Chủ Nhật, 23 tháng 9, 2012

(1) VIỆN HÀN LÂM VÀ DANH HIỆU VIỆN SĨ: Viện Hàn lâm


1) Hàn lâm viện ở Trung Hoa và ở Việt Nam thời xưa
       Theo từ điển Từ  hải, chữ  hàn翰 (trong Hàn lâm viện翰 林 院) vốn có nghĩa là một loai gà núi đẹp, gọi là cẩm kê, dịch sang tiếng Việt là “gà gấm”. Về sau, chữ hàn 翰này còn có nghĩa là cái lông chim dài và cứng. Ngày xưa, ở châu Á cũng như ở châu Âu, người ta dùng những chiếc lông chim dài và cứng để làm bút viết, do đó, chữ hàn翰 lại có nghĩa là cái bút, và còn có thêm vài nghĩa khác nữa. Trong từ hàn lâm翰林thì hàn 翰 nghĩa là bút, lâm 林nghĩa là rừng; hàn lâm 翰 林có nghĩa đen là rừng bút, nghĩa bóng là văn đàn, là chốn tinh hoa về học thuật.
      Thời nhà Đường, năm Khai Nguyên thứ 26 (738), Đường Huyền Tông tuyển mộ các  triều thần “văn hay chữ tốt” để soạn thảo các chiếu chỉ, mệnh lệnh, từ  đó  sinh ra chức  quan Hàn lâm học sĩ (gọi tắt  là  Hàn lâm) và Hàn lâm viện, mà ngày nay chúng ta gọi là Viện hàn lâm. Thời Tống, quan Câu đương Hàn lâm viện (tức là chủ quản Hàn lâm viện) còn kiêm quản thiên văn, thư nghệ, đồ họa, y dược và cả việc bếp núc trà rượu của triều đình. Nhà Nguyên lập Hàn lâm học sĩ viện, về sau hợp với Quốc sử viện, gọi là Hàn lâm kiêm quốc sử viện. Thời Minh, Hàn lâm viện chính thức trở thành cơ quan ngoại vi của triều đình. Thời nhà Thanh, Hàn lâm viện vẫn đảm nhiệm việc biên soạn quốc sử, ghi chép lời nói và việc làm của hoàng đế, giảng kinh sử, thảo văn kiện có liên quan đến các quy định về lễ nghi.
      Theo sách Lịch triều hiến chương loại chí  (phần Quan chức chí) do Phan Huy Chú biên soạn thì ở  Việt Nam, Hàn lâm viện được thành lập từ năm 1086, thời vua Lý  Nhân tông, với  Mac Hiển  Tích là vị Hàn lâm học sĩ đầu tiên. Nhà Trần đặt chức Hàn lâm phụng chỉ để soạn thảo các chiếu chỉ thay nhà vua, thường do thái sư đảm nhiệm. Nhà Lê khi mới dựng nước cũng lập ngay Hàn lâm viện, do Nguyễn Trãi làm  Hàn lâm phụng chỉ.
       Phan Thanh Giản (1796 – 1867), vị tiến sĩ đầu tiên của đất Nam Kỳ, lúc mới đỗ đạt đã từng giữ chức Hàn lâm viện biên tu rồi thăng lên chức Hàn lâm viện kiểm thảo, thời  vua Minh Mệnh
        Nói tóm lại, dù là ở Trung  Hoa hay ở Việt Nam, Hàn lâm viện là nơi tập trung những người có học vấn cao để thực hiện những công việc liên quan đến sách vở, trứ tác.
       Từ “Hàn lâm viện” trong  Hán  ngữ được dịch sang tiếng  Latin là Academia (xuất hiện năm 1508 -  theo từ điển  Robert), tương ứng với Academy, Académie, Академия  trong các thứ tiếng Anh, Pháp và  Nga (chữ Академия  được phiên âm là Akademiya). Điều đó cũng được thể hiện trong Từ điển Annam -Latin (Dictionarium Anamitic - Latinum) của A.J.L. Taberd (in năm 1838).
    
2) Về các chữ Académie, Academy, Akademiya (trong tiếng Pháp, Anh, và Nga, tương ứng với Academia trong tiếng  Latin, với nghĩa là Viện học thuật )

     Trong cuốn Pháp – Việt từ điển (ra đời năm 1936) của cụ  Đào  Duy Anh, ở mục từ Académie, chúng ta thấy những lời dịch như sau:
    1. Cái vườn mà  Platon giảng triết học ở đó, gần thành Athènes;
    2. Quốc gia học hội, bác-học-viện, hàn-lâm-viện, đại học hiệu, đai học khu.
    3. Du kỹ trường, thể dục trường, như trường kỵ mã, trường đấu kiếm; 
    4. Bức họa người cổi truồng, khỏa thân họa.
Sau đó, tác giả nêu một số ví dụ:
    -.  Académie francaise: Pháp quốc hàn lâm viện (nay ta gọi là Viện hàn lâm Pháp)
    -  Académie des sciences: Khoa học viện (nay nên gọi là Viện hàn lâm khoa học Pháp)
    -  Académie des inscriptions et belles-lettres: Bi ký mỹ văn học viện ( =Viện HL Bi ký và Mỹ văn)
    -  Académie des sciences morales et politiques:  Luân lý chính trị học viện
    -  Académie des beaux-arts: Mỹ thuật viện (có thể gọi là Viện hàn lâm nghệ thuật)
    -  Académie de médecine; Y khoa học viện (có thể gọi là Viện hàn lâm Y học)
    -  Académie d’agriculture: Nông phố học viện.( có thể gọi là Viện hàn lâm nông học)
       (Bên cạnh tên của các cơ quan này đều có chữ Hán, chúng tôi xin phép bỏ bớt  – LMC)

     Tất cả các nghĩa  1, 2, 3, 4 đều được ghi trong từ điển Petit Larousse – cuốn từ điển Pháp ngữ rất thông dụng của người Pháp. Học giả Đào Duy Anh đã nêu đầy đủ và đã dịch đúng nghĩa.
     Pháp – Việt từ điển được biên soạn trước năm 1936, khi mà chữ quốc ngữ mới được sử dụng rộng rãi trong vài chục năm nên còn chịu ảnh hưởng nặng nề của cách diễn đạt trong Hán ngữ. Trong 4 nghĩa trên đây thì nghĩa thứ hai là thông dụng nhất, có thể dịch sang tiếng Việt hiện nay bằng các cụm từ:  Hội học thuật quốc gia; Viện hàn-lâm; Viện nghiên cứu; Học viện; Học hiệu,  Trường đại học ...
      Chúng ta nhận thấy rằng, chỉ trong ví dụ đầu tiên thì chữ  Académie mới được soạn giả gọi  là Viện hàn lâm, còn trong các trường hợp khác thì được gọi là Viện hoặc Học viện. Nghĩa là, chỉ riêng Académie cao cấp nhất, có uy tín nhất, “danh giá” nhất thì cụ Đào Duy Anh mới gọi là Viện hàn lâm, một tên gọi mang tính tôn nghiêm, trịnh trọng,  còn các Académie khác ở cấp thấp hơn thì gọi là viện, học viện. Nghĩa là, phải biết về hoạt động của từng  Académie cụ thể để tìm cho nó một nghĩa tiếng Việt  thích đáng. Người dịch phải có kiến thức và có trách nhiệm cao thì  mới  cân nhắc như thế.
   Theo Từ điển Pháp – Việt của Viện khoa học xã hội Việt Nam do Lê Khả Kế chủ biên thì từ Académie được dịch sang tiếng Việt như sau; 1. viện hàn lâm; 2. hội (văn học nghệ thuật); 3. học viện. Académie militaire Học viện quân sự;  4. khu giáo dục (Pháp): Académie de  Nancy khu giáo dục Năng-xi; 5. (họa) hình nghiên cứu khỏa thân. Như vậy là, ở đây thiếu hẳn nghĩa 1 và nghĩa 3 trong  từ điển của Đào Duy Anh. Tuy nhiên, đó là những nghĩa rất ít gặp.
      Chữ Academy trong  tiếng Anh và chữ Akademiya trong tiếng Nga đều có các nghĩa 1, 2 và 3 như trong Từ điển của cụ Đào Duy Anh, nhưng không thấy có  nghĩa thứ  4.
     Ở Liên Xô trước đây và ở Liên bang  Nga hiện nay, có khá nhiều trường đại học được gọi là Akademiya, ví dụ, Военно-воздущая академия = Đại học Không quân, Военно-медицинская академия = Đại học quân y; Академия общественных наук = Học viện khoa học xã hội (chính là trường đảng của  Liên xô, nhưng các học viên người Việt cứ gọi là Viện hàn lâm khoa học xã hội).
        Mặc dầu  các quyển từ điển Pháp –Việt và  Anh – Việt đều nêu nhiều nghĩa cho các chữ  Académie, Academy  để giúp người dịch lựa chọn  trong từng trường hợp khi dịch sang tiếng Việt, nhưng trên sách báo ở Việt Nam từ nhiều chục năm nay, dường như tất cả các chữ  này (cùng các chữ tương ứng trong các thứ tiếng khác) đều được dịch thành “viện hàn lâm”. Các sinh viên và nghiên cứu sinh Việt Nam  học tại các trường của Liên Xô có tên trong các ví dụ vừa kể đều gọi các trường ấy là “viện hàn lâm”, như Viện hàn lâm không quân, Viện hàn lâm quân y, Viện hàn lâm khoa học xã hội. Gọi như thế là sai, vì Akademiya ở đây có nghĩa là trường học
        Ở Anh, chữ Academy rất ít khi được dùng để đặt tên cho các viện nghiên cứu hoặc các trường học. Thế nhưng ở Việt Nam hiện nay có một số trường mang tên bằng tiếng Anh có chữ đó, ví dụ: Hanoi Academy (không thấy tên bằng tiếng Việt, và tôi cũng chưa biết dó là trường gì), Academy of Finance (Học viện Tài chính), Ho Chi Minh National Academy of Politics and Public Administration (Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh). Phải chăng, đó là sự bắt chước từ tiếng Nga?
        Hiện nay, người Việt Nam vẫn thường  nói đến Viện hàn lâm. Nhưng, ở Trung Quốc, Đài Loan, Hong Kong, Macao thì các viện nghiên cứu lớn nhất hoặc các Academy nổi tiếng trên thế giới đều được dịch sang Hán ngữ là  Viện, Học viện, Viện nghiên cứu, Viện học thuật, Hội học thuật....chứ không bao giờ  gọi là  Hàn lâm viện. Ví dụ, Académie franÕaise được gọi là  Pháp-lan-tây học thuật viện, tức là Viện học thuật Pháp; Russian Academy of Sciences  mà ta gọi là Viện hàn lâm khoa học Nga, thì  người Trung quốc gọi là  Nga-la-tư khoa học viện, tức là   Viện khoa học Nga
         Chữ Academy (Académie, Akademiya.....) được dịch sang tiếng Việt là Viện hàn lâm hay  Viện, Học viện, Viện nghiên cứu, Viện học thuật, Hội học thuật.... là do sự cân nhắc  của người dịch. Uy tín của mỗi Viện không phụ thuộc vào chữ Academy mà là do những thành tựu của nó trong quá khứ và hiện tại tạo nên. Ở nước Anh, cơ quan khoa học sang trọng nhất, danh tiếng vào bậc nhất thế giới, được thành lập từ năm 1660,  có tên là  Royal Society = Hội Hoàng gia, để cho rõ hơn một chút, ta có thể dịch là  Học hội Hoàng gia . Cái tên đầy  đủ của nó thì lại càng “bình dân” hơn nữa: The Royal Society of London for Improving Natural Knowledge = Hội Hoàng gia Luân Đôn nhằm cải tiến tri thức tự nhiên. Trong khi đó, British Academy, tưởng như là cơ quan học thuật cao nhất  lại là một viện về khoa học xã hội và nhân văn, được thành lập năm 1902, ít danh tiếng hơn rất nhiều. Hiện nay ở nước ta hầu như chữ Academy (Académie, Akademiya.....) được đồng nhất hóa với Viện hàn lâm và mặc nhiên trở nên hết sức khả kính, rất ít khi  người ta để ý đến thực chất của nó trong từng trường hợp cụ thể.

3.   Viện hàn lâm Pháp

      Tầng  lớp thanh niên trí thức Việt Nam hồi đầu thế kỷ 20 luôn luôn giàu lòng yêu nước và có hoài bão chống thực dân Pháp để giành độc lập cho nước nhà. Nhưng họ luôn luôn trân trọng, thậm chí, say mê những giá trị cao đẹp của nền văn hóa Pháp, với nhiều danh nhân có tên tuổi lẫy lừng, cống hiến rất nhiều cho nền văn minh của nhân loại. Tôi được biết và tin điều đó từ khi còn rất nhỏ do nghe lỏm các cuộc trò chuyện giữa cụ thân sinh và các bạn học của ông – những người đã tốt nghiệp Cao đẳng Đông Dương (École des Hautes Études Indochinoises), đồng môn và cùng lứa với các liệt sĩ cách mang Nguyễn Thái Học và Phó Đức Chính.
       Ở Pháp có một tổ chức học thuật có tên là Institut de France (Hiệp hội học thuật Pháp), được thành lập năm 1795, gồm  5 Viện (Académie) trong số 7 viện  mà học giả Đào Duy Anh đã nhắc đến ở mục từ Académie trong quyển Pháp – Việt từ điển của ông. Đó là:
     Académie franÕaise  =  Viện Hàn lâm Pháp, thành lập năm 1635
     Académie des sciences = Viện Khoa học (tự nhiên) Pháp, thành lập năm 1666
     Académie des inscriptions et belles-lettre = Viện Bi ký  và Mỹ văn, thành lập năm1663 
     Académie des sciences morales et politiques = Viện Luân lý và Chính trị, thành lập năm 1785
     Académie des beaux-arts  =  Viện Mỹ thuật, thành lập năm 1815.

      Trong số 5 viện này, Académie francaise – Viện hàn lâm Pháp (ở Trung Quốc người ta gọi là Viện  học thuật Pháp) được thành lập sớm nhất, quan trọng và “danh giá“ hơn hẳn các viện khác.
      Do Hồng y Giáo chủ  Richelieu thành lập năm 1635 dưới thời vua  Louis XIII, Viện hàn lâm Pháp được giao nhiệm vụ trước tiên là tiêu chuẩn hóa và hoàn thiện ngôn ngữ Pháp, xây dựng những quy tắc ngữ pháp làm cho tiếng Pháp càng thêm trong sáng và dễ hiểu. Trên tinh thần đó, Viện này bắt đầu biên soạn một bộ từ điển có tên là Dictionnaire de l’Académie française (Từ điển của Viện hàn lâm Pháp) xuất bản lần đầu tiên vào năm 1694, sau đó, không ngừng được bổ sung và cải tiến. Lần xuất bản thứ 8 diễn ra trong những năm 1933 - 1935. Hiện nay, lần xuất bản thứ 9 đã in được 3 tập, còn thiếu  tập 4. Hàng năm, Viện tổ chức  nhiều cuộc hội thảo giới thiệu các tác phẩm, xét duyệt  và trao tặng các giải thưởng cho các công trình khoa học có giá trị lớn.
       Viện Hàn lâm Pháp gồm 40 “ghế bành” (fauteuil), tập hợp những nhân vật nổi tiếng trong đời sống văn học (thơ ca, tiểu thuyết, kịch nghệ, phê bình), các nhà triết học, các nhà sử học cùng các nhà khoa học tự nhiên. Ngoài ra,  nò còn thu hút các tướng lĩnh, các chính khách, các chức sắc tôn giáo nổi tiếng. Phải là tác giả của  những tác phẩm lớn để lại cho đời sau thì mới được bầu vào Viện Hàn lâm Pháp và được “giữ ghế” suốt đời (trừ khi có hành vi bất chính). Họ được gọi là những người bất tử (immortels) của nước Pháp, và  đương nhiên, đều là công dân Pháp. Mỗi khi có một viện sĩ (acadénicien) qua đời thì Viện sẽ bầu một viện sĩ mới để thay vào chỗ trống. Nhà tư tưởng vĩ đại Montesquieu, các đại văn hào Voltaire, Victor Hugo, Alexandre Dumas (con), các nhà toán học Joseph Fourier và Jean le Rond d'Alembert, nhà bác học Louis Pasteur... là những tên tuổi sáng ngời đã được bầu vào  Viện Hàn lâm Pháp. Năm 1855, người ta đã đặt thêm chiếc “ghế bành thứ 41” (tượng trưng) dành cho những con người đúng là “bất tử” nhưng  suốt đời không bao giờ có dịp bước vào cửa của Viện hàm lâm Pháp. Trong số đó, cần phải kể đến những tên tuổi quen thuộc với độc giả Việt Nam như Descartes, Molière, Pascal, Rousseau, Diderot, Balzac, Dumas (cha), Stendhal, Maupassant, Baudelaire, Zola, Daudet, Proust, v.v.
       Trong lịch sử của Viện Hàn lâm Pháp, đã có những viện sĩ bị phế truất vì có hành vi  bất chính.
       Viện sĩ Hàn lâm Pháp được bầu gần đây nhất là ông Jules Alphonse Nicolas Hoffmann (viết gọn là Jules Hoffmann), một nhà sinh vật học gốc Luxembourg, được trao tặng giải thưởng Nobel về Sinh lý học và Y học năm 2011 cùng với  Bruce Alan Butler (Mỹ) và Ralph Marvin Steinman (Canada). Ông sinh năm 1941, là viện sĩ của Viện HL khoa học Pháp (Académie des sciences) từ năm 1992, chủ tịch của Viện này trong những năm  2007 – 2008, trở thành Viện sĩ thứ  726 (trên thực tế là thứ 722 vì có 4 viện sĩ đã bị phế truất, trong đó có Henri Philippe Pétain, vốn là anh hùng dân tộc của Pháp trong Đại chiến I nhưng phạm tội phản quốc trong Đại chiến II) của Viện Hàn lâm Pháp từ ngày 01/3/2012.
         Trong những năm cuối thế kỷ  20, có một Viện sĩ Hàn lâm Pháp khá quen thuộc với khán giả truyền hình Việt Nam. Đó là ông Jacques-Yves Cousteau (1910 – 1997), nhà thám hiểm hải dương học huyền thoại, cũng là người sáng chế những bộ áo lặn và thiết bị lặn hiện đại đắc dụng nhất, đồng thời là  tác giả của nhiều bộ phim và nhiều quyển sách kỳ thú về thế giới sinh vật dưới đáy biển. Ông được bầu làm viện sĩ  Viện hàn lâm Pháp ngày 24/11/1988.
        Viện Hàn lâm Pháp không phải là một cơ quan nghiên cứu khoa học, mà là “ngôi đền” tôn vinh các  nhà khoa học, các nhà văn hóa đã đạt những thành tựu to lớn có ảnh hưởng lâu dài ở trong và ngoài nước Pháp. Đây cũng là  tổ chức có uy tín nhất có tác dụng  khuyến khích, biểu dương kịp thời những công trình khoa học, văn học và những tài năng mới xuất hiện, bằng những hoạt động như hội thảo, giới thiệu, xuất bản các tác phẩm. Việc hoàn thiện văn phạm và từ điển tiếng Pháp được coi là một nhiệm vụ hết sức quan trọng và thường xuyên. Đó là một điều khiến chúng  ta rất đáng suy nghĩ.    
          Ở Pháp, ngoài 7 cơ quan  có tên là Académie... mà học giả Đào Duy Anh đã nhắc đến, còn có một số cơ quan nữa cũng được gọi là Académie. Nếu tất cả các Académie ở Pháp không phải là trường học (mà là các viện) đều được gọi là Viện hàn lâm thì nước Pháp có chừng một chục Viện hàn lâm, trong số đó, Viện hàn lâm Pháp, tức Académie franÕaise là lâu đời nhất,  danh giá nhất, được ngưỡng mộ nhất, ai cũng biết. Mọi người chỉ cần gọi nó là l’Académie (nghĩa là Viện hàn lâm, không cần có chữ franÕaise nghĩa là của nước Pháp), giống như ở Việt Nam người ta nói đại hội Đảng  có nghĩa là đại hội của Đảng cộng sản Việt Nam ..Nhưng khi nói đến một Viện hàn lâm khác thì nhất thiết phải gọi đầy đủ  tên của nó.

 4. Viện hàn lâm khoa học Liên Xô, Viện hàn lâm khoa học Nga
Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô tồn tại từ năm 1925 đến năm 1991, là cơ quan nghiên cứu  khoa học cao nhất của Liên Xô, trực thuộc Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô, có tên theo tiếng  Nga là Академия наук СССР,  tên tiếng Anh là USSR Academy of Sciences. Tiền thân của nó là Viện hàn lâm khoa học Nga, do Pyotr  Đại đế thành lập năm 1724 tại Saint Petersburg theo khuôn mẫu của Tây Âu (gần giống như Académie des sciences của Pháp ở Paris) nhưng phụ thuộc nhà nước nhiều hơn.  Trong  thời gian 1917 – 1925, có 69 viện sĩ. Sau khi chuyển thành Viện hàn lâm khoa học Liên Xô, nó được tổ chức lại theo mô hình mới hoàn toàn và có quy mô càng ngày càng to lớn. Năm 1934, chuyển trú sở từ Petrograd về Moskva. Lúc này, có 80 viện chuyên ngành, với khoảng 2000 nghiên cứu viên. Đến năm 1940, các con số đó đã tăng gấp đôi. Năm 1936 có  98 viện sĩ (akademik). Năm 1985, có 330 cơ quan khoa học, với 57 ngàn cán bộ nghiên cứu, một nửa  trong số đó là tiến sĩ và phó tiến sĩ (mà ở Việt Nam đã được nâng bậc thành tiến sĩ).  Năm 1989 có 323 viện sĩ, 586 thành viên thông tấn, 138 thành viên nước ngoài. 
       Viện hàn lâm khoa học Liên Xô là viện lớn nhất và “danh giá ‘ nhất  ở Liên Xô, bên cạnh nó còn có một số Viện hàn lâm chuyên ngành về kiến trúc, y học, nông nghiệp, sư phạm, nghệ thuật,  v.v. Ngoài ra  mỗi nước cộng hòa xô viết đều có một Viện hàn lâm khoa học, khiến tổng số các Viện hàn lâm ở Liên xô lên đến nhiều chục. Các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu  cũng thành lập các viện hàn lâm khoa học theo mô hình  của Liên Xô.
        Ngày 21/11/1991, Tổng thống  Liên bang Nga ký sắc lệnh tái lập Viện hàn lâm khoa học Nga với tư cách là cơ quan thừa kế hoàn toàn của Viện hàn lâm khoa học Liên Xô.. Cơ cấu tổ chức từ thời Liên Xô vẫn được giữ nguyên. Hiện nay, Viện hàn lâm khoa học Nga có 3 chi nhánh (ở Siberia, ở Ural và ở Viễn đông.) và  15 trung tâm ở các vùng. Đến cuối năm 2011, Viện hàn lâm khoa học Nga có 531 viện sĩ (akademik) và 769 thành viên thông tấn.
       Trong những  năm 50 – 60 của thế kỷ trước, những người thuộc thế hệ cha mẹ chúng tôi vẫn chưa già lắm, chỉ mới trên dưới 60 tuổi. Họ cùng với những thanh niên học sinh thuộc lớp con cái của  mình được nghe rất  nhiều điều kỳ diệu về một nền khoa học đang phát triển rực rỡ ở Liên bang Xô-viết  mà trụ cột của nó  là Viện hàn lâm khoa học Liên Xô. Những thành tựu khoa học vĩ đại có thật của nó, như việc chế tạo vũ khí nguyên tử, phóng vệ tinh nhân tạo và  con tàu vũ trụ đã khiến cả thế giới phải khâm phục.
       Mặt khác, đã xẩy ra rất nhiều sự việc tệ hại liên quan đến Viện hàn lâm khoa học Liên Xô. Điển hình nhất là sự tác oai tác quái của Trofim Denisovich Lysenko (1898 – 1976), kẻ khởi xướng một khuynh hướng khoa học giả hiệu  trong sinh vật học và khống chế khoa học nông nghiệp ở Liên Xô từ khoảng năm 1935 đến 1960. Ông ta đã dùng quyền lực chính trị để giết hại nhiều nhà bác học có ý kiến khác mình, bắt bớ và giam cầm khiến họ bị chết trong tù, ví dị như Nikolai Ivanovich Vavilov (1887 – 1943), nhà di truyền học xuất sắc nhất của Liên Xô đã bị bắt giam năm 1940 và chết trong nhà tù ở Saratov ngày 26/01/1943 vì thiếu dinh dưỡng.
   【Theo website poeples.ru bằng tiếng Nga chuyên giới thiệu tiểu sử các nhân vật nổi tiếng, tại  trang  http://www.peoples.ru/science/botany/vavilov/index.html ghi tiểu sử của N.I. Vavilov thì nhà bác học này bị tuyên án tử hình ngày 09/7/1941 cùng với nhiều người khác nhưng đến ngày hành quyết  là 28/7/1941 thì một mình ông đươc hoãn lại, và đến ngày 23/6/1942, được giảm mức án xuống 20 năm tù, nhưng chỉ nửa năm sau đó thì ông qua đời. Sergei Pavlovich Korolev (.1907 – 1966), tác giả của tên lửa vũ trụ Xô-viết cũng phải ở tù từ ngáy 22/6/1938 đến ngày 27/6/1944.】
Tuy nhin,những sự thật đen tối như vậy đã được giữ kín, chỉ những người thân của các nạn nhân mới biết nên hầu như không ảnh hưởng đến uy tín của Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô.trong lòng nhân dân Việt Nam.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét