. Nhìn từ chính sách ngoại
giao của Trung Quốc, các lập trường như thế
thì phù hợp với các mục đích cấp miền và
toàn cầu của Trung Quốc nhằm đánh vào sườn
người Nga. Nhưng bên trong Nhật Bản, các chính
sách này đã không nhận được một sự
đáp ứng tích cực nồng nhiệt. 17 Các
thành viên của các đảng Xã Hội Nhật Bản, Cộng
Sản Nhật Bản và Đảng Komei cùng Câu Lạc Bộ
Tân Tự Do đã biểu lộ các quan điểm về
các lập trường của Trung Quốc từ chỗ
phê phán đến nghi ngờ; cánh hữu trong Đảng cầm
quyền Tự Do Dân Chủ thì ngờ vực sâu xa các ý
định của họ Đặng: sau rốt ông ta là một
người cộng sản và không thể tin tưởng
được. Từ đó, họ Đặng đã rời
Nhật Bản với thiện chí – nhưng không có gì giống
như mối quan hệ đồng minh mà người Nga
nói rằng ông ta muốn có và mối quan hệ mà ít nhất
một số người Nhật có thể đã sửa
soạn để tiến tới.
Theo sau chuyến du
hành sang Nhật Bản, là sự thừa nhận của Mỹ
dành cho Trung Quốc – một hành vi được chấp
thuận bởi Đông Kinh. Hoa Kỳ, âm thầm ủng hộ
các sự chuyển động của chính pghủ Fukuda tiến
đến việc ký kết một hiệp ước với
Trung Quốc, bị nhìn bởi một số quan sát viên ở
Đông Á là đang di chuyển đến một quan điểm
gia nhập vào một mối quan hệ tam phương với
Trung Quốc và Nhật Ban chống lại Liên Bang Sô Viết.
Nhưng không có công luận hay quan điểm chính thức
nào của Nhật Bản hay Mỹ là sẵn sàng nhiều
hơn một “liên hiệp nguyên sơ” với các tình huống
thuận lợi nhất giữa ba nước vào lúc đó
– một tình trạng không thay đổi gì cả.
Họ Đặng
có thể rời Nhật Bản hồi Tháng Mười kỳ
vọng rằng, với thời gian trôi qua, phía Nhật Bản
sẽ ngả gần hơn về phía Trung Quốc và ủng
hộ một số mục đích chính sách ngoại giao của
Bắc Kinh, đặc biệt các mục đích cấp miền.
Từ đò, sau cuộc thăm viếng của ông tại
Hoa Kỳ, ông đã quay trở lại Tokyo một lần nữa
trong Tháng Hai 1979 để tóm lược với tân thủ
tướng Nhật Bản, ông Ohira Masayoshi, về chuyến
viếng thăm đó, thông báo cho ông Ohira rằng Trung Quốc
đang cứu xét việc hành động đánh Việt
Nam, và để toan tính giành được sự ủng hộ
của Nhật Bản cho các hành động đó. 18
Tokyo đã từng mau chóng chỉ trích các hành động của
Việt Nam hồi Tháng Một chống lại Kampuchea,
đã tiếp tục thừa nhận chế độ Pol
Pot và còn cắt giảm cả sự cam kết ngoại viện
của nó cho Hà Nội; tuy nhiên, trong tinh thần của chính
sách ngoại giao “trong mọi chiều hướng:
omni-directional”, chính phủ Ohira đã không tán thành các kế
hoạch của Trung Quốc nhằm “dạy cho Việt Nam
một bài học”. Họ Đặng tái xác định các
lời cảnh cáo của ông về Việt Nam trong một
ngôn ngữ rất nặng nề -- lời lẽ mà các chủ
nhà Nhật Bản đã cố gằng làm ôn hòa hơn nhung
không thành công, ngay cả trong khi họ đã biểu lộ
sự thận trọng về các ý định trong
tương lai của Trung Quốc tại Đông
Dương.
Trong cuộc gặp
gỡ của ông ta với Thủ Tướng Ohira hôm 7
Tháng Hai, họ Đặng được tường thuật
đã cho hay rằng “Việt Nam phải bị trừng phạt
vì hành động bành trướng chủ nghĩa của
nó tại Căm Bốt …hành động vốn được
xúi bẩy bởi Liên Bang Sô Viết”. Ohira có nói “ông hy vọng
Trung Quốc sau hết sẽ chia sẻ với quan điểm
của Nhật Bản rằng [các cuộc xung đột tại
Đông Dương] phải được giải quyết
một cách hòa bình”. Trong một cuộc gặp gỡ riêng
biệt, Ngoại Trưởng Nhật Bản Sonoda Sunao được
tường thuật có nói với đối tác Trung Quốc
của ông, Huang Hua (Hoàng Hoa), “rằng Trung Quốc không nên
dùng vũ lực để giải quyết sự tranh chấp
biên giới của nó với Việt Nam … Nhật Bản muốn
nhìn thấy Trung Quốc hành động với sự thận
trọng”. 19 Hơn nữa, trong các cuộc gặp
gỡ riêng tư, họ Đặng đã tấn công “chủ
nghĩa bá quyền” của Sô Viết khá mạnh mẽ,
nhưng các nhận xét này đã “được giữ kín bởi
các viên chức”. 20
Trong khi phía Nhật
Bản biểu lộ sự không an tâm về các ý kiến của
họ Đặng nhiều hơn phía Mỹ, giống
như người Mỹ, họ đã không quở trách ông
ta một các công khai hay tự mình tách xa một cách rõ rệt
với các nhận định này. Tuy nhiên, họ cảnh
giác hơn về việc bị ràng buộc một cách quá
chặt chẽ với “chủ trương chống bá quyền”
công khai của họ Đặng, chính vì thế, tìm cách né
tránh việc làm trầm trọng hơn các quan hệ với
Liên Bang Sô Viết.
Tuy nhiên, họ Đặng
đã quay về Trung Quốc tin tưởng rằng ngay dù
nếu ông đã không có được sự ủng hộ
mạnh mẽ cho các chính sách quân sự của Trung Quốc
đối với Việt Nam, sẽ chỉ có ít sự chỉ
trích được đưa ra từ phía Nhật Bản,
và còn ít hơn nữa từ phía Mỹ, một khi cuộc
xung đột bùng nổ. Nhận thức này bị chứng
tỏ hoàn toàn sai lầm.
Từ đó, vào lúc
họ Đặng trở về Bắc Kinh với sự
đón tiếp một anh hùng hôm 8 Tháng hai, 21 bằng
chứng trước đó khiến ta mạnh mẽ
nghĩ rằng giới lãnh đạo Trung Quốc, và đặc
biệt họ Đặng, có thể đã cảm thấy
rằng Hoa Kỳ sẽ im lặng về việc “dạy
cho một bài học” được đề xướng
bởi Trung Quốc, và rằng Nhật Bản có thể làm
theo đúng như thế. Sự kỳ vọng này đại
diện cho một cảm giác bị phóng đại về
tác động của sự thành công của cuộc
thăm viếng của họ Đặng tại Hoa Kỳ
và không đếm xỉa đến các sự ngờ vực
được biểu lộ một cách công khai của Tổng
Thống Carter về hành động đó, không lâu sau khi họ
Đặng rời bước. Tuy nhiên, phía Trung Quốc có
thể đã cảm thấy rằng họ có thể giành
đạt được sự ủng hộ cho các hành
động của họ trong một số giới người
Mỹ và Nhật chống lại Sô Viết và sự trung lập
công khai của các chính phủ Nhật Bản và Mỹ. Sự
kỳ vọng này được chứng tỏ là ít có
căn cứ. Tình trạng này thì hoàn toàn không may mắn khi
đối chiếu với bối cảnh của các quan hệ
giữa Sô Viết và Trung Quốc.
Tuy nhiên các quan hệ
không dễ chịu giữa Moscow và Bắc Kinh có thể
đã xuất hiện vào lúc đầu năm 1978, đến
cuối năm chúng đã trở nên tồi tệ hơn một
cách đáng kể. Các quan hệ song phương, nhà nước
với nhà nước còn rất xấu. Tuy nhiên, mối
quan hệ đã tệ hại hơn bởi một mặt
có sự chỉ trúch gay gắt của Trung Quốc đối
với các hoạt động toàn cầu của Sô Viết,
và mặt khác, đặc biệt với sự phát triển
trong mối quan hệ “gọng kìm” giữa Liên Bang Sô Viết
và Việt Nam. Các lời bình luận của Trung Quốc tiếp
tục nhấn mạnh rằng ”cái gọng kìm” đã có một
ác ý trong việc kết hợp Việt Nam và Liên Bang Sô Viết
chống lại Trung Quốc. Trong khi phía Sô Viết phải
được gán cho các lời cáo buộc nặng nề về
việc ve vãn Việt Nam, một liên minh Moscow – Hà Nội
không có tính chất tiền định: sự ủng hộ
của Trung Quốc dành cho Căm Bốt, sự thu hồi
viện trợ của Trung Quốc khỏi Việt Nam, các
sự di chuyển và khiêu khích của Trung Quốc tại
biên giới Việt Nam, tất cả đã trợ lực
vào việc khích động các khuynh hướng tại Hà Nội
để xếp hàng với Liên Bang Sô Viết.
Vào lúc sự chiếm
đoạt Phnom Penh do Việt Nam hậu thuẫn xảy ra
trong tuần lễ đầu tiên của năm 1979, Việt
Nam có thể cảm thấy hoàn toàn vững tâm rằng hành
động của nó sẽ gặp phải các sự chỉ
trích bằng miệng nghiêm trọng của Trung Quốc,
nhưng Trung Quốc, lo ngại đẩy Hà Nội đến
việc viện dẫn hiệp ước mới của
nó với Moscow, sẽ không đánh liều để trả
đũa trực tiếp vào Việt Nam.
Khi cuộc xung đột
Trung – Việt sắp xảy ra, Trung Quốc chỉ có ít sự
bảo đảm – nếu có – rằng Liên Bang Sô Viết sẽ
không phản công lại Trung Quốc một khi Việt Nam
và Trung Quốc đụng độ nhau. Ngay trước
và trong suốt cuộc xung đột, Trung Quốc đã
không toan tính bằng ngôn từ để kích động
Liên Bang Sô Viết tiến tới hành động, nhưng
dường như đã không loại bỏ rằng hành
động như thế lại không có thể xảy ra. Từ
đó, trong một loạt các cuộc phỏng vấn mà tôi
đã thực hiện với một số viên chức
trung cấp thuộc Bộ Ngoại Giao Trung Quốc tại
Bắc Kinh giữa khoảng từ 18 Tháng Hai đến 6
Tháng Ba, hai chủ đề trở nên rõ ràng: (1) phía Trung Quốc
tuyên bố rằng giới lãnh đạo của họ
đã cứu xét đến các hành động khả dĩ
mà Sô Viết có thể thực hiện và, theo hàm ý, đã
không lo sợ vấn đề đó; (2) họ đã ít khởi
xướng – nếu có – việc đưa ra các nhận
định tóe lửa về phía Nga. Đặc biệt, họ
đã không đề cập đến Sô Viết như
“con gấu bắc cực” cũng như đã không chấp
nhận (hay bác bỏ) sự định tính (characterization)
của tôi về Sô Viết như một “con gấu bắc
cực bằng giấy” qua việc không thực hiện
hành động quân sự chống lại Trung Quốc trong
suốt cuộc xung đột. Tóm lại, nếu người
Nga sắp đi đến việc tấn công Trung Quốc,
Trung Quốc đã không mời gọi một cuộc tấn
công như thế bằng việc châm chọc Sô Viết.
Ngoài ra, điều này có thể là một “dấu hiệu”
cho phía Nga rằng hành động của Trung Quốc tại
Việt Nam thực sự sẽ có một bản chất hạn
chế. Chính vì thế, không cần Sô Viết làm gì nhiều
hơn việc bày tỏ ở một mức độ
thích đáng sự ủng hộ bằng miệng dành cho Hà
Nội và tiếp tục cung cấp vũ khí cho Việt Nam.
22
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét