(1) Tên cướp đỏ (phần 1)
1921 – 1931: lần thăng tiến của Mao
Tiến sỹ Ralf Berhorst
Phan Ba dịch từ chuyên san lịch sử “Trung Quốc của Mao Trạch Đông” do GEO EPOCHE xuất bản
Vào ngày 31 tháng 7 năm 1921, 13 người đàn ông trẻ tuổi thành lập Đảng Cộng sản Trung Quốc ở gần Thượng Hải, trong số đó là một người thầy giáo rụt rè từ tỉnh lẻ, người cả một thời gian dài không có mục đích. Nhưng bây giờ con người 27 tuổi đấy đã tìm thấy một nhiệm vụ mà ông ấy muốn đấu tranh cho nó với tất cả sức lực: cuộc cách mạng. Mao Trạch Đông biến nó trở thành nghề nghiệp của mình.
Trời mưa như trút nước khi chiếc du thuyền rời bến trên “Hồ Uyên ương”, tròn 90 kilômét về phía Tây Nam của Thượng Hải. 13 người đàn ông trên thuyền không hề chú ý đến cơn mưa đang lan rộng ra vào ngày 31 tháng 7 năm 1921 đấy. Họ ngồi chen chúc quanh một cái bàn có những món cá, thức uống và cờ mạt chược. Và thảo luận.
Một bức tường bằng gỗ bảo vệ gian phòng hở ở mặt sau trước những cái nhìn tò mò. Ngay khi có thuyền khác đến gần, tất cả các câu chuyện đều câm lặng đi sau một tiếng gõ làm hiệu. Thế rồi những người đàn ông đó giả vờ trầm tư suy nghĩ chơi mạt chược, đẩy những con cờ qua lại trên cái bàn đã được đánh bóng. Họ biết: chỉ điểm của cảnh sát có thể cố nghe lén họ.
Những người đi trên du thuyền là sinh viên, giáo viên và nhà báo Mácxít. Họ đã mướn chiếc thuyền để ngụy trang cho cuộc gặp gỡ bí mật của họ như một chuyến vui chơi. Thật sự là họ muốn thành lập Đảng Cộng sản Trung Quốc. 13 người đàn ông đó đại diện cho chưa tới 60 người Cộng sản – trong một đất nước có hơn 450 triệu dân.
Họ liên kết lại với nhau thành những chi bộ bé nhỏ chỉ trong năm thành phố Trung Quốc, họ thiếu tiền và kinh nghiệm. Mặc dù vậy, họ vẫn quyết định thành lập chế độ chuyên chính vô sản ở Trung Quốc.
Một trong số những người đàn ông đó là một người trẻ tuổi, dáng cao với đôi mắt buồn. Ông ấy chải mái tóc đen khỏi trán. Trong những cuộc thảo luận, hiếm khi nào ông ấy cất tiếng nói, rõ ràng là sự xuất hiện thanh lịch của những người đồng chí nào đấy đã khiến cho ông e ngại, những người mặc quần áo comlê Phương Tây thay vì trang phục Trung Quốc và thêm vào đó hiểu biết lý thuyết Marx tốt hơn là ông ấy.
Con người 27 tuổi đấy là một nhà giáo dạy Sử ở tỉnh. Tên của ông ấy: Mao Trạch Đông.
Thế nhưng chính con người kín đáo đấy sẽ tạo cho ĐCS Trung Quốc trở thành một công cụ của quyền lực và khủng bố. Và nhờ vào nó mà thống trị một phần tư nhân loại.
Trong ngày đó, những người đàn ông thống nhất một chương trình hành động mang nét không tưởng: cần phải chiến thắng Chủ nghĩa Tư bản ở Trung Quốc và thành lập một xã hội không có giai cấp.
Khi chiếc thuyền trở về bờ hồ có sậy mọc bao quanh vào lúc trời chạng vạng, những người âm mưu đó không còn sợ chỉ điểm nữa. “Đảng Cộng sản muôn năm, Chủ nghĩa Cộng sản giải phóng nhân loại muôn năm”, họ gọi to trên hồ.
Vào ngày đấy, với chuyến đi chơi của một nhóm nhỏ những người cùng ý tưởng, lịch sử ĐCS bắt đầu – và cả lần thăng tiến khó tin trở thành nhà lãnh đạo Trung Quốc của một người con trai nhà nông.
MAO TRẠCH ĐÔNG, người sau này trở thành nhà cách mạng, sinh ngày 26 tháng 12 năm 1893 trong ngôi làng Thiều Sơn hẻo lánh ở tỉnh Hồ Nam giữa Trung Quốc. Đó là một thế giới còn nguyên thủy, giữa những ngọn đồi thoai thoải và những khu rừng rộng lớn trên núi, một thế giới mà trong đó có một vài trăm gia đình nông dân trồng lúa, trà và tre, đặt con trâu đi trước cái cày như trước đấy hàng trăm năm.
Không có đường bộ, không có đường sông dẫn vào trong thung lũng, nơi có lợn rừng, báo và thỉnh thoảng cũng cả hổ đi ngang qua. Làng Thiều Sơn hẻo lánh tới mức tin về cái chết của hoàng đế Quang Tự chỉ đến với người dân làng sau nhiều năm.
Cha của Mao, một cựu quân nhân của quân đội tỉnh, đã khá giả lên nhờ trồng lúa và ngũ cốc. Trong khi phần lớn các gia đình trong Thiều Sơn sống trong những ngôi nhà bằng đất sét và mái rơm thì gia đình Mao sống trong một ngôi nhà sáu phòng với mái ngói. Người con trai Trạch Đông của họ còn có cả một phòng riêng, một sự xa hoa khác thường cho con của một nhà nông.
Tuy vậy, cả trong gia đình này cũng không có nước máy – cho tới cuối đời, Mao vẫn thích kỳ cọ thân thể với một cái khăn được làm ướt bằng hơi nước, hơn là tắm rửa với xà phòng, và súc miệng bằng trà thay vì dùng một cái bàn chải đánh răng.
Bên cạnh nhà, những cánh đồng ruộng bậc thang của gia đình cao dần lên. Mao, cũng như tất cả những đứa bé khác trong làngg, phải phụ giúp làm việc ngay từ lúc còn nhỏ: thường ông phải chăn trâu bò hay chăn vịt.
Lúc tám tuổi, ông đi học trường làng; tiền học mà cha của ông ấy phải đóng nhiều bằng nửa năm lương của một người công nhân. Nhưng ông ấy vẫn trả – hẳn vì ông ấy hy vọng rằng người con trai sau này sẽ lo ghi chép sổ sách cho ông ấy.
Người thầy chỉ dạy cho Mao biết đọc và biết viết. Học trò, cũng như thần dân phái nam dưới triều nhà Thanh, luôn luôn phải thắt tóc bím, trích dẫn các tác phẩm kinh điển của Khổng Tử: những tác phẩm đã có từ nhiều thế kỷ, của chính triết gia đấy hay của các học trò ông ấy. Chúng nói về sự siêng năng, trung thực và về sự cải tiến liên tục tính chất cá nhân, cũng như về sự kính trọng cha mẹ.
Với 13 tuổi, Mao rời trường; theo ý của cha, ông cần phải làm việc trong trang trại và sau này trở thành người buôn gạo.
Thế nhưng người con đã khám ra một thế giới riêng cho mình từ lâu, thế giới của sách vở. Hàng đêm, bên ánh đèn dầu, ông ấy đọc biên niên sử, những quyển tiểu thuyết kể về những băng cướp, những cuộc nổi dậy và những chuyến đi hành hương. Ông lúc nào cũng che cửa sổ lại, để cho người cha không biết đến những lần đọc sách bí mật đấy.
Mao căm ghét con người gia trưởng nóng tính đấy, người cho rằng đọc những quyển sách đó chỉ là phí thời gian mà thôi và thường xuyên đánh đập ông. Qua những lần va chạm, người con đang lớn lên nhanh chóng có được một trải nghiệm đặt dấu ấn lên ông: nếu đối xử khúm núm, người cha chỉ đánh đập ông càng nhiều hơn. Ngược lại, nếu như bướng bỉnh thì ông lại có thể nhận được nhượng bộ bởi sự ương ngạnh của mình. Khi người cha già mắng nhiếc ông là lười biếng và vô dụng trước mặt khách đến thăm, người thiếu niên đấy đã chạy đến một cái hồ và dọa sẽ tự tử. Người cha nhượng bộ và hứa sẽ không quát mắng ông nữa.
Thế nhưng người trưởng gia đình đấy ép buộc chàng trai 14 tuổi phải bước vào một cuộc hôn nhân đã được hứa hẹn trước với một người chị họ xa, lớn hơn ông bốn tuổi, [La] Nhất Tú. Nhưng Mao chưa từng bao giờ nhìn người chị họ này, người đã dọn vào ở trong gia đình (nhưng qua đời ba năm sau đó), như là người vợ của mình – và có lẽ cuộc hôn nhân cũng không bao giờ được tiến hành trọn vẹn.
Ông ấy thích học hơn. Có một quyển sách thu hút ông một cách đặc biệt: “Những lời cảnh báo về một kỷ nguyên của sự thừa thãi”. Trong quyển sách đó, nhà cải cách người Trung Quốc Trịnh Quan Ứng thúc giục người dân của mình hãy thích ứng với thế giới hiện đại với đường sắt, điện tín, thư viện và quốc hội của nó, trước khi các chính phủ ngoại quốc bóc lột toàn Trung Quốc. Những quyển sách mỏng như quyển sách này đã gợi lên nhận thức chính trị của Mao và khơi dậy trong ông lòng tự hào dân tộc.
Với 16 tuổi, ông rời ngôi làng quê hương năm 1910 và tự đăng ký đi học tại một trong những trường cải cách mới ở làng cạnh bên, loại trường mà thời gian vừa qua đã có hơn 100 trong tỉnh: một cố gắng tuyệt vọng của triều đình để thu ngắn khoảng cách tụt hậu của Trung Quốc so với Phương Tây.
Ở đấy, một thế giới mới mở ra cho Mao, ngay cả khi ông ấy bị nhiều ngươi đồng học – phần lớn là con trai của địa chủ – cười chê như người nhà quê vì trang phục nông dân của ông. Ông chỉ có một bộ quần áo duy nhất: một cái áo khoác bằng bông vải và một cái quần đã cũ.
Khác với những trường còn lại trong Trung Quốc, có trong thời khóa biểu là những môn học như khoa học tự nhiên, lịch sử thế giới, tiếng Anh và âm nhạc. Lần đầu tiên, Mao được nghe về những nhân vật như George Washington, Abraham Lincoln, Napoleon Bonaparte: những con người đã thành lập, thống nhất hay dẫn dắt quốc gia đến một tầm vóc to lớn.
Người cha chỉ miễn cưỡng trả tiền học cho người con trai sắp trưởng thành. Và hẳn đã không nghĩ rằng ông ấy sẽ vĩnh viễn xa rời cái chật hẹp của một cuộc đời nhà nông.
Vì Mao không trở về ngôi làng quê hương nữa. Ông muốn được đi xa, vào tỉnh lỵ Trường Sa cách đó 50 kilômét, một thành phố lớn với 300.000 dân. Vì nghe rằng ở đấy có trường học còn tốt hơn nữa, ông lên đường đi đến đấy năm 17 tuổi.
Một bức tường thành bằng những khối đá màu xám lâu đời hàng thế kỷ bao bọc lấy Trường Sa. Dân quân đầu quấn khăn xanh canh gác những cánh cổng khổng lồ. Ngõ hẻm giống như đường hầm dẫn qua mê cung của thành phố, đến hai ngôi đền thờ Khổng Tử khổng lồ, biệt thự của quan lại, những người sống sau các bức tường cao, và khu phố mua bán với các cửa hàng,
Trên đường đi không nhìn thấy ô tô, không nhìn thấy xe đạp, xe lôi, thay vào đấy người ta bắt gặp những người gánh nước, ăn xin và các chiếc kiệu của người giàu.
Đấy là năm 1911, đêm trước của cuộc cách mạng Trung Quốc. Lực lượng đối kháng chống lại triều nhà Thanh đang nổi dậy trong hầu hết các tỉnh của đất nước này, phe đối lập yêu cầu triệu tập một quốc hội cho quốc gia.
Mao chăm chú theo dõi các sự kiện qua nhiều tờ nhật báo chính trị, những cái mới đây đã được in ra. Qua đó, ông biết về nhà đối lập cực đoan Tôn Dật Tiên, “Liên minh Cách mạng” của ông ấy – và về một cuộc nổi dậy trong thành phố cảng Quảng Châu mà có 72 người nổi dậy đã chết trong lúc đó.
Mao, cho đến thời điểm đấy là một người trung thành với triều đình, người cho rằng nhà vua và các quan lại của vua là những người thông thái và chính trực, lúc đầu còn hy vọng rằng triều đình sẽ tiếp tục tồn tại trong một chế độ quân chủ lập hiến.
Thế nhưng chỉ sau một vài tuần ở Trường Sa, ông ấy đã suy nghĩ cực đoan hơn: ông thảo một tuyên ngôn mà trong đó ông yêu cầu hoàng đế thoái vị và Tôn Dật Tiên trở thành tổng thống Trung Quốc – và dán nó lên tường của ngôi trường ông đang theo học.
Như một dấu hiệu của sự phản đối, Mao cắt bím tóc của mình đi. Một hành động mà theo truyền thống trong vương quốc của nhà Thanh sẽ phải chịu hình phạt tử hình. Khi một vài học sinh ngần ngừ không chịu làm theo. Mao đã cầm lấy kéo và dùng bạo lực giải phóng họ khỏi cái bím tóc.
Những người Trung Quốc trẻ tuổi ở các trường khác cũng dám làm điều ghê gớm đó – rõ ràng là hiện giờ các cơ quan của hoàng đế đã thiếu uy quyền để truy xét việc làm phạm tội đấy.
Trong tháng 10 năm 1911, khi binh lính nổi dậy chống triểu đình trong thành phố Vũ Xương cách đó gần 300 kilômét về phía Bắc, Mao cùng một vài người bạn quyết định đi đến đấy để trợ giúp cho những người làm cách mạng. Nhưng ông ấy không đi ngay. Vì nghe nói rằng trời hay mưa ở Vũ Xương nên đầu tiên ông lên đường đi tìm giày không thấm nước – và vì vậy mà đã bỏ lỡ lần lật đổ.
Không có ông, cuộc cách mạng vẫn tiếp tục lan ra ngày càng rộng khắp và cuối cùng về đến Trường Sa. Mao tham gia lực lượng cách mạng, phục vụ vài tháng như một quân nhân, nhưng không bắn đến một phát súng duy nhất.
Sau lời tuyên bố thành lập nền cộng hòa và tuyên bố thoái vị của hoàng đế trẻ con Phổ Nghi trong tháng 2 năm 1912, con người 18 tuổi đấy tin rằng cuộc cách mạng đã thành công và bây giờ là thời gian để quay trở về với sách vở; thế nào đi nữa thì nhiều quân nhân cũng bị nhà nước sa thải để tiết kiệm tiền.
Bây giờ, vào mỗi buổi sáng, ông ấy đi đến thư viện thành phố của Trường Sa và nghiên cứu các tác phẩm của những nhà tư tưởng châu Âu, trong đó là các tác phẩm của Adam Smith, lý thuyết gia đầu tiên của Chủ nghĩa Tư bản, của Jean-Jacques Rousseau, người khai sáng, và của Montesquieu, người đấu tranh cho tam quyền phân lập. Ở đây, lần đầu tiên Mao cũng nhìn thấy một tấm bản đồ thế giới.
Đó là một thời gian đọc sách vô phương thỏa mãn cũng như chẳng theo kế hoạch nào: người đàn ông trẻ tuổi đọc sách “như một con trâu lẻn vào vườn rau và ngốn ngấu ăn tất cả những gì mọc ở đấy”, như ông ấy sau này nhớ lại. Ông chỉ cho phép mình nghỉ vào giờ trưa, để ăn hai chiếc bánh làm từ gạo.
Với gần 20 tuổi, ông ấy vẫn còn chưa được đào tạo, không có nghề nghiệp, không có mục đích cho cuộc sống. Vì cha ông đe dọa không gửi tiền nữa nên Mao ghi danh học sư phạm năm 1913. Thêm năm năm học nữa bắt đầu.
Đó là một thời kỳ hỗn loạn, say sưa. Vì trong khi nước Cộng hòa tan rã, ảnh hưởng của chính phủ trung ương ở Bắc Kinh tan biến dần và các warlords chiếm lĩnh quyền lực – các tư lệnh độc lập, những người phần lớn đã từng là chỉ huy quân đội trước đây – thì những tư tưởng mới bắt đầu đến với đất nước này.
Cùng với bạn đồng học, Mao đã thảo luận nhiều về Chủ nghĩa Vô chính phủ, Chủ nghĩa Dân tộc, cách mạng.
Và về con đường tương lai của Trung Quốc. Lần đầu tiên, ông nghe được từ “Chủ nghĩa Cộng sản”, thế nhưng nó không để lại một ấn tượng gì đặc biệt. Còn phải qua nhiều năm nữa, cho tới khi ông quan tâm thật sự đến nó.
Nhiều điều là mới đối với ông, nhiều điều hỗn độn. Ông có, ông sẽ nói như thế sau này về thời gian đấy, “một hỗn hợp kỳ lạ” trong đầu: ông tuy tin rằng Trung Quốc phải học tập ở Phương Tây, nhưng cũng muốn rằng nó đừng khước từ truyền thống của nó trong lúc đó. Ông là một người có tư tưởng tự do cởi mở với cả thế giới – nhưng đồng thời ông lại hâm mộ những nhà cai trị đặc biệt tàn bạo trong lịch sử Trung Quốc.
Cuối cùng, một trong những người thầy đã để ý đến người con trai nhà nông đấy, người phác thảo những lời bình luận về tác phẩm của một triết gia đạo đức người Đức cũng như những bài thơ đa cảm. Ông ấy cho rằng con người ham học từ tỉnh lẻ đấy là một người có tài: “Gia đình nông dân thường là nơi xuất phát của những tài năng khác thường nên tôi khuyến khích anh ấy”, ông ấy viết. Và: “Tìm được một người thông minh và chân thật như anh ấy không phải dễ”.
Mao tiếp nhận từ người nâng đỡ mình thói quen huấn luyện không chỉ tinh thần mà cả thể xác nữa, thích nhất là trần truồng hay chỉ mặc ít quần áo trong lúc đó – một niềm say mê cho tới cuối đời.
Mỗi buổi sáng, ông ấy đi đến một cái giếng và dội nước lạnh như băng lên người. Trong những kỳ nghỉ, ông đi dạo thật lâu với bạn bè, tắm nắng hay chạy bộ trong mưa, ngủ ngoài trời lúc có sương giá, bơi qua những con sông lạnh như băng trong tháng 11.
Khi cuối cùng rồi Mao cũng nhận được bằng sư phạm với 24 tuổi, ông ấy vẫn chưa có kế hoạch nào cho tương lai cả. Ông không tìm được việc làm trong Trường Sa. Vì thế nên ông đi theo người thầy, người năm 1918 được triệu về Bắc Kinh để nhận chức vụ giáo sư và đã tạo cho ông một việc làm như người phụ việc trong thư viện ở trường đại học.
Qua đó, Mao đã đến tới trung tâm của lần khởi đầu ở Trung Quốc.
(Còn tiếp)
Tiến sỹ Ralf Berhorst
Phan Ba dịch
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét