Chủ Nhật, 23 tháng 9, 2012

(4) CHIẾN TRANH TRUNG QUỐC – VIỆT NAM 1979

CHIẾN TRANH TRUNG QUỐC – VIỆT NAM 1979

Daniel Tretiak
University of Hong Kong
Member, National Committee of United States – China Relations

Trung Quốc và Liên Bang Sô Viết
       Bắc Kinh được giả định đã tính toán rằng sau hết Moscow sẽ trao cho Hà Nội sự ủng hộ bằng miệng nhưng sẽ kiềm chế việc tấn công Trung Quốc nếu cuộc xung đột vẫn còn được hạn chế.  Các lời tuyên bố của Nga trong diễn tiến cuộc xung đột có khuynh hướng chứng thực sự giả định này, mặc dù đã có một số thời khắc khó chịu tại Bắc Kinh.  Vào lúc khởi đầu cuộc xung đột, Moscow có biểu lộ rằng các ý định của nó để tham dự vào cuộc xung đột vẫn chưa được quyết định mà đúng hơn tùy thuộc vào sự phát triển của các biến cố trong tương lai.  Lời tuyên bố cho rằng:
       Nhân dân Việt Nam anh hùng, đang trở thành nạn nhân của một cuộc xâm lược mới, có đủ năng lực để tự mình đứng vững trong dịp này cũng như đặc biệt vì nó có các người bạn đáng tin cậy.  Liên Bang Sô Viết sẽ chu toàn các nghĩa vụ của mình mà nó đã cam kết chiếu theo hiệp ước hữu nghị và hợp tác giữa LBSV và CHXHCHVN [phần nhấn mạnh được thêm vào bởi tác giả].

       Phía Nga cảm thấy Việt Nam có thể dối phó với Trung Quốc tự mình – một niềm tin được chứng minh.  Nhưng phía Nga cảnh cáo một cách mặc nhiên rằng nếu sự lượng giá bị chứng tỏ là sai, khi đó Sô Viết sẽ xem trọng các nghĩa vụ theo hiệp ước của họ -- và phía Trung Quốc (hay bất kỳ người nào khác đang lắng nghe) cần phải biết như thế.  Trong suốt cuộc xung đột phía Nga đã đưa ra các lời cảnh cáo đên phía Trung Quốc hãy đừng mở rộng các giới hạn của họ trong cuộc xung đột với Việt Nam đi quá xa.  Hơn nữa, chủ đề sự dung chấp hay thông đồng của Mỹ (và Anh) trong các hành động của Trung Quốc chống Việt Nam đã được nêu lên.      
       Một khi các bộ đội Trung Quốc đã triệt thoái ra khỏi Việt Nam và quyết định đã được lấy để khởi sự các cuộc hòa đàm Trung – Việt, sự lượng định tốt nhất về các hành động của người Nga đối với nỗ lực tại Việt Nam của Trung Quốc rằng Sô Viết đã cư xử một cách mỉa mai, phù hợp với một kịch bản “tốt nhất có thể được”.  Phía Nga đã cảnh cáo, chỉ trích và trao cho Việt Nam sự ủng hộ quân sự và bằng miệng – nhưng họ đã không can thiệp vào cuộc xung đột.  Họ đã cư xử một cách thận trọng, mặc dù, dĩ nhiên, Trung Quốc đã không mang lại cho họ lý do mạnh mẽ để hành xử một cách nào khác.  Thái độ của Nga trong cuộc chiến tranh là như thế đó, ngay dù phía Trung Quốc đã phải tống đạt cáo tri cho Liên Bang Sô Viết trong Tháng Tư 1979 rằng Hiệp Ước Hữu Nghị, Liên Minh, và Trợ Giúp Hỗ Tương Trung Quốc – Sô Viết (ký kết trong năm 1950) sẽ bị bãi bỏ trong Tháng Tư 1980, họ cũng hoàn toàn không được kỳ vọng lại có thể “đề nghị với Chính Phủ Sô Viết rằng các cuộc thương thảo sẽ được tổ chức giữa Trung Quốc và Liên Bang Sô Viết hầu tìm kiếm giải pháp cho các vấn đề còn lại và sự cải thiện các quan hệ giữa hai nước”. 55
       Sự kiện này bắt đầu một tiến trình lên đến cực điểm trong một quyết định bởi Moscow và Bắc Kinh để khởi sự các cuộc thương thảo tại Moscow trong Tháng Chín 1979, ở cấp thứ trưởng ngoại giao.
       Giữa Tháng Tư và Tháng Tám 1979, nhiều cuộc đấu khẩu đã diễn ra về các cuộc đàm phán.  Niên biểu giải trình dưới đây cho thấy tiến trình trắc trở, song chưa hoàn tất đó của “các cuộc thương thuyết về các sự thương thuyết’’ giữa Trung Quốc và Sô Viết, tiếp theo sau quyết định của Trung Quốc muốn bãi bỏ Hiệp Ước 1950:
       17 Tháng Tư: Ngoại Trưởng Sô Viết Gromyko trao cho Đại Sư Wang Yu-p’ing một văn thư cho rằng: “Phía Sô Viết chờ đợi phía Trung Quốc … thông báo cho nó [Liên Sô] các quan điểm của Trung Quốc liên quan đến mục đích và các mục tiêu của các cuộc đàm phán.  Nếu một sự thỏa thuận đạt được về điểm này, sẽ có thể thảo luận vấn đề mức độ của các cuộc đàm phán và địa điểm”. 56
       18 Tháng Tư: Các cuộc thương thảo Trung – Việt bắt đầu tại Hà Nội.
       16 Tháng Năm: Trong một cuộc phỏng vấn với một cơ quan thông tấn Nhật Bản, họ Đặng cho hay “rằng sẽ không có sự cải thiện lớn lao trong các quan hệ Trung Quốc – Sô Viết ‘trừ khi Nga từ bỏ chính sách bá quyền và đế quốc chủ nghĩa xã hội của nó.  Tôi không tin họ sẽ từ bỏ chính sách bá quyền và chủ nghĩa bành trướng’”. 57
       25 Tháng Năm: Phía Sô Viết kín đáo biểu lộ sự chú ý của họ đến đề nghị của Trung Quốc về các cuộc đàm phán, bất kể sự ngờ vực của họ Đặng, khi Liên Hiệp Các Hội Hữu Nghị và Quan Hệ Văn Hóa với Các Nước Ngoài và Hội Thân Hữu Sô Viết – Trung Quốc hội họp để kỷ niệm 60 năm Phong Trào Ngũ Tứ (ngày 5 tháng 4). 58
       3 Tháng Sáu: Một nhà ngoại giao nước thứ ba được trích dẫn trong các nhận định cuối Tháng Năm bởi một viên chức cao cấp thuộc Bộ Ngoại Giao Trung Quốc, rằng phía Trung Quốc mong muốn các cuộc đàm phán không chỉ bàn về các vấn đề song phương, mà còn cả các vấn đề quốc tế gây ra sự căng thẳng trong các quan hệ Trung Quốc – Sô Viết (phỏng vấn với tác giả).
       4 Tháng Sáu: Gromyko trao một văn thư cho xử lý thường vụ đại sứ Trung Quốc, T’ien Tseng-p’ei, tuyên bố rằng Liên Bang Sô Viết đã chuẩn bị để khởi sự các cuộc đàm phán với Trung Quốc “với một quan điểm nhằm bình thường hóa và cải thiện các quan hệ song phương trên căn bản của các nguyên tắc sống chung hòa bình … Liên Bang Sô Viết đề nghị rằng các cuộc đàm phán sẽ được tổ chức tại Moscow trong Tháng Bẩy hay Tháng Tám và nói Liên Sô xét thấy thuận tiện rằng chúng sẽ được thực hiện bởi các thứ trưởng ngoại giao hay các đại điện được bổ nhiệm đặc biệt”. 59
       18 Tháng Sáu: Hiệp Ước SALT II được ký kết tại Vienna giữa Hoa Kỳ và Liên Bang Sô Viết.
       18 Tháng Sáu: Hoa Quốc Phong trong một bài diễn văn trước QHTD tại Bắc Kinh đề cập đến đề nghị của Trung Quốc để có các cuộc đàm phán “nhằm giải quyết các vấn đề còn lại và để cải thiện các quan hệ giữa hai nước … Chính Phủ Sô Viết giờ đây đã đồng ý mở các cuộc thương thảo và còn biểu lộ sự sẵn sàng của nó để bao gồm nguyên tắc chống bá quyền vào các cuộc thương thảo này.  Nhưng điều này có làm thay đổi bản chất của vấn đề hay không? …” 60
       30 Tháng Sáu: Máy bay trực thăng Sô Viết đột nhập vào Tân Cương, nhưng không được tường thuật bởi Tân Hoa Xã mãi cho tới ngày 24 Tháng Bảy. 61
16 Tháng Bảy: Hai người Trung Quốc bị tấn công, một bị chết tại Tân Cương.  Sự phản kháng của Bộ Ngoại Giao Trung Quốc không được đưa ra mãi cho đến hôm 24 Tháng Bảy, tuyên bố: “Phía Sô Viết đã cân nhắc để tạo ra một biến cố khiêu khích và đổ máu tại biên giới vào một thời điểm khi các sự thỏa thuận cụ thể đang được thảo luận cho các cuộc thương thảo về các quan hệ giữa Trung Quốc và Liên Bang Sô Viết.  Điều này không thể tác dụng gì ngoài việc thu hút sự chú ý nghiêm trọng của phía Trung Quốc”. 62
       Cuối Tháng Bẩy: Tạp chí New Times [Nga Sô] ấn hành một sự tường trình phê phán ôn hòa nhưng nói chung xác thực về phiên họp của Quốc Hội Toàn dân Trung Quốc. 63   
       31 Tháng Bẩy: Bộ Trưởng Quốc Phòng Hsu Hsiang ch’ien, trong bài diễn văn diễn văn của ông nhân Ngày QĐGPNDTQ đã không đưa ra các ý kiến chống Sô Viết.  Tuy nhiên, ông có tuyên bố: “Đối diện với tình hình quốc tế xáo trộn hiện nay, chúng ta phải đề cao cảnh giác gấp một trăm lần, thực hiện các sự chuẩn bị hữu hiệu chống lại một cuộc chiến tranh xâm lược và chu toàn trách nhiệm của chúng ta trong việc phòng thủ tổ quốc và chương trình hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa của mình và bảo toàn hòa bình thế giới”. 64
       7 Tháng Tám: Hiệp định mậu dịch Trung Quốc – Sô Viết được ký kết tại Moscow; mậu dịch năm 1978 cao nhất trong nhiều năm.
       10 Tháng Tám: Phiên họp của Liên Hiệp Các Hội Hữu Nghị và Quan Hệ Văn Hóa với các Nước Ngoài.  Chủ đề: “hữu nghị với Trung Quốc”. 65
       21 Tháng Tám: Hãng Thông tấn UPI (United Press International) tường thuật từ Moscow rằng Trung Quốc muốn có các cuộc đàm phán thảo luận về các lãnh vực quốc tế và song phương trong cuộc tranh cãi giữa Sô Viết – Trung Quốc.  Ngay cả nghị trình cũng không được ấn định.  Wang Yu-p’ing, giờ đây là một thứ trưởng, “sẽ cầm đầu phía Trung Quốc, Leonid Ilychev cầm đầu phía Sô Viết. 66
       Niên biểu này không bao gồm các lời chỉ trích sắc bén của Trung Quốc về chính sách ngoại giao của Sô Viết và các lời lẽ đáp trả không kém sắc bén.  Dù thế, ngay khi các sự chỉ trích này được tuôn ra trong thời kỳ từ Tháng Tư – Tháng Bẩy 1979, Các Chính Phủ Trung Quốc và Sô Viết, bằng các hành vi của họ và trong một số trường hợp qua lời nói, đã cố gắng duy trì động năng của việc khởi sự các cuộc thương thảo vốn đã được bắt đầu trong Tháng Tư.  Các lời chỉ trích các lãnh tụ của mỗi nước bị tắt tiếng; các sự tường thuật của Trung Quốc về các vụ bị cáo giác là xâm nhập biên giới của Sô Viết được trì hoãn; cả hai phía tái xác nhận sự chú ý của họ đến việc mở các cuộc thương thảo, mặc dù đã và sẽ tiếp tục gặp khó khăn để hình thành một nghị trình khả dĩ sẽ được chấp thuận hỗ tương.  Các nỗ lực để mở màn các cuộc thương thảo vẫn tiếp tục.  Hơn nữa, mặc dù các sự chỉ trích của Trung Quốc về các chính sách đối nội và ngoại giao của Sô Viết vẫn tiếp tục trong mùa hè 1979, các ý kiến của Trung Quốc về các quốc gia Đông Âu thân Sô Viết chẳng hạn như Hungary, Poland, Bulgaria, Cộng Hòa Dân Chủ Đức và Tiệp Khắc đã gia tăng và nói chung thì tích cực.
       Các lợi điểm của sự cắt giảm căng thẳng đối với cả hai quốc gia thì rõ ràng, ngay dù chúng không xảy ra tức thời trong các cuộc thương thảo hữu hiệu.  Đối với Trung Quốc, kinh nghiệm quân sự của nó tại Việt Nam phô bày sự yếu kém của nó trong việc giao tranh dù với một nước chư hầu của Sô Viết, khoan nói tới Liên Bang Sô Viết.  Trung Quốc cần hòa bình chứ không phải chiến tranh trong giai đoạn này của cuộc phát triển kinh tế của nó.  Để mua “không gian hít thở”, ngay một hiệp định tạm thời với Liên Bang Sô Viết cũng sẽ hữu dụng.  Gạt bỏ tính thiết thực sang một bên, thương thảo với giới lãnh đạo hiện thời cho phép Trung Quốc thực hiện các mong ước của nó cho một sự hòa hoãn giới hạn được hay biết không chỉ với một Brezhnev già nua, mà còn với những kẻ kế vị ông ta.  Trung Quốc đã không chuẩn bị cho sự loại bỏ Khrushchev hồi năm 1964 và đã không lợi dụng được mấy biến cố đó; thời kỳ của sự lãnh đạo của Brezhnev giờ đây đang tiến dần đến sự kết thúc và phía Trung Quốc được nghĩ đã mong muốn có được một cảm nhận về thế hệ kế nhiệm tại Moscow.  Nhưng nằm bên dưới các chuyển động tế nhị của Trung Quốc nhằm cố gắng thương thảo với một Moscow ngoan cố và mạnh mẽ là hai cảm nghĩ khác tại Bắc Kinh: không chỉ là Trung Quốc đã không làm lợi cho chính nó bằng việc từ khước không thương thảo với Liên Bang Sô Viết) (điều đã không được chứng minh là quá rầy rà trong cuộc Chiến Tranh Trung – Việt), nhưng Hoa Kỳ (và Nhật Bản) hoàn toàn thiếu ý chí để đề kháng trước Moscow.  Qua việc ký kết Hiệp Ước SALT II, một sự thỏa thuận mà phía Trung Quốc đã và vẫn còn chỉ trích mạnh mẽ và nghi ngờ, Hoa Kỳ đã ra dấu hiệu cho Trung Quốc rằng nó vẫn cảm thấy Liên Bang Sô Viết còn là một đối thủ đáng tin cậy.  Trung Quốc không đồng ý – nhưng sẽ phải khởi sự các cuộc thương thảo của chính nó với Moscow để tự bảo vệ.  Hoa Kỳ, khoan nói đến Nhật Bản, sẽ không trợ giúp Trung Quốc về mặt quân sự, và không có giới lãnh đạo của nước nào lại sẵn lòng thừa nhận và đối phó một cách mạnh mẽ với mối đe dọa đên hòa bình thế giới phát sinh từ Liên Bang Sô Viết.
       Về phần Liên Bang Sô Viết, sự cắt giảm căng thẳng với Trung Quốc sẽ không chỉ cho phép nó tăng cường vị thế vũ lực tại Đông Âu, mà còn sẽ rảnh tay để tích cực hơn tại Trung Đông và Phi Châu.  Ngoài ra, với sự hiểu biết của phía Nga về sự yếu kém quân sự của Trung Quốc cũng như sự yếu kém kinh tế của Việt Nam, khả tính đã hiện hữu cho Sô Viết sử dụng các ảnh hưởng của nó để làm dễ dàng cho một sự hưu chiến khắt khe, có vũ trang giữa Trung Quốc và Việt Nam.  Một kết quả như thế sẽ vẫn giữ Việt Nam như một nước chư hầu, nhưng cũng có thể làm giảm bớt nhu cầu của Sô Viết để cam kết quá nhiều sự ủng hộ quân sự, kinh tế và tài chính cho Hà Nội.  Hơn thế, qua việc thương thảo ngay dù các thành công nhỏ với Trung Quốc, Moscow cũng có thể biểu thị được các ý định hòa bình của nó trên toàn cầu.  Mặc dù Liên Bang Sô Viết đã không có một Kissinger sẵn sàng chắp cánh để bay một cách ngoạn mục đên Bắc Kinh, nếu Moscow có thể hạ thấp nhiệt độ của sự thù nghịch hiện có với Trung Quốc, đó sẽ không phải là một thành quả nhỏ.  Nó có thể, thí dụ, đặt ra khuôn khổ cho việc thương nghị với khu vực khó khăn khác của Liên Bang Sô Viết tại Á Châu, Nhật Bản.

Kết Luận
Cuộc Chiến Tranh Trung Quốc – Việt Nam trong và tự bản thân có thể xem ra là một cuộc xung đột nhỏ, nhưng tác động của nó thì lớn hơn những gì đã có thể sẵn được nghĩ ra bởi vì thời điểm của nó.  Sự tái lượng định kinh tế đã bắt đầu; chiến tranh nhấn mạnh nhu cầu thu vén các tài nguyên khan hiếm một cách cẩn trọng hơn và canh chừng các nhà lãnh đạo binh vực chién tranh và các kế hoạch kinh tế vĩ đại của năm 1978.  Chiến tranh cũng phô bày cho thấy vị thế của Trung Quốc trong hệ thống quốc tế vẫn còn mong manh và rằng điều sẽ trở nên cần thiết để khai mở các đường hướng mới, dù xem ra không ngon lành gì, nhằm thông đạt và thương thảo với Liên Bang Sô Viết – một sự nguyền rủa đối với họ Đặng, nhưng không phải đối với kẻ hiện thực bảo thủ về kinh tế, kẻ đã nhìn thấy rằng Trung Quốc phải có hòa bình, không nhất thiết với bất cứ giá nào, nhưng hòa bình nếu nó có thể thụ đắc được từ một giới lãnh đạo già nua và biến đổi tại Moscow.  Mối quan hệ Trung Quốc – Mỹ có thể lôi kéo người Nga trở nên thẳng thắn hơn với phía Trung Quốc, nhưng Trung Quốc đã hiểu biết với các biến cố từ 17 Tháng Hai đến 18 Tháng Sáu (sự ký kết hiệp ước SALT II) rằng Hoa Kỳ thì ít đáng tin cậy hơn nhiều mức mà họ Đặng và nhiều người Trung Quốc khác có thể đã nghĩ./-     
---

CHÚ THÍCH
* Tôi xin cảm ơn người phụ khảo của tôi, Chung Wei-chieh, về sự nghiên cứu siêng năng và các cuộc thảo luận hăng hái của anh ta về một số vấn đề nào đó được nêu lên trong bài viết này.  Tôi cũng xin cám ơn Tiến Sĩ K. S. Chern và F. M. Scollard thuộc Đại Học University of Hong Kong, và Lois Tretiak thuộc cơ quan Business International Asia/Pacific (Hong Kông) về ý kiến của quý vị.  Tôi xin thừa nhận với lòng hân hoan sự ủng hộ quảng đại của Hội Đồng Canada cho công tác nghiên cứu của tôi tại Hồng Kông. 
1. Muốn có trọn vẹn bản văn, xem New Times (Moscow), số 46 (Tháng Mười Một 1978), các trang 6-7.  Điều 6 quy định: “Trong trường hợp một trong các bên trở nên đối tượng của sự tấn công hay một sự đe dọa tấn công, giới Cao Cấp của Các Bên Kết Ước sẽ tức thời khởi sự các sự tham khảo hỗ tương nhắm mục đích tháo bỏ mối đe dọa đó và thực hiện các biện pháp hữu hiệu thích đáng hầu bảo đảm hòa bình và an ninh của đất nước họ”.
2. Sau khi cuộc xung đội khởi sự, phía Trung Quốc đã công bố một sự tường thuật đầy đủ về số các vụ khiêu khích mà họ cho rằng Việt Nam đã thực hiện kể từ năm 1975 trở vê sau.  Tôi đã cảm thấy trước đây rằng trong năm 1976 phía Việt Nam đã mưu toan lợi dụng các khó khăn nội địa của Trung Quốc để quấy rối sườn phía nam của Trung Quốc.  Trong khi các dữ liệu của Trung Quốc không thể nói là xác quyết, chúng vẫn đáng chú ý:
       Năm                            Số Vụ Khiêu Khích
       1974                                        121
       1975                                        439
       1976                                        986
       1977                                        752
       1978                                       1108
       1979                                        129
(Jen-min jih-pao: Nhân Dân Nhật Báo, 27 Tháng Hai, 1019, trang 1.)
Do đó, danh sách cho thấy trong năm 1976, các vụ khiêu khích bị cáo giác đã gia tăng một cách mau chóng, giảm xuống trong năm 1977 khi Trung Quốc và Việt Nam cố gắng chắp vá các quan hệ (nhưng thất bại), và lại lên cao trong năm 1978 khi sự căng thẳng gia tăng một lần nữa.  Trong một cuộc phỏng vấn với một viên chức ngoại giao Trung Quốc tại Bắc Kinh khi đang có chiến tranh, tôi đã dò hỏi rằng liệu ông có cảm thấy rằng trong năm 1976 phía Việt Nam có thể đã khai thác các vấn đề trong giới lãnh đạo tại Trung Quốc (và phô bày sự bực dọc của họ đối với sự hậu thuẫn của Trung Quốc dành cho Pol Pot) qua việc gia tăng áp lực tại biên giới hay không.  Viên chức này đã trả lời, “Tôi không biết, ông sẽ phải hỏi phía Việt Nam về điều đó (2 Tháng Ba, 1979).
3. Thành ngữ này được dùng lần đầu tiên bởi họ Đặng trong một cuộc phỏng vấn truyền hình khi đang ở Hoa Kỳ.  Xem Jen-min (Nhân Dân), 30 Tháng Một 1979.  Lý Tiên Niệm dùng thành ngữ này một lần nữa vào ngày 12 Tháng hai, Jen-min, 12 Tháng Hai 1979.
4. Time, 5 Tháng Hai 1979, trang 16.
5. “U.S.A. – China”, New Times, số 7 (Tháng Hai 1979), trang 7.  Muốn có sự quan ngại của Sô Viết về các vụ bán vũ khí khả hữu của Mỹ cho Trung Quốc, xem Mainichi Daily News (MDN), 29 Tháng Một 1979, trang 3; muốn có sự tường thuật của tờ Izvestiia về mối quan tâm đến một liên minh tam giác giữa Nhật Bản - Hoa Kỳ - Trung Quốc, xem MDN, 31 Tháng Một 1979, trang 9; muốn có một sự phê bình cũa hãng thống tân TASS của Nga  về sự “thông đồng`” giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, xem MDN, 3 Tháng Hai 1979, trang 1.
6. Tóm lược trong tờ New York Times, 30 Tháng Một 1979, trang 9; toàn thể bản văn trong Bulletin, Department of State, Tháng Ba 1979, các trang 1-2.
7. New York Times, 31 Tháng Một 1979, trang 1.
8. Cùng nơi dẫn trên, trang 6.
9. Cùng nơi dẫn trên, 1 Tháng Hai 1979 (bài viết của ký giả Fox Butterfield).
10. Như được tường thuật trên tờ Hsin-hua News Bulletin (HNB), 4 Tháng Hai 1979, trang 25.
11. HNB, 6 Tháng Hai 1979, trang 33.
12. Cùng nơi dẫn trên, trang 32.
13. New York Times, 1 Tháng Hai 1979, trang A17.
14. “Joint Press Communiqué” (Bản Thông Báo Báo Chí Chung), 1 Tháng Hai 1979; trong Bulletin, U.S. Department of State (Tháng Ba 1979), trang 11.  New York Times (2 Tháng Hai 1979), trang A9, đã tường thuật rằng phía Trung Quốc chỉ muốn dùng từ ngữ duy nhất “bà quyền: hegemony” trong bản tuyên bố; phía Hoa Kỳ, cảm nhận được các phản ứng khả hữu của Sô Viết, đã thêm vào nhóm chữ “và thống trị: and domination” hy vọng làm giảm bớt các sự quan ngại của Sô Viết.  Nỗ lực này đã không thành công.
15. Từ Cuộc Họp Báo của Tổng Thống Carter hôm 12 Tháng Hai 1979, trong tờ Bulletin, U.S. Department of State, Tháng Ba 1979, trang 33.
16. Xem Daniel Tretiak, “The Sino-Japanese Treaty of 1978: The Senkaku Incident prelude”, Asian Survey, Vol. XVII, số 12 (Tháng Mười Hai 1978), các trang 1235-49, đặc biệt các trang 1246-48.
17. Trong Tháng Mười, ngay trước và trong khi có cuộc thăm viếng của họ Đặng tại Nhật Bản, tôi đã thảo luận mối quan hệ Nhật Bản – Trung Quốc với một số thành viên của Diet (Thượng và Hạ Nghị Viện Nhật Bản), tôi xin cám ơn họ về cái nhìn thấu triệt và sự thẳng thắn: các quan điểm theo sau được dựa trên các cuộc phỏng vấn dài, cẩn trọng và đôi khi hào hứng đó.  Lời hứa giữ bí mật khiến tôi không được nêu tên những ai tôi đã nói chuyện, ngoài trừ nói rằng các người đối thoại là các nhân viên Quốc Hội đại diện cho tất cả các đảng phái chính yếu; và trong trường hợp thuộc Đảng Tự Do Dân Chủ (Liberal Democratic Party: LDP), là thành viên của các phe phái chính (thí dụ phe Fukuada và Ohira) cũng như các nhóm không chính thức (thí dụ, Seirankai).
18. Mainichi Daily News, 8 Tháng Hai 1979, trang 1; Jen-min, 7-8 Tháng Hai 1979; New York Times, 7-8 Tháng Hai 1979.
19. MDN, 8 Tháng Hai 1979, trang 1.
20. New York Times, 8 Tháng Hai 1979.  Cũng xem bải tường thuật nhã nhặn về cuộc ghé chân của họ Đặng tại Tokyo trong HNB, 8 Tháng Hai 1979, các trang 4-5; cũng xem các sự tường thuật trong Jen-min, 8 Tháng Hai 1979, trang 1.  Muốn có lời bình luận của Sô Viết, xem “Japan-China”, New Times, số 8 (Tháng Hai 1979), các trang 9 và 11.
21. Jen-min, 9 Tháng Hai 1979, trang 1.
22. Tôi đã hứa với tất cả các người được phỏng vấn trong thời kỳ này về việc giữ bí mật và vì thế không thể nêu các danh tính.  Tuy nhiên, các cuộc phỏng vấn được dàn trải theo diễn tiến của cuộc xung đột và với các nhân viên Bộ Ngoại Giao (MFA) thông thạo và phát biểu mạch lạc.  Chủ đề “việc ra dấu hiệu” được khai triển sau cuộc lưu trú của tôi tại Bắc Kinh, đặc biệt trong các cuộc thảo luận với một số các chuyên viên Úc Đại Lợi về Trung Quốc  trong Tháng Bẩy 1979.
23. Một số các chuyên viên tại Hồng Kông và nơi khác cảm thấy rằng trong thực tế đó là một cuộc phản công.
24. Các sự lượng giá này được dựa, một phần, trên sự nhìn thấy của tôi một số lượng đông đảo các máy bay MIG-17 tại phi trường Côn Minh vào giữa Tháng Ba 1979.
25. Phỏng vấn tại Bắc Kinh, 28 Tháng Hai 1979.
26. Jen-min, 26 Tháng Ba 1979, các trang 1 và 4.  Cả hai đều chào mừng sự chiến thắng của các binh sĩ Trung Quốc, cho dù các nhận xét của họ không nồng nhiệt.  Cũng xem câu chuyện ít ồn ào về sự trở về của “các bộ đội biên phòng” ở P’ing-hsiang (Bằng Tường), Quảng Tây trên tờ Ta Kung Pao (Phụ Trang Hàng Tuần), (TKP(WS)), 15-21 Tháng Ba 1979, trang 1.  Trong một cuộc phỏng vấn bao quát hôm 11 Tháng Ba với viên đại sứ Thái Lan rời nhiệm sử, Đặng Tiểu Bình cho thấy rằng “Trung Quốc đã phô bày Việt Nam là ‘không quá hùng mạnh’”; về ‘bài học” mà Trung Quốc đã trao cho giới lãnh đạo Hà Nội, họ Đặng nói rằng cuộc hành quân đã “tìm cách giảm bớt cách nào đósự tự cao tự đại mà họ có trong đầu, nhưng họ vẫn còn có nhiều sự khoa trương trong đầu của họ’”, bản tin của Pháp Tấn Xã (Agence France Press: AFP), được trưng dẫn trong TKP(WS), 15-21 Tháng Ba 1979, trang 3.
27. Xem TKP(WS), 31 Tháng Năm – 6 Tháng Sáu 1979, trang 3 cho phần tóm lược các nhận xét của Wei Kuo-ch’ing và một bài xã luận của tờ Jen-min.
28. Xem TKP(WS), 7-13 Tháng Sáu 1979, trang 4 để có sự tường thuật về các anh hùng được tiếp kiến bởi họ Hoa, họ Đặng và Wang Tung-hsing.
29. Muốn có một sự trình bày về quan điểm của họ Chen [Trần Vân] về Chiến Tranh Việt Nam, xem South China Morning Post, 4 Tháng Tám 1979, trang 5.  Theo một bản tin của AFP từ Đài Bắc, họ Chen có tuyên bố Việt Nam “chỉ bị thương chút ít” trong cuộc chiến tranh với Trung Quốc … “Chúng ta không bẻ gẫy được các ngón tay của họ, mà chỉ làm chúng bị thương.  Ở một số khía cạnh chúng ta thực sự giúp sức họ”.  Bài viét có nói thêm rằng “ông Chen đã không khai triển nhưng nói ông khác biệt với Phó Thủ Tướng họ Đặng về việc này”.  Ông Chen đã binh vực cho ý kiến của mình trên căn bản của nền kinh tế can hệ: “Nhưng không có chiến tranh nào mà lại không dính líu với kinh tế”.
30. “Các Tổn Thất Của Việt Nam Được Tiết Lộ”, TKP(WS), 3-9 May 1979, trang 1; giả định có sự chính xác trong con số của họ Wu, điều được cảm nhận một cách tổng quát rằng bởi QĐGPNDTQ thực hiện các hành động tấn công đánh Việt Nam, hơn một nửa ttrong số 20,000 số tổn thất phải gánh chịu bởi QĐGPNDTQ là các quân nhân bị tử trận.  Nếu thế, trong hai tuần lễ, các lực lượng Trung Quốc đã gánh chịu đến 20 % số tử vong của các lực lượng Mỹ tại Việt Nam trong hơn 10 năm.
31. Liberation Army Daily (Nhật Báo Quân Đội Giải Phóng), không rõ nhật kỳ; được tóm tắt với vài trích dẫn, trong TKP(WS), 5 Tháng Tư 1979.  Bài viết đã không xuất hiện trên tờ Jen-min jih-pao.
32. Peking, 3 Tháng Ba 1979.
33. Đó là một sự thất bại về quân sự bởi nó đã không thành công trong các mục đích chính trị của nó, và bởi vì quân đội Trung Quốc, cho dù thi hành một cách can đảm, đã không phá tan được lực lượng, cần phải ghi nhớ, tinh nhuệ nhất của quân đội Việt Nam, mà thay vào đó, các binh sĩ phòng thủ hạng nhì.
34. Chang Ching-fu, “báo cáo về các trương mục nhà nước sau cùng cho năm 1978 và dự thảo ngân sách nhà nước cho năm 1979”, HNB, 30 Tháng Sáu 1979, các trang 29-30.
35. “Các Thành Quả của Quốc Hội Toàn Dân Của Trung Quốc Có Ý Nghĩa Gì đối với doanh nghiệp nước ngoài”, Business China (BC) (Hồng Kông), 11 Tháng Bẩy 1979, trang 94.
36. “Các Tổn Thất Của Việt Nam Được Tiết Lộ”, TKP(WS), 3-9 May 1979, trang 1 (trích dẫn một bài tường thuật của AFP từ Bắc Kinh).
37. Về các khía cạnh của sự tái lượng định kinh tế, xem: Melinda Liu, “China stops to rethink its development priorities”, Far Eastern Economic Review (FEER), 16 Tháng Ba 1979, các trang 106-108; Tracy Dahlby, “Peking’s delay worries Japan”, FEER, 16 Tháng Ba 1979, các trang 108-109; David Bonavia, “A revolution in the communes”, FEER 30 Tháng Ba 1979, các trang 8-9; David Bonavia, “China gambles on quick profits”, FEER 4 Tháng Năm 1979, các trang 80-81; David Bonavia, “At the root of the problem, FEER 11 Tháng Năm 1979, các trang 49-50; Melinda Liu, “Putting things in proportion, FEER 25 Tháng Năm [?1979], trang 74.
       Cũng xem, “Likely meaning, outcome of China’s suspension of contracts, slower buying”, BC, 7 Tháng Ba 1979, các trang 31-32; “Sino-Japanese talks to resolve problems of suspended deals”, BC, 21 Tháng Ba 1979, trang 39; “New Opportunities emerge as China reshuffles priorities”, BC, 4 Tháng Tư 1979, các trang 47-49; “Foreign exchange worries spur Peking’s drive for foreign co-operation”, BC, 16 Tháng Năm 1979, các trang 65-67.
       Nếu họ Đặng bị tổn thương về mặt chính trị bởi sự tái lượng định kinh tế, điều khả dĩ rằng sự giật lùi của sự tự do hóa chính trị cũng liên hệ với quyền lực bị sút giảm của họ Đặng.  Về sự cắt giảm, xem David Bonavia, “Human rights and wrongs”, FEER, 13 Tháng Tư 1979, các trang 13-14.  Bonavia đặt trách nhiệm cho sự cắt giảm trên vai họ Đặng.  Cũng xem, David Bonavia, “Retreating to conservatism”, FEER, 27 Tháng Tư 1979, các trang 13-14.
38. Đặc biệt quan trọng là các báo cáo của Hoa Quốc Phong, Yu Ch’iu-li, Chang Ching-fu và Phòng Thống Kê Nhà Nước, tất cả đều xuất hiện các các số phát hành cuối Tháng Sáu của HNB (bằng Anh ngữ), Jen-min jih-pao (bằng Hoa ngữ).
39. New York Times, 4 Tháng Hai 1979, trang 1.
40. MDN, 18 Tháng Hai 1979, trang 1.  Cũng xem, New York Times, 19 Tháng Hai 1979, trang 1 (đặc biệt bài viết của Bernard Gwertzman).   
41. HNB, 26 Tháng Hai 1979, trang 76; Jen-min, 26 Tháng Hai 1979, trang 6.
42. . Cùng nơi dẫn trên.
43.  Toàn thể văn bản bài diễn văn của Blumenthal đã không xuất hiện tại bất kỳ nguồn tin nào được trích dẫn trong bài viết này.  Nó được trao cho tôi bởi viên Tổng Lãnh Sự Hoa Kỳ tại Hồng Kông và được giả định được cung cấp trong các sưu tập các bài diễn văn của các nhân viên nội các tại các thư viện lớn.
44. Vào ngày 27 Tháng Hai, họ Đặng đã gặp gỡ ông Blumenthal; trong buổi gặp gỡ đó, Blumenthal hai lần đã cố gắng thảo luận về quan điểm của Hoa Kỳ đối với hành động quân sự của Trung Quốc tại Đông Dương.  Trong một cuộc phỏng vấn với một người Mỹ hiện diện tại buổi họp, tôi được nói cho biết rằng mỗi lần khi Blumenthal nêu lên vấn đề chiến tranh, họ Đặng đã khạc nhổ một cách sỗ sàng vào một ống nhổ kề cận để biểu lộ sự khó chịu của ông ta – có lẽ sự khinh thường – đối với sự chỉ trích của Carter.  Phỏng vấn, Hồng Kông, 1 Tháng Mười Một 1979.
45. Hồi ức của phía Trung Quốc về bài diễn văn của Blementhal thì dai dẳng và chua chát.  Trong một cuộc gặp gỡ mà tôi có với một viên chức Bộ Ngoại Giao Trung Quốc tại New York vào cuối Tháng Chín 1979, khi chúng tôi tái duyệt tình hình đưong thời tại Đông Nam Á, viên chức này đột nhiên nêu lên vấn đề quan điểm của Hoa Kỳ trên cuộc xung đột của Trung Quốc với Việt Nam, đặc biệt bài diễn văn của Blumenthal.  Ông ta nêu ý kiến rằng nếu người Mỹ trở nên không hài lòng về hành vi của Trung Quốc, ít nhất họ có thể giữ im lặng về điều đó.  Phỏng vấn, New York, 27 Tháng Chín 1979.
46. Tờ báo Prada tố cáo rằng các lời bình luận của Mỹ về các ý định của Trung Quốc trước khi Cuộc Chiến Tranh khởi sự thì “mơ hồ” và rằng “đã có các kẻ trong số các thân hữu người Mỹ của họ Đặng sẽ muốn dạy cho Việt Nam một bài học và trừng phạt họ một cách muộn màng cho sự thất trận nhục nhã bị gánh chịu bởi quân đội Mỹ tại Việt Nam”, Prada, 19 Tháng Hai 1979, được trưng dẫn trong MDN, 21 Tháng Hai 1979, trang 1.  Ngay trước khi có bài diễn văn của Gromyko, thí dụ, hãng thông tấn TASS đã bình luận rằng cuộc thăm viếng của Blumenthal “không có gì khác hơn là một cử chỉ chấp thuận cho các hành động của Trung Quốc chống lại Việt Nam”.  Được tường thuật trên New York Times, 27 Tháng Hai 1979 (bài viết từ Moscow bởi Craig Whitney).
47. Cùng nơi dẫn trên.  Tôi không loại bỏ rằng bởi Blumenthal lên tiếng tại Bắc Kinh hôm 25, các lời lẽ cứng rắn của ông đã được truyền thông và chấp nhận theo giá trị bề ngoài (nguyên xi) tại Moscow vào ngày 26 Tháng Hai.
48. Khi Blumenthal đến hội kiến với Hoa Quốc Phong một ngày sau khi đọc diễn văn, cuộc gặp gỡ bị trễ mất 45 phút.  Sự chậm trễ có thể có tính cách bất ngờ hay nó có thể là cách thức của Trung Quốc muốn bày tỏ sự khó chịu của nó với quan điểm của Mỹ.
49. Muốn có một bản tóm lược hay ho về tiến trình lập pháp và các lãnh vực quan tâm của Trung Quốc, xem MDN, 12 Tháng Tư 1979, trang 10.  Về cuộc gặp gỡ của Huang Hua (Hoàng Hoa) với Woodcock, xem Jen-min, 24 Tháng Ba 1979, trang 5.  Jen-min jih-pao đã không tường thuật về sự thông qua thực sự của Quốc Hội pháp chế hay việc ký ban hành pháp chế của Carter; một nhà quan sát đã cảm thấy rằng các sự bỏ sót này là các dấu hiệu kín đáo không chỉ cho sự bực bội mà cả cho sự kiện rằng ít nhất một số các nhà lãnh đạo Trung Quốc bị bối rối bởi các hành động của Hoa Kỳ.
50. Phỏng vấn, Bắc Kinh, 6 Tháng Sáu 1979.
51. Phỏng vấn, New York, 13 Tháng Sáu 1979.
52. Các sự lượng giá này đặt trên một sự liệt kê cẩn thận và lượng giá tất cả các bài viết của Jen-min jih-pao được ấn hành trong suốt các thời kỳ ấn định.
53. Một bải tường thuật bằng Anh ngữ đã xuất hiện trên tờ South China Morning Post, 13 Tháng Tám 1979, trang 8; và một bài viết bằng Hoa ngữ được in trên tờ Wen Wei Po (Hồng Kông), 12 Tháng Tám 1979, trang 1.  Các bài tường thuật thì tương tự, nhưng không giống hệt nhau.  Phần trích dẫn là từ tờ Post.
54. Prada, 19 Tháng Hai 1979; toàn thể bản văn trong tờ Information Bulletin, Vol. 17, số 7 (15 Tháng Tư 1979), các trang 7-8.
55. TKP(WS), 5-11 Tháng Tư 1979, trang 1.
56. New Times, số 18 (Tháng Tư 1979), trang 3.
57. Cuộc phỏng vấn họ Đặng với Hãng Thông Tấn Jiji News Agency được tường thuật bởi Reuters từ Bắc Kinh; trong TKP(WS), 17-23 Tháng Năm 1979, trang 1.
58. TKP(WS), 31 Tháng Năm – 6 Tháng Sáu 1979, trang 15; HNB, 28 Tháng Năm 1979.
59. New Times, số 24 (Tháng Sáu 1979), trang 2.
60. Bài diễn văn của họ Hoa đọc trước Quốc Hội Toàn Dân, được phổ biến bởi Hsin-hua (Tân Hoa Xã) ngày 25 Tháng Sáu 1979; trong HNB, 26 Tháng Sáu 1979, trang 53.
61. HNB, 25 Tháng Bẩy 1979, trang 21.
62. Cùng nơi dẫn trên.
63. Cùng nơi dẫn trên, 1 Tháng Tám 1979, trang 23.
64. New Times, số 30 (Tháng Bẩy 1979), các trang 22-23.  Bài viết trích dẫn các nhận xét của Lý Tiên Niệm hồi cuối năm 1978 rằng kinh tế Trung Quốc “ở vào một tình trạng trầm trọng” (theo từ ngữ của tờ New Times).  Các nhận xét của Hoa Quốc Phong liên quan đến Lin Piao (Lâm Bưu), “tứ nhân bang” và cuộc đấu tranh giai cấp được ghi nhận một cách mau chóng mặc dù không có tính cách tiêu cực.  Bài tường thuật ghi nhận rằng một Ủy Ban Quốc Gia về Tài Chính và Kinh Tế đã được thiết lập trực thuộc Hội Đồng Nhà Nước.  “Ủy ban được đứng đầu bởi Ch’en Yun (Trần Vân), một nhận vật hàng đầu trong Đảng và các hội đồng nhà nước trong thập niên 1960 và một chuyên viên về các vấn đề kinh tế quốc gia, chỉ mới được tái lập gần đây sau khi đã bị bạc đãi trong suốt ‘cuộc cách mạng văn hóa’”.  Họ Lý, họ Hoa, và họ Trần đã không bị mô tả một cách tiêu cực – và không có sự đê cập nào về họ Đặng được đưa ra.  Các sự tố giác theo nghi thức về chính sách ngoại giao của Trung Quốc có được bao gồm.
65. South China Morning Post, 13 Tháng Tám 1979, trang 9.
66. Hong Kong Standard, 22 Tháng Tám 1979, trang 6.
67. Trong Tháng Sáu và Tháng Bẩy 1979, Jen-min jih-pao đã ấn hành sáu bài viết tích cực về Ba Lan, bốn bài tích cực về mối nước Tiệp Khắc (Czechoslovakia) và Hung Gia Lợi, ba bài tích cực về Bulgaria và hai bài về CMEA./-
_____
Nguồn: Daniel Tretiak, China’s Vietnam War and Its Consequences, The China Quarterly 80 (1979), các trang 740-67.

Ngô Bắc dịch và phụ chú
10.09.2012    

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét