CHIẾN TRANH TRUNG QUỐC – VIỆT NAM 1979
Daniel Tretiak
University of Hong Kong
Member, National Committee of United States – China Relations
University of Hong Kong
Member, National Committee of United States – China Relations
Trung
Quốc và Liên Bang Sô Viết
Bắc Kinh được
giả định đã tính toán rằng sau hết Moscow sẽ
trao cho Hà Nội sự ủng hộ bằng miệng
nhưng sẽ kiềm chế việc tấn công Trung Quốc
nếu cuộc xung đột vẫn còn được hạn
chế. Các lời tuyên bố của Nga trong diễn tiến
cuộc xung đột có khuynh hướng chứng thực
sự giả định này, mặc dù đã có một số
thời khắc khó chịu tại Bắc Kinh. Vào lúc khởi
đầu cuộc xung đột, Moscow có biểu lộ rằng
các ý định của nó để tham dự vào cuộc
xung đột vẫn chưa được quyết định
mà đúng hơn tùy thuộc vào sự phát triển của
các biến cố trong tương lai. Lời tuyên bố
cho rằng:
Nhân dân Việt Nam
anh hùng, đang trở thành nạn nhân của một cuộc
xâm lược mới, có đủ năng lực để
tự mình đứng vững trong dịp này cũng
như đặc biệt vì nó có các người bạn
đáng tin cậy. Liên Bang Sô Viết sẽ chu toàn các
nghĩa vụ của mình mà nó đã cam kết chiếu
theo hiệp ước hữu nghị và hợp tác giữa
LBSV và CHXHCHVN [phần nhấn mạnh được thêm
vào bởi tác giả].
Phía Nga cảm thấy
Việt Nam có thể dối phó với Trung Quốc tự
mình – một niềm tin được chứng minh.
Nhưng phía Nga cảnh cáo một cách mặc nhiên rằng nếu
sự lượng giá bị chứng tỏ là sai, khi đó
Sô Viết sẽ xem trọng các nghĩa vụ theo hiệp ước
của họ -- và phía Trung Quốc (hay bất kỳ người
nào khác đang lắng nghe) cần phải biết như thế.
Trong suốt cuộc xung đột phía Nga đã đưa
ra các lời cảnh cáo đên phía Trung Quốc hãy đừng
mở rộng các giới hạn của họ trong cuộc
xung đột với Việt Nam đi quá xa. Hơn nữa,
chủ đề sự dung chấp hay thông đồng của
Mỹ (và Anh) trong các hành động của Trung Quốc chống
Việt Nam đã được nêu lên.
Một khi các bộ
đội Trung Quốc đã triệt thoái ra khỏi Việt
Nam và quyết định đã được lấy
để khởi sự các cuộc hòa đàm Trung – Việt,
sự lượng định tốt nhất về các
hành động của người Nga đối với nỗ
lực tại Việt Nam của Trung Quốc rằng Sô Viết
đã cư xử một cách mỉa mai, phù hợp với
một kịch bản “tốt nhất có thể được”.
Phía Nga đã cảnh cáo, chỉ trích và trao cho Việt Nam sự
ủng hộ quân sự và bằng miệng – nhưng họ
đã không can thiệp vào cuộc xung đột. Họ
đã cư xử một cách thận trọng, mặc dù,
dĩ nhiên, Trung Quốc đã không mang lại cho họ lý do
mạnh mẽ để hành xử một cách nào khác. Thái
độ của Nga trong cuộc chiến tranh là như thế
đó, ngay dù phía Trung Quốc đã phải tống đạt
cáo tri cho Liên Bang Sô Viết trong Tháng Tư 1979 rằng Hiệp
Ước Hữu Nghị, Liên Minh, và Trợ Giúp Hỗ
Tương Trung Quốc – Sô Viết (ký kết trong năm
1950) sẽ bị bãi bỏ trong Tháng Tư 1980, họ
cũng hoàn toàn không được kỳ vọng lại có
thể “đề nghị với Chính Phủ Sô Viết rằng
các cuộc thương thảo sẽ được tổ
chức giữa Trung Quốc và Liên Bang Sô Viết hầu tìm
kiếm giải pháp cho các vấn đề còn lại và sự
cải thiện các quan hệ giữa hai nước”. 55
Sự kiện này bắt
đầu một tiến trình lên đến cực điểm
trong một quyết định bởi Moscow và Bắc Kinh
để khởi sự các cuộc thương thảo tại
Moscow trong Tháng Chín 1979, ở cấp thứ trưởng ngoại
giao.
Giữa Tháng Tư
và Tháng Tám 1979, nhiều cuộc đấu khẩu đã diễn
ra về các cuộc đàm phán. Niên biểu giải trình
dưới đây cho thấy tiến trình trắc trở,
song chưa hoàn tất đó của “các cuộc
thương thuyết về các sự thương thuyết’’
giữa Trung Quốc và Sô Viết, tiếp theo sau quyết
định của Trung Quốc muốn bãi bỏ Hiệp
Ước 1950:
17 Tháng Tư: Ngoại
Trưởng Sô Viết Gromyko trao cho Đại Sư Wang
Yu-p’ing một văn thư cho rằng: “Phía Sô Viết chờ
đợi phía Trung Quốc … thông báo cho nó [Liên Sô] các quan
điểm của Trung Quốc liên quan đến mục
đích và các mục tiêu của các cuộc đàm phán. Nếu
một sự thỏa thuận đạt được về
điểm này, sẽ có thể thảo luận vấn
đề mức độ của các cuộc đàm phán và
địa điểm”. 56
18 Tháng Tư: Các cuộc
thương thảo Trung – Việt bắt đầu tại
Hà Nội.
16 Tháng Năm: Trong một
cuộc phỏng vấn với một cơ quan thông tấn
Nhật Bản, họ Đặng cho hay “rằng sẽ
không có sự cải thiện lớn lao trong các quan hệ
Trung Quốc – Sô Viết ‘trừ khi Nga từ bỏ chính
sách bá quyền và đế quốc chủ nghĩa xã hội
của nó. Tôi không tin họ sẽ từ bỏ chính sách bá
quyền và chủ nghĩa bành trướng’”. 57
25 Tháng Năm: Phía Sô
Viết kín đáo biểu lộ sự chú ý của họ
đến đề nghị của Trung Quốc về các
cuộc đàm phán, bất kể sự ngờ vực của
họ Đặng, khi Liên Hiệp Các Hội Hữu Nghị
và Quan Hệ Văn Hóa với Các Nước Ngoài và Hội
Thân Hữu Sô Viết – Trung Quốc hội họp để
kỷ niệm 60 năm Phong Trào Ngũ Tứ (ngày 5 tháng 4). 58
3 Tháng Sáu: Một nhà
ngoại giao nước thứ ba được trích dẫn
trong các nhận định cuối Tháng Năm bởi một
viên chức cao cấp thuộc Bộ Ngoại Giao Trung Quốc,
rằng phía Trung Quốc mong muốn các cuộc đàm phán
không chỉ bàn về các vấn đề song phương,
mà còn cả các vấn đề quốc tế gây ra sự
căng thẳng trong các quan hệ Trung Quốc – Sô Viết
(phỏng vấn với tác giả).
4 Tháng Sáu: Gromyko trao một
văn thư cho xử lý thường vụ đại sứ
Trung Quốc, T’ien Tseng-p’ei, tuyên bố rằng Liên Bang Sô Viết
đã chuẩn bị để khởi sự các cuộc
đàm phán với Trung Quốc “với một quan điểm
nhằm bình thường hóa và cải thiện các quan hệ
song phương trên căn bản của các nguyên tắc sống
chung hòa bình … Liên Bang Sô Viết đề nghị rằng
các cuộc đàm phán sẽ được tổ chức
tại Moscow trong Tháng Bẩy hay Tháng Tám và nói Liên Sô xét thấy
thuận tiện rằng chúng sẽ được thực
hiện bởi các thứ trưởng ngoại giao hay các
đại điện được bổ nhiệm đặc
biệt”. 59
18 Tháng Sáu: Hiệp
Ước SALT II được ký kết tại Vienna giữa
Hoa Kỳ và Liên Bang Sô Viết.
18 Tháng Sáu: Hoa Quốc
Phong trong một bài diễn văn trước QHTD tại Bắc
Kinh đề cập đến đề nghị của
Trung Quốc để có các cuộc đàm phán “nhằm giải
quyết các vấn đề còn lại và để cải
thiện các quan hệ giữa hai nước … Chính Phủ
Sô Viết giờ đây đã đồng ý mở các cuộc
thương thảo và còn biểu lộ sự sẵn sàng
của nó để bao gồm nguyên tắc chống bá quyền
vào các cuộc thương thảo này. Nhưng điều
này có làm thay đổi bản chất của vấn đề
hay không? …” 60
30 Tháng Sáu: Máy bay trực
thăng Sô Viết đột nhập vào Tân Cương,
nhưng không được tường thuật bởi
Tân Hoa Xã mãi cho tới ngày 24 Tháng Bảy. 61
16 Tháng Bảy:
Hai người Trung Quốc bị tấn công, một bị
chết tại Tân Cương. Sự phản kháng của
Bộ Ngoại Giao Trung Quốc không được
đưa ra mãi cho đến hôm 24 Tháng Bảy, tuyên bố:
“Phía Sô Viết đã cân nhắc để tạo ra một
biến cố khiêu khích và đổ máu tại biên giới
vào một thời điểm khi các sự thỏa thuận
cụ thể đang được thảo luận cho các
cuộc thương thảo về các quan hệ giữa
Trung Quốc và Liên Bang Sô Viết. Điều này không thể
tác dụng gì ngoài việc thu hút sự chú ý nghiêm trọng của
phía Trung Quốc”. 62
Cuối Tháng Bẩy:
Tạp chí New Times [Nga Sô] ấn hành một sự tường
trình phê phán ôn hòa nhưng nói chung xác thực về phiên họp
của Quốc Hội Toàn dân Trung Quốc. 63
31 Tháng Bẩy: Bộ
Trưởng Quốc Phòng Hsu Hsiang ch’ien, trong bài diễn
văn diễn văn của ông nhân Ngày QĐGPNDTQ đã
không đưa ra các ý kiến chống Sô Viết. Tuy nhiên,
ông có tuyên bố: “Đối diện với tình hình quốc
tế xáo trộn hiện nay, chúng ta phải đề cao cảnh
giác gấp một trăm lần, thực hiện các sự
chuẩn bị hữu hiệu chống lại một cuộc
chiến tranh xâm lược và chu toàn trách nhiệm của
chúng ta trong việc phòng thủ tổ quốc và
chương trình hiện đại hóa xã hội chủ
nghĩa của mình và bảo toàn hòa bình thế giới”. 64
7 Tháng Tám: Hiệp
định mậu dịch Trung Quốc – Sô Viết được
ký kết tại Moscow; mậu dịch năm 1978 cao nhất
trong nhiều năm.
10 Tháng Tám: Phiên họp
của Liên Hiệp Các Hội Hữu Nghị và Quan Hệ
Văn Hóa với các Nước Ngoài. Chủ đề: “hữu
nghị với Trung Quốc”. 65
21 Tháng Tám: Hãng Thông tấn
UPI (United Press International) tường thuật từ Moscow rằng
Trung Quốc muốn có các cuộc đàm phán thảo luận
về các lãnh vực quốc tế và song phương trong
cuộc tranh cãi giữa Sô Viết – Trung Quốc. Ngay cả
nghị trình cũng không được ấn định.
Wang Yu-p’ing, giờ đây là một thứ trưởng, “sẽ
cầm đầu phía Trung Quốc, Leonid Ilychev cầm đầu
phía Sô Viết. 66
Niên biểu này không
bao gồm các lời chỉ trích sắc bén của Trung Quốc
về chính sách ngoại giao của Sô Viết và các lời lẽ
đáp trả không kém sắc bén. Dù thế, ngay khi các sự
chỉ trích này được tuôn ra trong thời kỳ từ
Tháng Tư – Tháng Bẩy 1979, Các Chính Phủ Trung Quốc và
Sô Viết, bằng các hành vi của họ và trong một số
trường hợp qua lời nói, đã cố gắng duy
trì động năng của việc khởi sự các cuộc
thương thảo vốn đã được bắt
đầu trong Tháng Tư. Các lời chỉ trích các lãnh tụ
của mỗi nước bị tắt tiếng; các sự
tường thuật của Trung Quốc về các vụ bị
cáo giác là xâm nhập biên giới của Sô Viết được
trì hoãn; cả hai phía tái xác nhận sự chú ý của họ
đến việc mở các cuộc thương thảo,
mặc dù đã và sẽ tiếp tục gặp khó khăn
để hình thành một nghị trình khả dĩ sẽ được
chấp thuận hỗ tương. Các nỗ lực để
mở màn các cuộc thương thảo vẫn tiếp tục.
Hơn nữa, mặc dù các sự chỉ trích của Trung
Quốc về các chính sách đối nội và ngoại giao
của Sô Viết vẫn tiếp tục trong mùa hè 1979, các ý
kiến của Trung Quốc về các quốc gia Đông Âu
thân Sô Viết chẳng hạn như Hungary, Poland, Bulgaria, Cộng
Hòa Dân Chủ Đức và Tiệp Khắc đã gia tăng
và nói chung thì tích cực.
Các lợi điểm
của sự cắt giảm căng thẳng đối với
cả hai quốc gia thì rõ ràng, ngay dù chúng không xảy ra tức
thời trong các cuộc thương thảo hữu hiệu.
Đối với Trung Quốc, kinh nghiệm quân sự của
nó tại Việt Nam phô bày sự yếu kém của nó trong
việc giao tranh dù với một nước chư hầu
của Sô Viết, khoan nói tới Liên Bang Sô Viết. Trung Quốc
cần hòa bình chứ không phải chiến tranh trong giai
đoạn này của cuộc phát triển kinh tế của
nó. Để mua “không gian hít thở”, ngay một hiệp
định tạm thời với Liên Bang Sô Viết
cũng sẽ hữu dụng. Gạt bỏ tính thiết
thực sang một bên, thương thảo với giới
lãnh đạo hiện thời cho phép Trung Quốc thực
hiện các mong ước của nó cho một sự hòa hoãn
giới hạn được hay biết không chỉ với
một Brezhnev già nua, mà còn với những kẻ kế vị
ông ta. Trung Quốc đã không chuẩn bị cho sự loại
bỏ Khrushchev hồi năm 1964 và đã không lợi dụng
được mấy biến cố đó; thời kỳ
của sự lãnh đạo của Brezhnev giờ đây
đang tiến dần đến sự kết thúc và phía
Trung Quốc được nghĩ đã mong muốn có được
một cảm nhận về thế hệ kế nhiệm
tại Moscow. Nhưng nằm bên dưới các chuyển
động tế nhị của Trung Quốc nhằm cố
gắng thương thảo với một Moscow ngoan cố
và mạnh mẽ là hai cảm nghĩ khác tại Bắc
Kinh: không chỉ là Trung Quốc đã không làm lợi cho chính
nó bằng việc từ khước không thương thảo
với Liên Bang Sô Viết) (điều đã không được
chứng minh là quá rầy rà trong cuộc Chiến Tranh Trung –
Việt), nhưng Hoa Kỳ (và Nhật Bản) hoàn toàn thiếu
ý chí để đề kháng trước Moscow. Qua việc
ký kết Hiệp Ước SALT II, một sự thỏa
thuận mà phía Trung Quốc đã và vẫn còn chỉ trích mạnh
mẽ và nghi ngờ, Hoa Kỳ đã ra dấu hiệu cho
Trung Quốc rằng nó vẫn cảm thấy Liên Bang Sô Viết
còn là một đối thủ đáng tin cậy. Trung Quốc
không đồng ý – nhưng sẽ phải khởi sự
các cuộc thương thảo của chính nó với Moscow
để tự bảo vệ. Hoa Kỳ, khoan nói đến
Nhật Bản, sẽ không trợ giúp Trung Quốc về mặt
quân sự, và không có giới lãnh đạo của nước
nào lại sẵn lòng thừa nhận và đối phó một
cách mạnh mẽ với mối đe dọa đên hòa
bình thế giới phát sinh từ Liên Bang Sô Viết.
Về phần Liên Bang
Sô Viết, sự cắt giảm căng thẳng với
Trung Quốc sẽ không chỉ cho phép nó tăng cường
vị thế vũ lực tại Đông Âu, mà còn sẽ rảnh
tay để tích cực hơn tại Trung Đông và Phi
Châu. Ngoài ra, với sự hiểu biết của phía Nga về
sự yếu kém quân sự của Trung Quốc cũng như
sự yếu kém kinh tế của Việt Nam, khả tính
đã hiện hữu cho Sô Viết sử dụng các ảnh
hưởng của nó để làm dễ dàng cho một sự
hưu chiến khắt khe, có vũ trang giữa Trung Quốc
và Việt Nam. Một kết quả như thế sẽ vẫn
giữ Việt Nam như một nước chư hầu,
nhưng cũng có thể làm giảm bớt nhu cầu của
Sô Viết để cam kết quá nhiều sự ủng hộ
quân sự, kinh tế và tài chính cho Hà Nội. Hơn thế,
qua việc thương thảo ngay dù các thành công nhỏ với
Trung Quốc, Moscow cũng có thể biểu thị
được các ý định hòa bình của nó trên toàn cầu.
Mặc dù Liên Bang Sô Viết đã không có một Kissinger sẵn
sàng chắp cánh để bay một cách ngoạn mục
đên Bắc Kinh, nếu Moscow có thể hạ thấp nhiệt
độ của sự thù nghịch hiện có với Trung
Quốc, đó sẽ không phải là một thành quả nhỏ.
Nó có thể, thí dụ, đặt ra khuôn khổ cho việc
thương nghị với khu vực khó khăn khác của
Liên Bang Sô Viết tại Á Châu, Nhật Bản.
Kết
Luận
Cuộc Chiến
Tranh Trung Quốc – Việt Nam trong và tự bản thân có thể
xem ra là một cuộc xung đột nhỏ, nhưng tác
động của nó thì lớn hơn những gì đã có
thể sẵn được nghĩ ra bởi vì thời
điểm của nó. Sự tái lượng định
kinh tế đã bắt đầu; chiến tranh nhấn mạnh
nhu cầu thu vén các tài nguyên khan hiếm một cách cẩn
trọng hơn và canh chừng các nhà lãnh đạo binh vực
chién tranh và các kế hoạch kinh tế vĩ đại của
năm 1978. Chiến tranh cũng phô bày cho thấy vị thế
của Trung Quốc trong hệ thống quốc tế vẫn
còn mong manh và rằng điều sẽ trở nên cần
thiết để khai mở các đường hướng
mới, dù xem ra không ngon lành gì, nhằm thông đạt và
thương thảo với Liên Bang Sô Viết – một sự
nguyền rủa đối với họ Đặng,
nhưng không phải đối với kẻ hiện thực
bảo thủ về kinh tế, kẻ đã nhìn thấy rằng
Trung Quốc phải có hòa bình, không nhất thiết với
bất cứ giá nào, nhưng hòa bình nếu nó có thể thụ
đắc được từ một giới lãnh đạo
già nua và biến đổi tại Moscow. Mối quan hệ
Trung Quốc – Mỹ có thể lôi kéo người Nga trở
nên thẳng thắn hơn với phía Trung Quốc, nhưng
Trung Quốc đã hiểu biết với các biến cố
từ 17 Tháng Hai đến 18 Tháng Sáu (sự ký kết hiệp
ước SALT II) rằng Hoa Kỳ thì ít đáng tin cậy
hơn nhiều mức mà họ Đặng và nhiều
người Trung Quốc khác có thể đã nghĩ./-
---
CHÚ THÍCH
* Tôi xin cảm ơn người
phụ khảo của tôi, Chung Wei-chieh, về sự nghiên cứu
siêng năng và các cuộc thảo luận hăng hái của
anh ta về một số vấn đề nào đó
được nêu lên trong bài viết này. Tôi cũng xin cám
ơn Tiến Sĩ K. S. Chern và F. M. Scollard thuộc Đại
Học University of Hong Kong, và Lois Tretiak thuộc cơ quan
Business International Asia/Pacific (Hong Kông) về ý kiến của
quý vị. Tôi xin thừa nhận với lòng hân hoan sự ủng
hộ quảng đại của Hội Đồng Canada
cho công tác nghiên cứu của tôi tại Hồng Kông.
1. Muốn có trọn vẹn
bản văn, xem New Times (Moscow), số 46 (Tháng Mười
Một 1978), các trang 6-7. Điều 6 quy định: “Trong trường
hợp một trong các bên trở nên đối tượng
của sự tấn công hay một sự đe dọa tấn
công, giới Cao Cấp của Các Bên Kết Ước sẽ
tức thời khởi sự các sự tham khảo hỗ
tương nhắm mục đích tháo bỏ mối đe
dọa đó và thực hiện các biện pháp hữu hiệu
thích đáng hầu bảo đảm hòa bình và an ninh của
đất nước họ”.
2. Sau khi cuộc xung đội
khởi sự, phía Trung Quốc đã công bố một sự
tường thuật đầy đủ về số các
vụ khiêu khích mà họ cho rằng Việt Nam đã thực
hiện kể từ năm 1975 trở vê sau. Tôi đã cảm
thấy trước đây rằng trong năm 1976 phía Việt
Nam đã mưu toan lợi dụng các khó khăn nội
địa của Trung Quốc để quấy rối
sườn phía nam của Trung Quốc. Trong khi các dữ liệu
của Trung Quốc không thể nói là xác quyết, chúng vẫn
đáng chú ý:
Năm Số
Vụ Khiêu Khích
1974 121
1975 439
1976 986
1977 752
1978
1108
1979 129
(Jen-min
jih-pao: Nhân Dân Nhật Báo, 27 Tháng Hai, 1019, trang 1.)
Do đó, danh sách
cho thấy trong năm 1976, các vụ khiêu khích bị cáo giác
đã gia tăng một cách mau chóng, giảm xuống trong
năm 1977 khi Trung Quốc và Việt Nam cố gắng chắp
vá các quan hệ (nhưng thất bại), và lại lên cao
trong năm 1978 khi sự căng thẳng gia tăng một
lần nữa. Trong một cuộc phỏng vấn với
một viên chức ngoại giao Trung Quốc tại Bắc
Kinh khi đang có chiến tranh, tôi đã dò hỏi rằng liệu
ông có cảm thấy rằng trong năm 1976 phía Việt Nam
có thể đã khai thác các vấn đề trong giới
lãnh đạo tại Trung Quốc (và phô bày sự bực dọc
của họ đối với sự hậu thuẫn của
Trung Quốc dành cho Pol Pot) qua việc gia tăng áp lực tại
biên giới hay không. Viên chức này đã trả lời,
“Tôi không biết, ông sẽ phải hỏi phía Việt Nam về
điều đó (2 Tháng Ba, 1979).
3. Thành ngữ này
được dùng lần đầu tiên bởi họ
Đặng trong một cuộc phỏng vấn truyền
hình khi đang ở Hoa Kỳ. Xem Jen-min (Nhân Dân), 30
Tháng Một 1979. Lý Tiên Niệm dùng thành ngữ này một lần
nữa vào ngày 12 Tháng hai, Jen-min, 12 Tháng Hai 1979.
4. Time, 5 Tháng Hai 1979,
trang 16.
5. “U.S.A. – China”, New Times,
số 7 (Tháng Hai 1979), trang 7. Muốn có sự quan ngại của
Sô Viết về các vụ bán vũ khí khả hữu của
Mỹ cho Trung Quốc, xem Mainichi Daily News (MDN), 29
Tháng Một 1979, trang 3; muốn có sự tường thuật
của tờ Izvestiia về mối quan tâm đến
một liên minh tam giác giữa Nhật Bản - Hoa Kỳ -
Trung Quốc, xem MDN, 31 Tháng Một 1979, trang 9; muốn
có một sự phê bình cũa hãng thống tân TASS của
Nga về sự “thông đồng`” giữa Hoa Kỳ và
Trung Quốc, xem MDN, 3 Tháng Hai 1979, trang 1.
6. Tóm lược trong tờ
New York Times, 30 Tháng Một 1979, trang 9; toàn thể bản
văn trong Bulletin, Department of State, Tháng Ba 1979, các
trang 1-2.
7. New York Times, 31
Tháng Một 1979, trang 1.
8. Cùng nơi dẫn
trên, trang 6.
9. Cùng nơi dẫn
trên, 1 Tháng Hai 1979 (bài viết của ký giả Fox
Butterfield).
10. Như được
tường thuật trên tờ Hsin-hua News Bulletin (HNB),
4 Tháng Hai 1979, trang 25.
11. HNB, 6 Tháng Hai 1979,
trang 33.
12. Cùng nơi dẫn
trên, trang 32.
13. New York Times, 1
Tháng Hai 1979, trang A17.
14. “Joint Press Communiqué” (Bản
Thông Báo Báo Chí Chung), 1 Tháng Hai 1979; trong Bulletin, U.S. Department of
State (Tháng Ba 1979), trang 11. New York Times (2 Tháng Hai 1979),
trang A9, đã tường thuật rằng phía Trung Quốc
chỉ muốn dùng từ ngữ duy nhất “bà quyền:
hegemony” trong bản tuyên bố; phía Hoa Kỳ, cảm nhận
được các phản ứng khả hữu của Sô
Viết, đã thêm vào nhóm chữ “và thống trị: and
domination” hy vọng làm giảm bớt các sự quan ngại
của Sô Viết. Nỗ lực này đã không thành công.
15. Từ Cuộc Họp
Báo của Tổng Thống Carter hôm 12 Tháng Hai 1979, trong tờ
Bulletin, U.S. Department of State, Tháng Ba 1979, trang 33.
16. Xem Daniel Tretiak, “The
Sino-Japanese Treaty of 1978: The Senkaku Incident prelude”, Asian Survey,
Vol. XVII, số 12 (Tháng Mười Hai 1978), các trang 1235-49,
đặc biệt các trang 1246-48.
17. Trong Tháng Mười,
ngay trước và trong khi có cuộc thăm viếng của
họ Đặng tại Nhật Bản, tôi đã thảo
luận mối quan hệ Nhật Bản – Trung Quốc với
một số thành viên của Diet (Thượng và Hạ Nghị
Viện Nhật Bản), tôi xin cám ơn họ về cái
nhìn thấu triệt và sự thẳng thắn: các quan
điểm theo sau được dựa trên các cuộc phỏng
vấn dài, cẩn trọng và đôi khi hào hứng đó. Lời
hứa giữ bí mật khiến tôi không được nêu
tên những ai tôi đã nói chuyện, ngoài trừ nói rằng
các người đối thoại là các nhân viên Quốc Hội
đại diện cho tất cả các đảng phái chính
yếu; và trong trường hợp thuộc Đảng Tự
Do Dân Chủ (Liberal Democratic Party: LDP), là thành viên của các
phe phái chính (thí dụ phe Fukuada và Ohira) cũng như các nhóm
không chính thức (thí dụ, Seirankai).
18. Mainichi Daily News, 8
Tháng Hai 1979, trang 1; Jen-min, 7-8 Tháng Hai 1979; New York Times,
7-8 Tháng Hai 1979.
19. MDN, 8 Tháng Hai 1979,
trang 1.
20. New York Times, 8
Tháng Hai 1979. Cũng xem bải tường thuật nhã nhặn
về cuộc ghé chân của họ Đặng tại Tokyo
trong HNB, 8 Tháng Hai 1979, các trang 4-5; cũng xem các sự
tường thuật trong Jen-min, 8 Tháng Hai 1979, trang 1.
Muốn có lời bình luận của Sô Viết, xem
“Japan-China”, New Times, số 8 (Tháng Hai 1979), các trang 9 và
11.
21. Jen-min, 9 Tháng Hai
1979, trang 1.
22. Tôi đã hứa với
tất cả các người được phỏng vấn
trong thời kỳ này về việc giữ bí mật và vì
thế không thể nêu các danh tính. Tuy nhiên, các cuộc phỏng
vấn được dàn trải theo diễn tiến của
cuộc xung đột và với các nhân viên Bộ Ngoại
Giao (MFA) thông thạo và phát biểu mạch lạc. Chủ
đề “việc ra dấu hiệu” được khai
triển sau cuộc lưu trú của tôi tại Bắc Kinh,
đặc biệt trong các cuộc thảo luận với
một số các chuyên viên Úc Đại Lợi về Trung
Quốc trong Tháng Bẩy 1979.
23. Một số các chuyên
viên tại Hồng Kông và nơi khác cảm thấy rằng
trong thực tế đó là một cuộc phản công.
24. Các sự lượng
giá này được dựa, một phần, trên sự
nhìn thấy của tôi một số lượng đông
đảo các máy bay MIG-17 tại phi trường Côn Minh vào
giữa Tháng Ba 1979.
25. Phỏng vấn tại
Bắc Kinh, 28 Tháng Hai 1979.
26. Jen-min, 26 Tháng Ba 1979,
các trang 1 và 4. Cả hai đều chào mừng sự chiến
thắng của các binh sĩ Trung Quốc, cho dù các nhận
xét của họ không nồng nhiệt. Cũng xem câu chuyện
ít ồn ào về sự trở về của “các bộ
đội biên phòng” ở P’ing-hsiang (Bằng Tường),
Quảng Tây trên tờ Ta Kung Pao (Phụ Trang Hàng Tuần),
(TKP(WS)), 15-21 Tháng Ba 1979, trang 1. Trong một cuộc phỏng
vấn bao quát hôm 11 Tháng Ba với viên đại sứ Thái Lan
rời nhiệm sử, Đặng Tiểu Bình cho thấy
rằng “Trung Quốc đã phô bày Việt Nam là ‘không quá hùng
mạnh’”; về ‘bài học” mà Trung Quốc đã trao cho giới
lãnh đạo Hà Nội, họ Đặng nói rằng cuộc
hành quân đã “tìm cách giảm bớt cách nào đósự tự
cao tự đại mà họ có trong đầu, nhưng họ
vẫn còn có nhiều sự khoa trương trong đầu
của họ’”, bản tin của Pháp Tấn Xã (Agence
France Press: AFP), được trưng dẫn trong TKP(WS),
15-21 Tháng Ba 1979, trang 3.
27. Xem TKP(WS), 31 Tháng Năm
– 6 Tháng Sáu 1979, trang 3 cho phần tóm lược các nhận
xét của Wei Kuo-ch’ing và một bài xã luận của tờ Jen-min.
28. Xem TKP(WS), 7-13
Tháng Sáu 1979, trang 4 để có sự tường thuật
về các anh hùng được tiếp kiến bởi họ
Hoa, họ Đặng và Wang Tung-hsing.
29. Muốn có một sự
trình bày về quan điểm của họ Chen [Trần
Vân] về Chiến Tranh Việt Nam, xem South China Morning Post,
4 Tháng Tám 1979, trang 5. Theo một bản tin của AFP từ
Đài Bắc, họ Chen có tuyên bố Việt Nam “chỉ bị
thương chút ít” trong cuộc chiến tranh với Trung Quốc
… “Chúng ta không bẻ gẫy được các ngón tay của
họ, mà chỉ làm chúng bị thương. Ở một
số khía cạnh chúng ta thực sự giúp sức họ”.
Bài viét có nói thêm rằng “ông Chen đã không khai triển
nhưng nói ông khác biệt với Phó Thủ Tướng họ
Đặng về việc này”. Ông Chen đã binh vực cho
ý kiến của mình trên căn bản của nền kinh tế
can hệ: “Nhưng không có chiến tranh nào mà lại không
dính líu với kinh tế”.
30. “Các Tổn Thất Của
Việt Nam Được Tiết Lộ”, TKP(WS), 3-9
May 1979, trang 1; giả định có sự chính xác trong con số
của họ Wu, điều được cảm nhận
một cách tổng quát rằng bởi QĐGPNDTQ thực hiện
các hành động tấn công đánh Việt Nam, hơn một
nửa ttrong số 20,000 số tổn thất phải gánh
chịu bởi QĐGPNDTQ là các quân nhân bị tử trận.
Nếu thế, trong hai tuần lễ, các lực lượng
Trung Quốc đã gánh chịu đến 20 % số tử
vong của các lực lượng Mỹ tại Việt Nam
trong hơn 10 năm.
31. Liberation Army Daily (Nhật
Báo Quân Đội Giải Phóng), không rõ nhật kỳ; được
tóm tắt với vài trích dẫn, trong TKP(WS), 5 Tháng
Tư 1979. Bài viết đã không xuất hiện trên tờ
Jen-min jih-pao.
32. Peking, 3 Tháng Ba 1979.
33. Đó là một sự
thất bại về quân sự bởi nó đã không thành
công trong các mục đích chính trị của nó, và bởi
vì quân đội Trung Quốc, cho dù thi hành một cách can
đảm, đã không phá tan được lực lượng,
cần phải ghi nhớ, tinh nhuệ nhất của quân
đội Việt Nam, mà thay vào đó, các binh sĩ phòng thủ
hạng nhì.
34. Chang Ching-fu, “báo cáo về
các trương mục nhà nước sau cùng cho năm 1978
và dự thảo ngân sách nhà nước cho năm 1979”, HNB,
30 Tháng Sáu 1979, các trang 29-30.
35. “Các Thành Quả của
Quốc Hội Toàn Dân Của Trung Quốc Có Ý Nghĩa Gì
đối với doanh nghiệp nước ngoài”, Business
China (BC) (Hồng Kông), 11 Tháng Bẩy 1979, trang 94.
36. “Các Tổn Thất Của
Việt Nam Được Tiết Lộ”, TKP(WS), 3-9
May 1979, trang 1 (trích dẫn một bài tường thuật của
AFP từ Bắc Kinh).
37. Về các khía cạnh
của sự tái lượng định kinh tế, xem:
Melinda Liu, “China stops to rethink its development priorities”, Far
Eastern Economic Review (FEER), 16 Tháng Ba 1979, các trang 106-108; Tracy
Dahlby, “Peking’s delay worries Japan”, FEER, 16 Tháng Ba 1979, các
trang 108-109; David Bonavia, “A revolution in the communes”, FEER 30
Tháng Ba 1979, các trang 8-9; David Bonavia, “China gambles on quick profits”, FEER
4 Tháng Năm 1979, các trang 80-81; David Bonavia, “At the root of the
problem, FEER 11 Tháng Năm 1979, các trang 49-50; Melinda Liu,
“Putting things in proportion, FEER 25 Tháng Năm [?1979], trang 74.
Cũng xem, “Likely
meaning, outcome of China’s suspension of contracts, slower buying”, BC,
7 Tháng Ba 1979, các trang 31-32; “Sino-Japanese talks to resolve problems of
suspended deals”, BC, 21 Tháng Ba 1979, trang 39; “New Opportunities
emerge as China reshuffles priorities”, BC, 4 Tháng Tư 1979, các
trang 47-49; “Foreign exchange worries spur Peking’s drive for foreign
co-operation”, BC, 16 Tháng Năm 1979, các trang 65-67.
Nếu họ Đặng
bị tổn thương về mặt chính trị bởi
sự tái lượng định kinh tế, điều khả
dĩ rằng sự giật lùi của sự tự do hóa
chính trị cũng liên hệ với quyền lực bị
sút giảm của họ Đặng. Về sự cắt
giảm, xem David Bonavia, “Human rights and wrongs”, FEER, 13 Tháng
Tư 1979, các trang 13-14. Bonavia đặt trách nhiệm cho sự
cắt giảm trên vai họ Đặng. Cũng xem, David
Bonavia, “Retreating to conservatism”, FEER, 27 Tháng Tư 1979, các
trang 13-14.
38. Đặc biệt
quan trọng là các báo cáo của Hoa Quốc Phong, Yu Ch’iu-li,
Chang Ching-fu và Phòng Thống Kê Nhà Nước, tất cả
đều xuất hiện các các số phát hành cuối
Tháng Sáu của HNB (bằng Anh ngữ), Jen-min jih-pao
(bằng Hoa ngữ).
39. New York Times, 4
Tháng Hai 1979, trang 1.
40. MDN, 18 Tháng Hai
1979, trang 1. Cũng xem, New York Times, 19 Tháng Hai 1979, trang
1 (đặc biệt bài viết của Bernard Gwertzman).
41. HNB, 26 Tháng Hai
1979, trang 76; Jen-min, 26 Tháng Hai 1979, trang 6.
42. . Cùng nơi dẫn
trên.
43. Toàn thể văn bản
bài diễn văn của Blumenthal đã không xuất hiện
tại bất kỳ nguồn tin nào được trích dẫn
trong bài viết này. Nó được trao cho tôi bởi viên
Tổng Lãnh Sự Hoa Kỳ tại Hồng Kông và được
giả định được cung cấp trong các
sưu tập các bài diễn văn của các nhân viên nội
các tại các thư viện lớn.
44. Vào ngày 27 Tháng Hai, họ
Đặng đã gặp gỡ ông Blumenthal; trong buổi gặp
gỡ đó, Blumenthal hai lần đã cố gắng thảo
luận về quan điểm của Hoa Kỳ đối
với hành động quân sự của Trung Quốc tại
Đông Dương. Trong một cuộc phỏng vấn với
một người Mỹ hiện diện tại buổi
họp, tôi được nói cho biết rằng mỗi lần
khi Blumenthal nêu lên vấn đề chiến tranh, họ
Đặng đã khạc nhổ một cách sỗ sàng vào một
ống nhổ kề cận để biểu lộ sự
khó chịu của ông ta – có lẽ sự khinh thường
– đối với sự chỉ trích của Carter. Phỏng
vấn, Hồng Kông, 1 Tháng Mười Một 1979.
45. Hồi ức của
phía Trung Quốc về bài diễn văn của Blementhal thì
dai dẳng và chua chát. Trong một cuộc gặp gỡ mà
tôi có với một viên chức Bộ Ngoại Giao Trung Quốc
tại New York vào cuối Tháng Chín 1979, khi chúng tôi tái duyệt
tình hình đưong thời tại Đông Nam Á, viên chức
này đột nhiên nêu lên vấn đề quan điểm của
Hoa Kỳ trên cuộc xung đột của Trung Quốc với
Việt Nam, đặc biệt bài diễn văn của
Blumenthal. Ông ta nêu ý kiến rằng nếu người Mỹ
trở nên không hài lòng về hành vi của Trung Quốc, ít nhất
họ có thể giữ im lặng về điều
đó. Phỏng vấn, New York, 27 Tháng Chín 1979.
46. Tờ báo Prada tố
cáo rằng các lời bình luận của Mỹ về các ý
định của Trung Quốc trước khi Cuộc Chiến
Tranh khởi sự thì “mơ hồ” và rằng “đã có các
kẻ trong số các thân hữu người Mỹ của
họ Đặng sẽ muốn dạy cho Việt Nam một
bài học và trừng phạt họ một cách muộn màng
cho sự thất trận nhục nhã bị gánh chịu bởi
quân đội Mỹ tại Việt Nam”, Prada, 19 Tháng Hai
1979, được trưng dẫn trong MDN, 21 Tháng Hai
1979, trang 1. Ngay trước khi có bài diễn văn của Gromyko,
thí dụ, hãng thông tấn TASS đã bình luận rằng
cuộc thăm viếng của Blumenthal “không có gì khác
hơn là một cử chỉ chấp thuận cho các hành
động của Trung Quốc chống lại Việt Nam”.
Được tường thuật trên New York Times,
27 Tháng Hai 1979 (bài viết từ Moscow bởi Craig Whitney).
47. Cùng nơi dẫn
trên. Tôi không loại bỏ rằng bởi Blumenthal lên tiếng
tại Bắc Kinh hôm 25, các lời lẽ cứng rắn của
ông đã được truyền thông và chấp nhận theo
giá trị bề ngoài (nguyên xi) tại Moscow vào ngày 26 Tháng Hai.
48. Khi Blumenthal đến
hội kiến với Hoa Quốc Phong một ngày sau khi
đọc diễn văn, cuộc gặp gỡ bị trễ
mất 45 phút. Sự chậm trễ có thể có tính cách bất
ngờ hay nó có thể là cách thức của Trung Quốc muốn
bày tỏ sự khó chịu của nó với quan điểm
của Mỹ.
49. Muốn có một bản
tóm lược hay ho về tiến trình lập pháp và các lãnh
vực quan tâm của Trung Quốc, xem MDN, 12 Tháng Tư
1979, trang 10. Về cuộc gặp gỡ của Huang Hua
(Hoàng Hoa) với Woodcock, xem Jen-min, 24 Tháng Ba 1979, trang 5.
Jen-min jih-pao đã không tường thuật về sự
thông qua thực sự của Quốc Hội pháp chế hay
việc ký ban hành pháp chế của Carter; một nhà quan sát
đã cảm thấy rằng các sự bỏ sót này là các dấu
hiệu kín đáo không chỉ cho sự bực bội mà cả
cho sự kiện rằng ít nhất một số các nhà
lãnh đạo Trung Quốc bị bối rối bởi các
hành động của Hoa Kỳ.
50. Phỏng vấn, Bắc
Kinh, 6 Tháng Sáu 1979.
51. Phỏng vấn, New
York, 13 Tháng Sáu 1979.
52. Các sự lượng
giá này đặt trên một sự liệt kê cẩn thận
và lượng giá tất cả các bài viết của Jen-min
jih-pao được ấn hành trong suốt các thời
kỳ ấn định.
53. Một bải tường
thuật bằng Anh ngữ đã xuất hiện trên tờ
South China Morning Post, 13 Tháng Tám 1979, trang 8; và một bài
viết bằng Hoa ngữ được in trên tờ Wen
Wei Po (Hồng Kông), 12 Tháng Tám 1979, trang 1. Các bài tường
thuật thì tương tự, nhưng không giống hệt
nhau. Phần trích dẫn là từ tờ Post.
54. Prada, 19 Tháng Hai
1979; toàn thể bản văn trong tờ Information Bulletin,
Vol. 17, số 7 (15 Tháng Tư 1979), các trang 7-8.
55. TKP(WS), 5-11 Tháng
Tư 1979, trang 1.
56. New Times, số 18
(Tháng Tư 1979), trang 3.
57. Cuộc phỏng vấn
họ Đặng với Hãng Thông Tấn Jiji News Agency
được tường thuật bởi Reuters từ
Bắc Kinh; trong TKP(WS), 17-23 Tháng Năm 1979, trang 1.
58. TKP(WS), 31 Tháng
Năm – 6 Tháng Sáu 1979, trang 15; HNB, 28 Tháng Năm 1979.
59. New Times, số 24
(Tháng Sáu 1979), trang 2.
60. Bài diễn văn của
họ Hoa đọc trước Quốc Hội Toàn Dân,
được phổ biến bởi Hsin-hua (Tân Hoa Xã) ngày
25 Tháng Sáu 1979; trong HNB, 26 Tháng Sáu 1979, trang 53.
61. HNB, 25 Tháng Bẩy
1979, trang 21.
62. Cùng nơi dẫn
trên.
63. Cùng nơi dẫn
trên, 1 Tháng Tám 1979, trang 23.
64. New Times, số 30
(Tháng Bẩy 1979), các trang 22-23. Bài viết trích dẫn các nhận
xét của Lý Tiên Niệm hồi cuối năm 1978 rằng
kinh tế Trung Quốc “ở vào một tình trạng trầm
trọng” (theo từ ngữ của tờ New Times).
Các nhận xét của Hoa Quốc Phong liên quan đến Lin
Piao (Lâm Bưu), “tứ nhân bang” và cuộc đấu tranh
giai cấp được ghi nhận một cách mau chóng mặc
dù không có tính cách tiêu cực. Bài tường thuật ghi nhận
rằng một Ủy Ban Quốc Gia về Tài Chính và Kinh Tế
đã được thiết lập trực thuộc Hội
Đồng Nhà Nước. “Ủy ban được đứng
đầu bởi Ch’en Yun (Trần Vân), một nhận vật
hàng đầu trong Đảng và các hội đồng nhà
nước trong thập niên 1960 và một chuyên viên về
các vấn đề kinh tế quốc gia, chỉ mới
được tái lập gần đây sau khi đã bị
bạc đãi trong suốt ‘cuộc cách mạng văn hóa’”.
Họ Lý, họ Hoa, và họ Trần đã không bị mô tả
một cách tiêu cực – và không có sự đê cập nào về
họ Đặng được đưa ra. Các sự tố
giác theo nghi thức về chính sách ngoại giao của Trung
Quốc có được bao gồm.
65. South China Morning Post,
13 Tháng Tám 1979, trang 9.
66. Hong Kong Standard, 22
Tháng Tám 1979, trang 6.
67. Trong Tháng Sáu và Tháng Bẩy
1979, Jen-min jih-pao đã ấn hành sáu bài viết tích cực
về Ba Lan, bốn bài tích cực về mối nước
Tiệp Khắc (Czechoslovakia) và Hung Gia Lợi, ba bài tích cực
về Bulgaria và hai bài về CMEA./-
_____
Nguồn: Daniel Tretiak,
China’s Vietnam War and Its Consequences, The China Quarterly 80 (1979),
các trang 740-67.
Ngô Bắc
dịch và phụ chú
10.09.2012
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét