Thứ Ba, 25 tháng 9, 2012

(2) THAM NHŨNG VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ

Nghiên Cứu Kinh Tế
Tháng 4 - 1999
  
THAM NHŨNG VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
    Trần Hữu Dũng[1]
    
II.  THAM NHŨNG: THÀNH TỐ VÀ ĐỐI SÁCH
    
Trước những hậu quả tệ hại của tham nhũng như đã trình bày ở Đoạn I, hai câu hỏi cần được đặt ra: (1) mức độ tham nhũng tùy vào những thành tố nào?  Và (2) làm thế nào để giảm bớt tham nhũng? 

1.  Ba thành tố quyết định mức độ tham nhũng

Ta có thể ba phân biệt ba thành tố quyết định mức độ tham nhũng, đó là:  động lực, cơ hội, và mức lợi của tham nhũng. 

(1) Hiển nhiên, tham nhũng chỉ có thể xảy ra khi những người ở địa vị nhận và nộp hối lộ có động lực làm việc đó. Động lực tham nhũng chính nó sẽ tùy vào ba yếu tố. Một là tính ham chuộng vật chất, hai là đạo đức cá nhân (nhất là ý thức về quyền lợi cá nhân so với lợi ích cộng đồng), và ba là cảm quan về mức độ công bình của xã hội, sự nghiêm minh của thể chế, và tác phong của những người có chức vụ cao.  Trong một xã hội vô kỷ cương, khi mà những người ở địa vị có thể làm gương cho kẻ khác lại tham nhũng, quơ quét công sản, thì càng nhiều người sẽ cho tham nhũng là “tự nhiên”, động lực không tham nhũng sẽ giảm đi.

    
(2) Thành tố thứ hai của tham nhũng là cơ hội dùng chức vụ nhà nước để ra những quyết định có lợi cho một ít người, đáp lại đút lót của những người ấy.  Cơ hội tham nhũng có thể do chính những viên chức có khuynh hướng tham nhũng tạo ra, ví dụ họ có thể làm rườm rà thêm thủ tục hành chính để có dịp chấm mút, tống tiền.   Nói chung, giao diện giữa quyền lực hành chính và lợi lộc kinh tế cá thể (thay vì cộng đồng) càng lớn thì cơ hội tham nhũng càng nhiều.  Cơ hội tham nhũng là biến số nghịch với (1) thẩm quyền tùy tiện quyết định, và (2) độ dễ phát hiện.

(3) Thành tố thứ ba của tham nhũng là mức lợi của nó. Mức lợi là tương đối, theo hai nghĩa: (a) một là, nó tùy thuộc vào mức khác biệt giữa thu nhập có tham nhũng và thu nhập không tham nhũng, (b) hai là, nó tùy thuộc vào thu nhập nếu tham nhũng được thoát và hình phạt (tù tội, tiền phạt, mất chức) nếu tham nhũng bị phát giác.  Bảo rằng thu nhập thấp nhất thiết sẽ gây tham nhũng là không đúng.  Cũng không hẳn tham nhũng sẽ giảm đi khi thu nhập bình quân là cao, bởi lẽ, trong trường hợp đó người đưa hối lộ sẽ có khả năng tăng số tiền hối lộ, tức là tăng lên mức lợi của tham nhũng.

Phải để ý là trong nhiều “dịch vụ tham nhũng” cả người nhận lẫn người nộp hối lộ đều được lợi.   Ai lợi nhiều, ai lợi ít, là tùy thuộc vào “thế thương lượng” giữa hai bên. Thế thương lượng của nguời nộp hối lộ sẽ tương đối mạnh nếu họ có cách tránh giới chức đòi hối lộ, hoặc nếu là dễ tố cáo, khiếu nại.  Ngược lại, nếu người nhận hối lộ nắm giữ những địa vị then chốt thì thế đòi tiền hối lộ sẽ lớn hơn.

Nhìn hiện trạng một số nước đang chuyển đổi (và có thể là đã khá phát triển), có người đặt câu hỏi: tại sao tham nhũng đặc biệt trầm trọng trong thời kỳ chuyển đổi từ một kinh tế tập trung sang một nền kinh tế thị trường?  Người viết bài này có ý kiến như sau. Trong thời kỳ cũ, khi khu vực quốc doanh còn rộng thì tất nhiên là đa số những người có khả năng, năng động là nằm trong khu vực đó, tức là làm công chức cán bộ nhà nước.  Khi nền kinh tế chuyển đổi sang thị trường thì một số những người này, vừa có năng lực, lại vừa có cơ hội làm ăn kinh doanh trong khu vực tư, không cưỡng nổi sự cám dỗ lạm dụng những thông tin mà họ có được qua nhiệm chức, hoặc mạng lưới những ngưòi quen biết trong chính quyền, để làm ăn kinh doanh.   Nhìn một cách khác, trong giai đoạn chuyển tiếp, một mặt thì giao diện giữa những hành chính công quyền và hoạt động kinh tế còn rộng, mà mặt khác thì thu nhập do các hoạt động thị trường cũng đã tăng nhanh.  Hậu quả là, cơ hội hối mại quyền thế vẫn còn lớn, mà người làm giàu nhờ tham nhũng dễ ngụy trang những thu nhập bất chính của mình qua những hoạt động thương mại thị trường.  Đó là nhũng lý do tại sao tham nhũng trong thời kỳ chuyển tiếp là đặc biệt trầm trọng.


2.  Một số biện pháp đối phó với tham nhũng

Biện pháp đối phó với tham nhũng có thể chia ra ba nhóm, tương ứng với ba thành tố tham nhũng:  động lực, cơ hội, và mức lợi.

(1) Giảm Động Lực Tham Nhũng

Không có biện pháp chống tham nhũng nào quan trọng hơn làm kềm hãm động lực tham nhũng, và có thể chỉ thực hiện được điều đó khi cấp lãnh đạo tuyệt đối thanh liêm trong sạch.

(2) Giảm Cơ hội Tham Nhũng

      (a) Làm đơn giản, hợp lý hoá, lấp những lỗ hổng trong luật thuế, công khai hoá mức thuế, kiện toàn cơ cấu kiểm tra bộ máy thu thuế.  Tránh đặt quá nhiều loại lệ phí.  Chấn chỉnh guồng máy quản lý tài chính, kế toán, kiểm tra của nhà nuớc, nhất là trong cơ quan liên hệ đến quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước. Chấm dứt độc quyền và đặc quyền.  Chấm dứt kiềm chế giá cả.

      (b) Cơ hội tham nhũng sẽ đương nhiên giảm khi toàn bộ cơ cấu hành chính và kinh tế được trong suốt hoá.  Khi cải cách thủ tục hành chánh phải đặt câu hỏi: sắp xếp ra sao thì ít có cơ hội tham nhũng?  Phổ biến rộng rãi ngân quỹ chi tiết của từng dự án. Công tác soạn thảo các định luật thiết lập thể chế (nhất là các quyết định về thuế) cần phải công khai, có sự bàn bạc, góp ý của các chuyên gia trong lẫn ngoài các cơ quan liên hệ.   Mọi quyết định đều phải công khai.  Khi thẩm định các đề án đầu tư xây dựng, chúng ta phải so sánh cơ hội tham nhũng của từng dự án. Nên để ý, vì tất cả mọi hoạt động kinh tế xã hội đều có liên hệ qua lại với nhau, giảm cơ hội tham nhũng trong lĩnh vực này có thể sẽ gây thêm cơ hội tham nhũng ở lĩnh vực khác. Thu nhỏ nền "kinh tế ngầm" (các hoạt động kinh tế không khai thuế) vì khu vực này càng lớn thì hiệu năng của đòn bẩy thuế má càng yếu.

Theo kinh nghiệm nhiều nước, tham nhũng sẽ giảm đi nếu các viên chức trong công tác dễ tham nhũng làm việc cặp.  Nên thuyên chuyển thưòng xuyên (tuy nhiên, có người cho rằng biện pháp này có thể làm tăng tham nhũng vì các viên chức sẽ cố gắng hối lộ thật nhiều trước khi bị thuyên chuyển).  Phải có một cơ chế hữu hiệu để người dân tố cáo tham nhũng.

Dù trên thực tế thì tổng thù lao (lương căn bản cộng với các phụ cấp ngoại ngạch hợp pháp, chính thức cũng như không chính thức) của số lớn công chức cán bộ hiện nay không là quá thấp so với khu vực tư, chế độ lương bổng cần phải sửa đổi. Những khoản phụ cấp ngoại ngạch là chỗ mà tham nhũng dễ nảy nở (đó là không nói đến việc nhà nước sẽ mất thuế thu nhập vì những mối thu nhập ngoại ngạch này ít khi được khai báo).  Nên chính thức hoá những loại phụ cấp này.

(3) Giảm Lợi của Tham Nhũng

Như đã nói ở trên, lợi của tham nhũng là lợi tương đối: so với tình trạng không tham nhũng, cũng như so với những hình phạt nếu tham nhũng bị phát giác.  Như vậy, để giảm tham nhũng ta phải giảm chênh lệch thu nhập giữa tham nhũng và không tham nhũng, và tăng hình phạt tham nhũng.

Tuy rằng nâng cao mức sống công chức cán bộ có thể thực hiện ở nhiều mặt, trong một nền kinh tế thị trường thì nó gần như là đồng nghĩa với tăng lương.[10] Điều này dễ lý giải trong mô hình kinh tế: lương càng cao thì người tham nhũng sẽ mất mát nhiều hơn nếu tham nhũng bị phát giác.[11] Tăng lương cho công chức cán bộ không chỉ để các công chức cán bộ hiện tại không bị tham nhũng quyến rũ, nhưng còn để thu hút vào khu vực công những người thanh liêm và có năng lực.  Nếu lương công chức cán bộ là quá thấp so với khu vực tư thì khu vực công chỉ là hấp dẫn đối với những thành phần xem quyền chức là cơ hội tham nhũng. 

Tuy nhiên, cũng cần nghĩ đến vài hậu quả phức tạp của việc tăng lương cho công chức cán bộ.  Một là, không phải cơ hội tham nhũng của mọi công chức cán bộ đều ngang nhau.  Nếu chỉ tăng lương cho những ngành có cơ hội tham nhũng thì có là bất công cho những ngành không có cơ hội tham nhũng chăng? Hai là, tăng lương cho công chức cán bộ đủ cao để họ không kiếm chác thêm thì lại khiến nhiều người chạy chọt đút lót để có những chức vụ đó. Ba là, tăng lương cán bộ có thể gây ra lạm chi ngân sách và những hậu quả vĩ mô của nó.

Đối tượng của các biện pháp chống tham nhũng phải là (i) người nhận hối lộ cũng như người nộp hối lộ, (ii) giảm thu nhập do tham nhũng cũng như tăng hình phạt cho tham nhũng.  Theo kinh nghiệm nhiều nước, các biện pháp chống tham nhũng nhắm vào người đi đút lót (hoặc làm trung gian) có thể có hiệu quả hơn nhắm vào người nhận đút lót.
     
Phải triệt để bảo vệ những người có can đảm tố cáo tham nhũng (có bằng cớ). Khuyến khích các phương tiện truyền thông điều tra tham nhũng (một cách có trách nhiệm). Đặc biệt trừng phạt nặng nề những tham nhũng mà đối tượng là người có thu nhập thấp, hoặc những chương trình xã hội xoá đói giảm nghèo (đề nghị gần đây của phái đoàn Ngân hàng Thế giới ở In-đô-nê-xia)



III. THAM NHŨNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ KINH TẾ KHÁC

Tuy rằng hầu như mọi người đều nhất trí về các thành tố gây tham nhũng và những biện pháp bài trừ tham nhũng trình bày ở Đoạn II trên đây, ý kiến có nhiều chổ không tường tận và bất đồng đối với liên hệ giữa tham nhũng và những vấn đề kinh tế khác. Đoạn III này sẽ bàn đến bốn đề tài đương đại: (1) Tham nhũng và kinh tế thị trường, (2) tham nhũng và sự chọn lựa công cụ điều tiết, (3) tham nhũng và phát triển, và (4) tham nhũng trong một nền kinh tế mở.

1. Tham nhũng và kinh tế thị trường

Kinh tế thị trường là giải pháp hay nguyên nhân của tham nhũng?   Có hai quan điểm.

(1) Theo một quan điểm[12] thì, nếu không bị kiềm chế, cơ cấu thị trường tự nó sẽ thanh lọc các cơ hội mờ ám, khử trừ chỗ dung thân của tham nhũng.   Nói cách khác, thị trường là giải pháp cho tệ nạn tham nhũng.  Quan điểm này lấy chủ nghĩa tư bản thị trường làm gốc, xem bản năng con người là vị kỷ, luôn tìm mọi cách để thủ lợi cho bản thân.  Nó khẳng định nhà nước không thể uốn biến động lực vị kỷ của con người, chỉ có thể thay đổi cơ hội và mức lợi của tham nhũng.  Người có quan điểm này cho rằng cơ chế thị trường thông thoáng trong một xã hội kiên cố pháp trị sẽ làm giảm lợi lộc của tham nhũng.  Một là, nếu như không còn hành chánh quan liêu thì độc quyền sẽ ít đi, đặc lợi sẽ hạ thấp.  Hai là, nếu bị trừng trị nặng nề thì cái "giá phí cơ hội" của tham nhũng sẽ là rất cao so với những hoạt động làm ăn hợp pháp.  Tóm lại, tin tưởng tuyệt đối vào hiệu lực thị trường, quan điểm này vừa phủ nhận vai trò của nhà nước trong kinh tế, vừa khẳng định tham nhũng là tất nhiên trong một chế độ mà nhà nuớc còn can thiệp vào các hoạt động kinh tế.

(2) Theo quan điểm thứ hai thì tham nhũng là hậu quả của tình trạng đạo đức suy đồi, kỷ cương lỏng lẻo.  Nói cách khác, tham nhũng phát sinh từ động lực của con người. Đi xa hơn, nhiều người có quan điểm này còn cho rằng chính kinh tế thị trường, qua sự thúc đẩy tinh thần vị kỷ, thực dụng của nó, đã gây ra sự suy đồi đạo đức đó.

■ Phải nghĩ sao về hai quan điểm này? 

Tạm gạt vấn đề tham nhũng qua một bên, ngay trong một nền kinh tế đã phát triển, thị trường đã mở mang, có nhiều lĩnh vực mà sự can thiệp của nhà nước là cần thiết, nhất là trong những lĩnh vực kinh tế nhiều ngoại ứng (externalities).[13]  Nói cách khác[14]những người khẳng định rằng cơ chế thị trường sẽ làm giảm tham nhũng có lẽ đã quên những chỗ yếu của cơ chế đó (nhất là về mặt công bằng xã hội).  Song, lý luận ngược lại, cho rằng phải chấp nhận tham nhũng vì điều tiết là cần thiết cũng không đúng, vì hai lý do. Một là, không phải bất cứ nơi đâu và lúc nào thì mức độ tham nhũng cũng tăng giảm cùng chiều với mức độ can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế.  Nó còn tùy vào nhiều biến số khác như môi trường xã hội, luật pháp, thời điểm và khâu đoạn phát triển.  Hai là, bởi lẽ tham nhũng làm rệu rã tính cộng đồng, xói mòn sự nể trọng uy quyền nhà nước, chính nó sẽ làm vô hiệu hoá các biện pháp quản lý và điều tiết kinh tế   Như vậy, quan điểm thứ nhất thiếu một cái nhìn toàn bộ về năng lực của thị trường cũng như vai trò nhà nước trong hoạt động kinh tế

Quả có đúng là một nhược điểm của cơ chế thị trường là nó chỉ khuyến khích những hoạt động có lợi ích cho bản thân cá nhân, và không khuyến khích những hoạt động chỉ có lợi ích cho cộng đồng.  Do đó, trong công tác chống tham nhũng, hiệu năng của những biện pháp mà mục đích là nhằm giảm đi động lực tham nhũng sẽ càng thấp khi mức độ thị trường hoá của nền kinh tế càng cao.   Nói cách khác, nhiều biện pháp chống tham nhũng (ví dụ như cổ vũ kiên trì đạo đức, hồi phục truyền thống cách mạng) có hiệu quả ở một khâu đoạn này của quá trình thị trường hoá có thể sẽ không còn hiệu quả ở một khâu đoạn khác của quá trình đó. Những người cực đoan tôn vinh chủ nghĩa thị trường, không chú ý đến đặc trưng lịch sử và văn hoá của một nước, cũng sẽ sai lầm như những người cho rằng quá trình thị trường hoá có thể tiến hành biệt lập và hài hoà với những đặc trưng văn hoá và lịch sử ấy.

Trong một nền kinh tế lạc hậu, pháp luật còn phôi thai, nhiều sơ hở, và cơ chế tư pháp còn thiếu cán bộ đủ trình độ, thì sự can thiệp của nhà nước vào thị trường sẽ là môi sinh của tham nhũng.  Nói khác đi, sự can thiệp đó sẽ là hữu hiệu hơn khi dân trí đã cao, định chế luật pháp (và guồng máy tư pháp) đã đầy đủ, rõ ràng, hoặc là động lực tham nhũng là yếu (tác phong đạo đức cá nhân, tinh thần cộng đồng xã hội còn mạnh).  (Trong chừng mực mà sự can thiệp này là lý do thần kỳ Đông Á vào những thập kỹ 70, 80 thì có lẽ là do yếu tố sau cùng.)

Hơn nữa , thực chứng cho thấy xã hội có thể ảnh hưởng đến tác phong con người.


2.  Tham nhũng và sự chọn lựa công cụ điều tiết kinh tế

Như đã trình bày, hoàn toàn buông thả thị trường, đình chỉ mọi can thiệp của nhà nước, trên thực tế không phải là giải pháp độc nhất hoặc tốt nhất để bài trừ tham nhũng.  Vì nhiều lý do khác nhau, sự can thiệp của nhà nước (đến một mức độ nào đó) là cần thiết. Khẳng định như vậy để đi đến một nhận định kế tiếp, đó là: khi các đòn bẫy kinh tế bị tham nhũng làm méo mó thì các biện pháp điều tiết, các chính sách kinh tế vĩ mô, chẳng những sẽ không đem lại những kết quả mong muốn nhưng còn gây ra nhiều hậu quả còn tệ hại hơn là nếu không có những biện pháp và chính sách ấy.   Nói cách khác, để sự can thiệp của nhà nước vào thị trường được hữu hiệu thì (1) phải diệt trừ tham nhũng (nhất là trong cơ chế điều tiết) hoặc là (2) chọn lựa cơ chế điều tiết ít tham nhũng (mặc dù cơ chế ấy có thể kém hiệu năng (xét theo tiêu chí kinh tế nào đó) hơn một cơ chế khác). 

Ví dụ thứ nhất: công cụ điều tiết vĩ mô tuy không có nhiều hiệu năng tinh tế như công cụ điều tiết vi mô nhưng có thể nên được chọn nếu như nó ít gây ra cơ hội tham nhũng. 

Ví dụ thứ hai: trong nhiều lĩnh vực điều tiết thì công cụ hạn ngạch (quantity control) có thể kém hiệu năng hơn công cụ giá (price control), tuy nhiên công cụ giá (qua thuế) sẽ có nhiều cơ hội tham nhũng hơn công cụ hạn ngạch, như vậy thì ta nên dùng công cụ hạn ngạch, ít nhất là cho đến khi guồng máy thuế vụ được trong sạch hơn. 

Ví dụ thứ ba: một cơ chế càng máy móc, cứng nhắc (tức là đáng tránh cho một nền kinh tế cần linh động đề phát triển) thì, oái oăm thay, thường lại là một cơ chế ít cơ hội tham nhũng (vì ít người có quyền ban ngoại lệ).[15] Cũng vậy, thoạt nhìn thì để tránh tham nhũng trong guồng máy thuế khoá, luật thuế cần phải được rõ ràng, không để cán bộ thu thuế có quá nhiều quyết định tùy nghi.  Lắm khi, giải pháp đó sẽ làm bộ máy hành chính quá cứng nhắc, không nhanh nhạy ứng biến với những tình huống cá biệt. 
    
Ví dụ thứ tư: kinh nghiệm gần đây cho thấy sự đánh đổi giữa hiệu năng kinh tế và cơ hội tham nhũng là rõ rệt nhất trong những bài toán liên hệ đến chính sách cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước (DNNN) ở các quốc gia đang chuyển đổi.  Nói thẳng ra, cổ phần hoá sẽ làm tăng hiệu năng kinh tế nhưng chính nó sẽ tạo ra nhiều cơ hội tham nhũng.  Ta nên hỏi: có biện pháp nào (ngoài cổ phần hoá các DNNN) mà cũng tăng hiệu năng kinh tế tương tự nhưng ít có hiệu ứng thứ cấp tai hại như tham nhũng?  Tối thiểu, nó bắt buộc một chuẩn bị pháp lý tươm tất trước khi bắt đầu cổ phần hóa.[16]

Trên bình diện kinh tế, đa số hoạt động chống tham nhũng (thanh tra, điều tra, công an, tư pháp) cần nhiều nhân vật lực có thể được sử dụng vào những hoạt động khác đóng góp trực tiếp hơn cho phát triển.  Tuy sự đánh đổi này sẽ không là đáng kể khi nền kinh tế còn chưa đến mức độ toàn dụng nguồn lực, nó đưa đến ba hệ luận.  Thứ nhất, vì nguồn lực bao giờ cũng có giới hạn, phải chấp nhận rằng tham nhũng sẽ không bao giờ bị tận diệt.  Thứ hai, phải cố gắng phát hiện những biện pháp chống tham nhũng dựa vào các đòn bẫy phi kinh tế, cần ít sức người, sức của.  Thứ ba, phải đặt thứ tự ưu tiên. 

Ưu tiên số một phải là bài trừ những tham nhũng có hại cho định chế và kinh tế nhất.  Những tham nhũng trong khâu giao thông vận tãi, chẳng hạn, tuy là có thể không "lớn" như những tham nhũng trong lĩnh vực ngân hàng hay các xí nghiệp quốc doanh, nhưng có ảnh hưởng rất là sâu rộng và trực tiếp đến mọi thành phần, mọi hoạt động sản xuất.  Tham nhũng dung túng những tội phạm kinh tế khác (buôn lậu, biển thủ).  Như vậy, diệt trừ tham nhũng phải thực hiện trước, hoặc ít nhất đồng thời với những hoạt động bài trừ các tệ nạn xã hội và kinh tế khác.


3. Tham nhũng và phát triển 
    
Như đã trình bày ở Đoạn I, tham nhũng có những hậu quả tiêu cực đến phân bố nguồn lực (nhất là vốn), đến chênh lệch thu nhập . . . là những yếu tố cần thiết để phát triển.  Trong chừng mực đó, hiển nhiên là tham nhũng sẽ làm chậm phát triển.  Tuy nhiên, vẫn tồn tại hai câu hỏi.  Thứ nhất, vì như đã vừa nói trên, hoạt động chống tham nhũng cần một số nguồn lực có thể đầu tư cho phát triển, liệu có thể có kịch bản nào theo đó nên dồn hết nguồn lực cho phát triển?  Thứ hai, nếu, dù có tham nhũng song, nhờ những yếu tố nào đó mà ta có được tiếp tục tăng trưởng thì liệu chính sự tăng trưởng đó sẽ làm giảm tham nhũng chăng?
    
Nhiều học giả cho rằng không thể tránh được tình trạng tham nhũng sẽ trầm trọng trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển (nhất là khi sự phát triển đó là đồng thời với sự  chuyển đổi từ kinh tế chỉ huy sang kinh tế thị trường – xem đoạn trên).  Họ lý luận rằng, một là, khi thị truờng bắt đầu bốc thì nhiều cơ hội tham nhũng sẽ nảy sinh.  Hai là, tiến trình cổ phần hoá sẽ tạo nhiều cơ hội tham nhũng.  Ba là, công chức cán bộ với đồng lương cố định dễ bị tham nhũng cám dỗ.   Ngược lại, họ lý luận, khi một nước đã phát triển và ổn định thì tình trạng tham nhũng sẽ giảm đi vì (1) thông tin sẽ nhiều hơn, và (2) "luật chơi" trở nên minh bạch hơn, (3) thu nhập có thể nâng cao được qua những hoạt động kinh tế hợp pháp.
    
Nhận định trên có nhiều điều bất cập.   Thứ nhất, nó chỉ nhìn đến hướng liên hệ từ phát triển đến tham nhũng mà không đến hướng liên hệ ngược lại: từ tham nhũng đến phát triển.  Song, như đã phân tích ở Đoạn I, tham nhũng chính nó sẽ làm suy yếu những thành tố then chốt của tăng trưởng. Hơn nữa, tăng trưởng càng chậm thì càng khó dập tắt tham nhũng.  Lý do là, khi kinh tế đang nhanh chóng tăng trưởng, cải tổ thể chế để loại trừ tham nhũng sẽ ít bị đối kháng vì đa số sẽ nhận ra rằng không cần phải tham nhũng mới làm giàu.  Do đó các biện pháp cải cách thể chế để tham nhũng mất nơi ẩn nấp tương đối còn dễ dàng.  Khi tăng trưởng trì trệ thì những cải cách thể chế có đụng chạm đến tham nhũng sẽ gặp nhiều chống đối hơn.

Thứ hai, có thể chăng liên hệ giữa tăng trưởng và tham nhũng là một chiều (từ tăng trưởng đến tham nhũng) đúng như theo nhận định này, nhưng là một liên hệ thuận, thay vì ngược?   Xin lấy một ví dụ.  Khi một nền kinh tế còn lạc hậu thì tham nhũng có thể là từ 5-10% giá trị các dự án.  Khi tăng trưởng bắt đầu bốc thì số này có thể tăng lên 15-20%.  Mà khi lợi lộc tham nhũng càng cao thì càng có nhiều giành giật (làm tiêu phí nguồn lực quốc gia) đề chia sẻ lợi lộc tham nhũng đó.  Như vậy, nguồn lực để phát triển sẽ kém đi và do đó, không chóng thì chầy, tăng trưởng sẽ chững lại vì tham nhũng.  Tham nhũng tự nó sẽ không giảm đi chỉ vì tăng trưởng mà cần có một chính sách để đối phó với nó.

Theo người viết bài này, tham nhũng có làm giảm tăng trưởng (nhất là một tăng trưởng cân đối, bền vững) nhưng phát triển cân đối, bền vững cũng sẽ làm giảm tham nhũng.  Nói gọn lại: càng nhiều tham nhũng thì càng chậm phát triển, mà càng chậm phát triển thì tham nhũng càng dây dưa.  Đó là một cái vòng luẩn quẩn.

Cuối cùng, phải nhớ rằng tăng trưởng thu nhập không bao giờ là mục tiêu duy nhất của phát triển.  Cho dù tăng trưởng thu nhập có thể xảy ra trong một xã hội tham nhũng, chênh lệch giàu nghèo sâu sắc, tệ nạn tràn lan, song khó thể nói rằng một xã hội như vậy thật sự là phát triển.
    
    
4.  Tham Nhũng Trong Một Nền Kinh Tế Mở
    
Trong một nền kinh tế mở cửa, ảnh hưởng qua lại giữa tham nhũng và đầu tư nước ngoài gây thêm nhiều khía cạnh đáng quan tâm. 

(a) Đối với những viên chức tham ô thì nền kinh tế mở có những hấp dẫn đặc biệt.  Một là, các công ty ngoại quốc có sức đưa nộp những món tiền hối lộ kếch xù, có thể gấp trăm, gấp ngàn lần những số tiền mà công ty bản xứ có khả năng đút lót.  Hai là, phần lớn tiền tham nhũng nhận được từ nước ngoài sẽ nằm lại trong các tài khoản các ngân hàng ngoài nước, ngoài vòng kiểm tra của nhà nước, và chính nó sẽ làm cơ hội tham nhũng giữa những người trong nước tăng lên (họ chỉ cần chuyển tiền từ tài khoản này sang tài khoản khác ở ngoại quốc).  Ba là, về tâm lý, nhận tiền hối lộ của người nước ngoài sẽ được cảm thấy là ít tội lỗi hơn là tống tiền của người trong nước.
         
(b) Chẳng những vậy, chính sự có mặt của các công ty nước ngoài có thể làm tham nhũng gia tăng. Các công ty ngoại quốc đã hoạt động trong nước thường đút lót để đối thủ của họ không được phép xâm nhập.  Những công ty đã hối lộ để xâm nhập vào thị trường nào đó thì sẽ có động lực hối lộ thêm để giữ các viên chức tham nhũng, ngăn ngừa cạnh tranh của các công ty khác (và sẽ tống tiền các viên chức đã nhận hối lộ).  Nhiều quốc gia không đếm xỉa đến luật pháp các quốc gia khác, ngầm khuyến khích các công ty của họ đút lót quan chức bản xứ, miễn là được mối hàng thì thôi.

(c) Những công ty (nước ngoài) có xu hướng làm ăn bằng cách đút lót là những công ty không nhiều hiệu quả kinh tế hơn những công ty muốn làm ăn chân chính.  Đầu tư nước ngoài sẽ chảy vào các xí nghiệp, dự án có nhiều móc nối, tham nhũng, hơn là phân bố theo lợi nhuận kinh tế.
    
(d) Trong xu hướng toàn cầu hóa kinh tế hiện nay, các xí nghiệp ngoại quốc rất dễ chuyển dự án đầu tư của họ từ một nước nhiều tham nhũng sang một nước ít tham nhũng.  Dù không có bằng chứng rõ ràng là tham nhũng tăng hay giảm ngoại thương,[17]theo nhiều người thì càng có ít những kiềm chế ngoại thương thì ảnh hưởng của tham nhũng càng ít.  Tuy nhiên tham nhũng sẽ làm méo mó các chính sách ngoại thương và làm chệch đi phân phối lợi ích của thương mại.


IV.  KẾT LUẬN

Giải trừ tham nhũng là yếu tố cần thiết để phát triển kinh tế (nhất là phát triển một cách cân đối, bền vững), và là một yếu tố quan trọng trong tiến trình chuyển biến cơ cấu kinh tế.  Cuộc khủng hoảng tài chính và kinh tế từ giữa năm 1997 đã cho thấy tai hại của tham nhũng: tham nhũng vừa là một trong những nguyên nhân đưa đến khủng hoảng, vừa là một trở ngại then chốt cho những giải pháp vượt qua cuộc khủng hoảng này.  Như báo cáo gần đây của một phái đoàn Ngân Hàng Thế Giới về tình trạng tham nhũng ở In-đô-nê-xia khẳng định, vấn đề tham nhũng cần được khẩn cấp đương đầu vì ba lý do.  Một là cuộc khủng hoảng kinh tế hiện nay đưa cả hàng chục triệu người vào cảnh nghèo đói.  Để đối phó với cuộc khủng hoảng này chính phủ cần được niềm tin tuyệt đối của dân chúng.  Tham nhũng sẽ đánh mất đi niềm tin đó.  Hai là, cũng chính niềm tin đó là cần thiết để chính phủ dìu dắt công cuộc chuyển biến kinh tế.  Và ba là, sự giúp đỡ của các tổ chức quốc tế sẽ không có hiệu lực nếu tham nhũng lan tràn.

Trong một nước tự hào theo xã hội chủ nghĩa như Việt Nam, tham nhũng, qua hậu quả phân hoá giàu nghèo một cách bất công của nó, là hiểm họa quan trọng đặc biệt cho chế độ.  Bởi lẽ, không giống những quốc gia tư bản mà sự công bằng xã hội không là một mục tiêu hàng đầu, bản chất của xã hội chủ nghĩa chính là sự công bằng đó.  Như vậy, sự bất bình của người dân đối với một chế độ xã hội chủ nghĩa (do chính họ đã đóng góp xương máu để xây dựng) bị tham nhũng đục khoét sẽ gấp nhiều lần hơn sự bất bình trong những chế độ khác với cùng một mức độ tham nhũng.   Như cố vấn Võ Văn Kiệt (Kiến Thức Ngày Nay số 291) đã nói:

Điều làm chúng tôi ray rứt nhất là một Đảng cầm quyền mà tham nhũng lại nằm trong bộ máy Nhà nước. Có người cho rằng tham nhũng là do cơ chế thị trường. Tôi không nghĩ như thế. Tình trạng tham nhũng như hiện nay cũng có lý do khách quan nhưng chủ yếu là do chủ quan. Cần phải có công cụ quản lý xã hội tốt, đủ mạnh và thật tập trung thì mới hạn chế được. Trước hết phải xác định Nhà nước ta phải là một nhà nước pháp quyền, ai ai cũng phải tuân thủ luật pháp. Người ở cương vị càng cao thì càng phải tuân thủ phép nước. Tham nhũng không chỉ là chuyện vi phạm luật pháp mà còn là vấn đề đạo đức, phẩm chất của người cán bộ. Chính vì vậy, theo tôi, để ngăn chặn tình trạng tham nhũng như hiện nay thì trước tiên là việc phải xử lý thật nghiêm minh theo đúng tinh thần Pháp lệnh chống tham nhũng được Nhà nước ban hành hồi đầu năm. Thứ hai là phải đẩy mạnh công việc cải tổ hành chính tránh tình trạng nhiều cửa nhiều ngành lâu nay gây phiền hà cho người dân, và thứ ba là sửa đổi ngay một số văn bản luật pháp không còn phù hợp. Để góp phần hạn chế tình trạng tham nhũng, chúng ta còn cần phải làm sao cho đồng lương của công nhân viên chức có thể đảm bảo cho nhu cầu cuộc sống của gia đình. Muốn vậy, phải ra sức sắp xếp bộ máy hành chính tinh gọn, tránh những việc chi tiêu lãng phí, nhằm tạo điều kiện để cải thiện mức sống của đội ngũ cán bộ, viên chức.


Trần Hữu Dũng
Tháng 12, 1998

 

Chú thích
                                           
      [1]Department of Economics, Wright State University, Dayton, Ohio 45435, USA
      [2]Cũng vì lẽ đó, ở các quốc gia nhiều tham nhũng, mức đầu tư của nhà nước vào lĩnh vực xã hội, giáo dục và y tế thường là thấp hơn, và vào những công trình xây cất thường là cao hơn, mức đáng có.
      [3]Nhờ đút lót, nhiều thành phần không đủ điều kiện cũng nhận phụ cấp của nhà nước, nhiều công trình vô ích cũng sẽ đuợc chấp thuận thực hiện ...
      [4]Nhiều người cho rằng một phần cội rễ những cuộc khủng hoảng tài chính gần đây ở Đông Á và Đông Nam Á là tình trạng tham nhũng ở các nước này.
      [5]Như một bài trong báo Nhân Dân (13/7/98) gần đây nhận xét: "Nếu ở đâu, người muốn vào biên chế Nhà nước phải chạy chọt, mua "ghế", thì khi đã đuợc ngồi vào ghế rồi, họ sẽ kiếm chác, tham nhũng để "thu hồi vốn" và không có ý thức coi trọng danh dự công chức Nhà nước"
      [6]Tirole (1996) phân tích một mô hình kinh tế trong đó một người thanh liêm đuợc bổ nhiệm vào một nhiệm sở có "truyền thống tham nhũng" không chóng thì chày cũng sẽ tham nhũng.
      [7]Xem mô hình Cadot (1987), Andvig và Moene (1990)
      [8]Đặc biệt là Leff (1964).
      [9]Theo thuật ngữ kinh tế học hiện đại, đây là hậu quả của tình trạng "thông tin không đối xứng" (asymmetric information).
      [10]Xem thêm chi tiết trong Van Rijckeghem và Weder (1997)
      [11]Xem bài  của Cadot và những tài liệu dẫn chứng trong đó. Nhìn qua tiếp cận này, cũng phải có phần thưởng đặc biệt cho những công chức cán bộ thanh liêm cả đời, đó là cho họ có hưu bổng cao.
      [12]Tiêu biểu là các khuyến nghị của nhiều tổ chức quốc tế như Ngân Hàng Thế Giới (World Bank), Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế (IMF), Tổ Chức Hợp Tác và Phát Triển Kinh Tế (OECD)
      [13]Theo kinh tế học, dù thị trường có hoạt động thật trôi chảy, nó cũng không phân bố tài nguyên một cách tối hảo nếu một vài hoạt động sản xuất hoặc tiêu dùng có “ngoại ứng”, tức là gây ra lợi ích hoặc phí tổn cho những người ngoài kẻ mua hoặc bán hàng hoá hay dịch vụ liên hệ.
      [14] Xin xem, chẳng hạn như, Bardhan (1997).
      [15]Theo Schleifer và Vishny thì sở dĩ ở Liên Xô (cũ) không có nhiều tham nhũng như Nga Sô ngày nay là nhờ kỷ cương của Đảng Cộng Sản lúc đó.  Song, ai nấy đều biềt, sự phung phí nguồn lực, kém hiệu năng của nền kinh tề chỉ huy ở Liên Xô (cũ) đã ra thế nào rồi.
      [16]Cũng cần nói thêm là tiến trình tư hữu hóa, khi chính nó không bị tham nhũng và làm xí nghiệp hoạt động hiệu quả hơn, có thể có hại cho cả nền kinh tế nếu xí nghiệp tư doanh kế tục sẽ có nhiều độc quyền kinh tế.
      [17]Xem Kimberly Ann Elliott (1997).
     

 

THAM KHẢO
    
Andvig, Jens Christopher, và Moene, Karl O., 1990, "How Corruption May Corrupt" (Cách Tham Nhũng Gây Tham Nhũng),Journal of Economic Behavior and Organization, Tháng Giêng, Bộ 13, Số 1, tr. 57-94.
    
Bardhan, Pranab, 1997, "Corruption and Development: A Review of Issues," (Tham Nhũng và Phát Triển: Duyệt các Vấn Đề) Journal of Economic Literature, Tháng Chín, Bộ 35, Số 3, tr. 1320-1346.
    
Cadot, Oliver, 1987, "Corruption as a Gamble," (Tham Nhũng như là một Canh Bạc), Journal of Public Economics, Tháng Bảy, Bộ 33, Số 2, tr. 223-244.
    
Chand, S.K., và Moene, K.O., 1997, "Controlling Fiscal Corruption," (Kiềm Chế Tham Nhũng Thuế Má), Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế WP/97/100
    
Đào Trí Úc, 1997, "Tham Nhũng: Nhận Diện Từ Các Khía Cạnh Pháp Lý và Cơ Sở Pháp Lý Mới," Tạp Chí Cộng Sản, Tháng Hai, Sồ 4, tr. 24-28.
    
Elliott, Kimberly Ann, 1997, Corruption and the Global Economy (Tham Nhũng và Nền Kinh Tế Toàn Cầu), Washington D.C.: Institute of International Economics.
    
Huntington, Samuel P., 1968, Political Order in Changing Societies (Trật Tự Chính Trị trong các Xã Hội Đang Biến Đồi), New Haven: Yale University Press.
    
Lê Xuân Lựu, 1997, "Vì Sao Chống Tham Nhũng Không Hiệu Quả?", Tạp Chí Cộng Sản, Tháng Ba, Số 5, tr. 37-40.
    
Leff, Nathaniel H., 1964, "Economic Development through Bureaucratic Corruption," (Phát Triển Kinh Tế qua Tham Nhũng Quan Liêu) The American Behavioral Scientist, Tháng Mười Một, Bộ 8, Số 2, tr. 8-14.
    
Marshall, Katherine, 1998, “Combating Corruption in Indonesiaà Aide Memoire of the World Bank Team, September 13-20, 1998,”Wall Street Journal October 23, 1998.

Murphy, Kevin M.; Schleifer, Andrei và Vishny, Robert W., 1993, "Why is Rent-Seeking So Costly to Growth?" (Tại Sao Hoạt Động Tìm Tô Quá Có Hại Cho Tăng Trưởng?) American Economic Review, Tháng Năm, Bộ 82, Số 2, tr. 409-14.
    
Mauro, Paolo, 1995, "Corruption and Growth," (Tham Nhũng và Tăng Trưởng) Quarterly Journal of Economics, Tháng Tám, Bộ 11, Số 3, tr. 681-712.
    
Mauro, Paolo, 1998, "Corruption:  Causes, Consequences, and Agenda for Further Research," (Tham Nhũng: Nguyên Nhân, Hậu Quả, và Chương Trình Nghiên Cứu Thêm), Finance and Development, Tháng Ba, tr. 11-14.
    
Mookherji, Dilip, và Png, I.P.L., 1995, "Corruptible Law Enforcers: How Should They be Compensated," (Những quan chức tư pháp có thể tham nhũng: Làm sao Đền bù họ?) Economic Journal, Tháng Giêng, Bộ 105, Số 428, tr. 145-159.
    
Myrdal, G., 1968, Asian Drama (Thảm Kịch Châu Á), Quyển 2, New York: Random House.
    
Nguyễn Ngọc, 1995, "Vấn Đề Đạo Đức Trong Chống Tham Nhũng," Tạp Chí Cộng Sản, Tháng Chín, Số 12, tr. 55.
    
Tanzi, Vito, 1995, "Corruption, Government Activities, and Markets," (Tham Nhũng, Hoạt Động Nhà Nước, và Thị Trường," trong The Economics of Organized Crime (Kinh Tế Học Về Tội Phạm Có Tổ Chức) do Gianluca Fiorentini và Sam Peltzman chủ biên, Cambridge: Cambridge University Press.
    
Tanzi, Vito, và Davoodi, Hamid, 1997, "Corruption, Public Investment, and Growth," (Tham Nhũng, Đầu Tư Công, và Tăng Trưởng), Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế WP/97/139.
    
Tirole, J., 1996, "A Theory of Collective Reputation," (Một lý thuyết về uy tín tập thể), Review of Economic Studies, Tháng Giêng, Bộ 63, Số 1, tr. 1-22.
    
Ul Haque, Nadeem, và Sahay, Ratna, 1996, "Do Government Wage Cuts Close Budget Deficits? Costs of Corruption," (Nhà Nước Giảm Lương Thì Có Thu Hẹp Lạm Chi Ngân Sách Không? Những Phí Tổn Của Tham Nhũng), IMF Staff Papers, Tháng Chạp, Bộ 43, Số 4, tr. 754-773.
    
Viscusi, W. Kip; Vernon, J., và Harrington, J. E., 1995, Economics of Regulation and Antitrust (Kinh tế học về Điều Tiết và Chống Tờ rớt), Tái Bản Lần 2, Cambridge: MIT Press.

 

CHỈ SỐ VÀ THỨ HẠNG THAM NHŨNG Ở MỘT SỐ NƯỚC[r]
 (Theo sự thăm dò ý kiến của tổ chức Transparency International)
     

Hạng
Quốc gia
Chỉ số năm 1997
Chỉ số năm 1996
1
Đan Mạch
9,94
9,33
2
Phần Lan
9,48
9,05
3
Thụy Điển
9,35
9,08
Niu Di Lân
9,23
9,43
5
Canada
9,10
8,96
6
Hoà Lan
9,03
8,71
7
Na Uy
8,92
8,87
Oxtralia
8,86
8,60
9
Xingapo
8,66
8,80
10
Luxembourg
8,61
 --
11
Thuỵ Sĩ
8,61
 8,76
12
Ai-rơ-len
8,28
8,45
13
Đức
8,23
 8,27
14
Anh
8,22
8,44
15
Ixraen
7,97
7,71
16
Mỹ
7,61
7,66
17
Austria
7,61
7,59
18
Hồng Công
7,28
7,01
19
Portugal
6,97
6,53
20   
Pháp
6,66
6,96
21
Nhật
6,57
7,05
22   
Costa Rica
6,45
--
23
Chile
6,05
6,80
24
Spain
5,90
4,31
25
Hi Lạp
5,35
5,01
26
Bỉ
5,25
6,87
27
Cộng Hoà Séc
5,20
5,37
28
Hungary
5,18
4,86
29
Ba Lan
5,08
5,57
30
I ta lia
5,03
3,42
31
Đài Loan
5,02
4,98
32
Ma lai xia
5,01
5,32
33
Nam Phi
4,95
5,68
34
Hàn Quốc
4,29
5,02
35
Uruguay
4,14
--
36
Brazil
3,56
2,96
37
Romania
3,44
--
38
Turkey
3,21
3,54
39
Thái Lan
3,06
3,33
40   
Phi Lip Pin
3,05
2,69
41
Trung Quốc
2,88
2,43
42
Ác hen ti na
2,81
 3,41
43
Việt Nam
2,79
--
44
Venezuela
2,77
2,50
45
Ấn Độ
2,75
2,63
46
In đô nê xia
2,72
2,65
47
Mê hi cô
2,66
3,30
48
Pakistan
2,53
1,00
49
Nga
2,27
2,58
50
Co lom bia
2,23
2,73
51
Bô li via
2,05
3,40
52
Nigeria
1,76
0,69

       [r]Hạng 1 (Đan Mạch) là ít tham nhũng nhất, v.v. 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét