Thứ Hai, 9 tháng 5, 2011

Nguyên nhân và hậu quả của lạm phát hiện nay ở Việt Nam

Nguyên nhân và hậu quả của 

lạm phát hiện nay ở Việt Nam

Báo chí ngoại quốc và trong nước và những cơ quan tài chánh và đầu tư quốc tế từ đầu năm tới nay nói rất nhiều đến tình trạng lạm phát nghiêm trọng ở Việt Nam. Điểm đặc biệt là trong tất cả vùng Đông và Đông Nam Á châu, ngoại trừ Việt Nam, mức lạm phát rất thấp, 1% như ở Đài Loan, 1.7% ở Mã Lai, 3.3% ở Thái Lan và cao nhất 6% ở Lào. Lạm phát ảnh hưởng đến mọi giới trong xã hội kể cả chính quyền. Lạm phát làm giảm giá trị đồng tiền, ngăn cản đầu tư và tiết kiệm, giảm sự phát triển kinh tế, tạo ra sự khan hiếm hàng hóa do nạn đầu cơ tích trữ. Nếu sự lạm phát ở mức độ cao kéo dài có thể tạo ra sự bất ổn xã hội và chính trị vì đa số người dân thuộc thành phần nghèo, có đồng lương nhất định sẽ bị ảnh hưởng nặng nề và trực tiếp của lạm phát giá cả.


Lạm phát đánh vào túi tiền của người nghèo



Tình trạng lạm phát

 
So sánh CPI giữa 3 thành phố lớn 1/2011


Chỉ số tiêu thụ (Consumer Price Index – CPI) thường được dùng để đo lường mức lạm phát. Chỉ số tiêu thụ tăng 11.8% vào tháng 12, 2010.  Vào tháng Ba năm nay chỉ số này tăng 13.9% so với một năm về trước và tiếp tục đi lên trong tháng Tư với con số 17.5%. Theo Tổng Cục Thống Kê của nhà nước đây là con số cao nhất kể từ tháng 12, 2008. Cũng theo cơ quan này sự gia tăng của chỉ số tiêu thụ là do sự gia tăng của chi phí giáo dục, lương thực, thực phẩm, nhà ở, và vật liệu xây cất(1). Theo báo cáo của công ty chứng khoán Barclays Capital, giá thực phẩm tăng 24% trong 12 tháng vừa qua(2). Barclays Capital dự đoán rằng mức lạm phát sẽ leo lên đến mức 21%-22% vào giữa năm nay và trung bình là 17.5% cho cả năm, nếu giá thực phẩm trên thế giới tiếp tục tăng và nhà nước thi hành quyết định tăng lương căn bản. Mức lạm phát có thể lên đến 20% trước khi giảm xuống 13% vào cuối năm theo một dự kiến của Vietnam Property Fund Ltd(3). Nhiều người e sợ rằng Việt Nam trở lại tình trạng lạm phát phi mã gần 30% vào năm 2008. Trong khi đó nhà nước nhắm duy trì lạm phát ở mức tối đa là 7% cho cả năm 2011. Điều này xem ra không thể nào thực hiện được trên thực tế.

Nguyên nhân của lạm phát

Lạm phát cao trong năm 2011 do nhiều nguyên nhân gây ra chứ không phải chỉ do sự tăng giá của những nhu yếu phẩm. Nguyên nhân thứ nhất là nhà nước chủ trương phát triển kinh tế ở mức độ cao bằng mọi giá, đặc biệt bắt đầu từ nhiệm kỳ 5 năm vừa qua của Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng. Mới đây chính phủ đặt ra những chỉ tiêu phát triển không thực tế: 7%-7.5% mỗi năm trong 5 năm tới và 7%-8% trong 10 năm tới. Trong khi đó, kinh tế Việt Nam trải qua nạn lạm phát 11.8% vào năm 2010 cao hơn tất cả những nước láng giềng. Nhà nước không thể nhắm vào mức phát triển kinh tế cao trong khi cần phải chế ngự nạn lạm phát.  Để đạt được mục tiêu phát triển, chính phủ gia tăng chương trình đầu tư công qua các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) và hậu quả là làm tăng mức cầu về tín dụng.  Do đó có thể nói rằng lạm phát hiện nay phần lớn do sức cầu kéo. Vào ngày 19/1 năm nay, ông Nguyễn Văn Thao thuộc Ủy Ban Trung Ương của Đảng Cộng Sản Việt Nam còn tuyên bố rằng một trong những ưu tiên hàng đầu của Việt Nam là ổn định kinh tế vĩ mô để duy trì mức độ phát triển(4).

Ngoài ra Việt Nam còn có vấn đề bội chi ngân sách tương đương với 8.9% và 5.9% của tổng sản phẩm nội địa (gross domestic product – GDP) lần lượt trong hai năm 2009 và 2010. Cán cân thương mại thiếu hụt thường xuyên trong nhiều năm vừa qua. Mức thiếu hụt này tương đương với 8.9% và 10.2% của GDP trong 2009 và 2010. Những con số này chứng tỏ rằng chi tiêu của nhà nước cao hơn thu nhập và nhu cầu nhập khẩu cao hơn trị giá hàng xuất khẩu. Hai sự thiếu hụt này tạo áp lực trên giá cả bằng cả hai tác động cầu kéo và chi phí đẩy. Tuy nhiên trong trường hợp bội chi ngân sách, chi tiêu của nhà nước làm tăng GDP trong ngắn hạn còn cán cân thương thiếu hụt làm giảm GDP.

Nguyên nhân kế tiếp không kém quan trọng là việc gia tăng tín dụng quá cao, trên 20% trong suốt 10 năm vừa qua, đôi khi lên đến 50.2% vào 2007 và 45.6% vào năm 2009(5).  Theo Ngân Hàng Nhà Nước (NHNN), mức tín dụng tăng 27% trong năm 2010, vượt quá mục tiêu 25%. Mức tín dụng chỉ tiêu cho năm 2011 là 23%. Nay mới hạ xuống dưới 20%(6). Ngoài ra, phần lớn những tín dụng này lại được ưu tiên dành cho những DNNN, thường hoạt động kém hiệu quả, với những điều kiện thuận lợi.

Nguyên nhân thứ năm là năng suất của kinh tế Việt Nam thấp. Đây là hệ quả tất yếu của một nền kinh tế xây dựng trên một khu vực nhà nước lớn với các DNNN làm ăn thường là thua lỗ. Vào cuối năm 2010, công ty quốc doanh xây cất tầu thủy Vinashin rơi vào tình trạng gần phá sản là một thí dụ mới nhất. Vinashin hay là Vietnam Shipbuilding Industry Group, được thành lập vào năm 2005 với số vốn 750 triệu USD từ công trái phiếu của nhà nước. Vào tháng 7, 2010, Việt Nam công bố rằng Vinashin mắc món nợ chồng chất lên 4.4 tỉ USD, không có khả năng trả nợ và bị đe dọa phá sản. Vào tháng  8, 2010, cựu chủ tịch Vinashin Phạm Thanh Bình và một số viên chức điều hành bị bắt vì vi phạm luật lệ quản trị, nhưng cho tới nay chưa có ai bị truy tố. Vào cuối năm 2010, Vinashin điều đình với các chủ nợ để xin hoãn trả 60 triệu USD trên số nợ 600 triệu USD.  Cho đến đầu tháng 3 vừa qua, Vinashin vẫn chưa trả được nợ. Khả năng khai phá sản có thể sẽ xẩy ra.

Trong khi vụ Vinashin chưa giải quyết xong và ngay sau khi nhà nước tuyên bố cho tăng giá xăng dầu và điện, gần đây lại xẩy ra vụ Công Ty Cho Thuê Tài Chánh ALC II thua lỗ 3,000 tỉ đồng. Công ty nhà nước này thua lỗ đã nhiều năm, những đến 2007 mới bị phát hiện. Đến cuối 2009 ông Vũ Quốc Bảo, Tổng Giám Đốc ALC II mới bị mãn nhiệm, và cho mãi đến giữa tháng 4 vừa qua, dân mới được biết vì cơ quan cảnh sát điều tra quyết định bắt tạm giam ông Bảo.

Nguyên nhân thứ sáu là chi phí gia tăng trong nhiều tháng vừa qua. Theo Nghị Quyết số 11/NQ-CP ban hành ngày 24/2/2011, nhà nước cho phép gia tăng giá xăng dầu trong nước cho phù hợp với giá xăng dầu thế giới và giá điện trong nước theo cơ chế thị trường. Tăng giá điện và xăng ảnh hưởng đến tất cả mọi lãnh vực kinh tế và trực tiếp làm nạn lạm phát trầm trọng thêm. Đây là một hiện tượng chi phí đẩy.

Việc tăng giá xăng là một việc không tránh được vì giá xăng dầu trên thế giới tăng và Việt Nam là một nước nhập cảng xăng dầu nhiều hơn gấp bội lượng xăng dầu xuất khẩu. Việc điều chỉnh giá xăng dầu được quy định theo Nghị Định 84/2009 của nhà nước về kinh doanh xăng dầu. Theo nghị định này giá cơ sở được tính theo công thức sau đây: Giá CIF (bao gồm giá xăng dầu thế giới, phí bảo hiểm và chi phí vận chuyển đến Việt Nam) + Thuế, phí + Chi phí kinh doanh định mức (600 đồng/lít) + Lợi nhuận định mức (300 đồng/lít) + Mức trích quỹ bình ổn giá (300 đồng/lít) (7).  Tuy nhiên, công thức này không áp dụng mạnh mẽ trong thời gian qua cho đến gần đây. Vì ngân sách quốc gia thiếu hụt nghiêm trọng cộng thêm kinh tế bất ổn nói chung mà nhà nước đã có quyết định không hợp thời là tăng giá xăng liên tục ba lần kể từ đầu năm nay. Lần tăng 30% mới nhất đã đưa giá xăng lên đến 21,300 VN/lít trong tháng 3. Cũng vào dịp này giá dầu diesel tăng 24%(8).

Điện ở Việt Nam cũng được chính phủ bao cấp lâu nay. Giá thành cao hơn giá bán. Giá điện  trung bình tại Việt Nam hiện nay là 5.2 cent / kWh (tính theo USD), chỉ bằng một nửa so với giá điện của các nước trong khu vực. Chi phí sản xuất ra 1kWh điện trung bình từ 7 đến 12 cent. Việc hủy bỏ bao cấp là cần thiết và nhà nước đã cho phép tăng giá điện 15.3% bắt đầu có hiệu lực vào tháng 3. Đây cũng là một quyết định không hợp thời vì Việt Nam đang phải đối phó với nạn lạm phát cao. Nhưng áp lực là do công ty quốc doanh Điện Việt Nam (EVN) bị lỗ lã và ngân sách thiếu hụt. Thật vậy, những nhà lãnh đạo của Bộ Công Nghệ và Thương Mại, qua một bản tin của Vietnam Business News đề ngày May 4, 2011,  tiết lộ rằng mục đích chính của việc tăng giá điện là để giảm thiểu lỗ của công ty. Ông Đinh Quang Tri, Phó Tổng Giám Đốc EVN cho biết thêm rằng giá điện tăng vừa qua không bù đắp được tất cả những lỗ lã của công ty trong năm 2010. Con số này lên tới 8.000 tỉ VNĐ(9).  Như vậy có nghĩa nhà nước có thể sẽ cho phép EVN tăng giá điện lên nửa trong tương lai. Thực vậy, một bản tin của Bloomberg News viết rằng “Một quyết định của chính phủ cho phép giá điện được điều chỉnh ba tháng một lần tùy theo điều kiện thị trường có thể báo hiệu cho một sự tăng giá 40% vào tháng Sáu, theo một nguồn tin của Viet Capital Securities.”(10)

Nguyên nhân thứ bẩy là việc phá giá đồng bạc Việt Nam (VNĐ). Trong 15 tháng vừa qua, Việt Nam đã phá giá VNĐ tất cả 4 lần và trong khoảng thời gian này trị giá của VNĐ đã giảm tổng cộng khoảng 20% so với đồng US dollar (USD). Trong lần thứ tư xẩy ra vào ngày 11/2/2011, VNĐ sụt giá 9.3% so với USD(11). Hối suất chính thức của VNĐ tăng từ 18,932 lến đến 20,693 cho một USD.  NHNN quyết định phá giá VNĐ là để giảm bớt sự chênh lệch giữa hối suất chính thức và hối suất chợ đen, đôi khi sự cách biệt lên đến 9% và làm giảm sự khan hiếm ngoại tệ. Sự phá giá VNĐ cũng giúp tăng xuất khẩu và giảm chênh lệch cán cân thương mai vì làm giảm chi phí sản xuất trong nước. Tuy nhiên, đồng Việt Nam mất giá cũng làm tăng lạm phát vì giá sản phẩm và nguyên liệu nhập khẩu sẽ gia tăng tính theo VNĐ.

Ngoài ra, còn có những nguyên nhân bên ngoài là giá thực phẩm và giá săng dầu gia tăng. Nhưng tất cả mọi nước đều chịu ảnh hưởng của hai thứ sản phẩm này không phải chỉ riêng Việt Nam.

Chính sách chống lạm pháp của nhà nước

Trước tình trạng lạm phát gia tăng, chính phủ Việt Nam đã ban hành Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 24-02-2011 đưa ra bẩy “giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội.” Thi hành nghị quyết này, nhà nước đã cho thi hành chính sách siết chặt tiền tệ bằng cách tăng lãi suất và cắt giảm mức gia tăng tín dụng.  NHNN đã tăng lãi suất tài trợ (refinance rate) lên đến 14% và lãi suất chiết khấu (discount rate) lên đến 13%.  Các lãi suất mới bắt đầu có hiệu quả từ 1/5/2011.  Cũng về mặt tiền tệ, NHNN nhắm cắt giảm mức gia tăng tín dụng từ 23% xuống còn 18%-19% trong năm nay.

Để gia tăng kiểm soát thị trường vàng và ngoại hối, chủ yếu là đồng USD, hầu bảo vệ đồng nội tệ và ổn định tỷ giá, nhà nước ra lệnh cấm buôn bán vàng miếng trên thị trường tự do, cấm trao đổi bằng đồng USD và đồng thời “thực hiện các biện pháp cần thiết để các tổ chức, cá nhân trước hết là các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước bán ngoại tệ cho ngân hàng khi có nguồn thu và được mua khi có nhu cầu hợp lý, bảo đảm thanh khoản ngoại tệ, bình ổn tỷ giá, đáp ứng yêu cầu ổn định, phát triển sản xuất kinh doanh và tăng dự trữ ngoại hối.”(12)

Nhà nước dễ dàng ban hành biện pháp cấm đoán trên, nhưng khó mà có thể kiểm soát việc thi hành.  Vì vậy, hiệu quả của biện pháp này đối với vấn đề chống lạm phát chưa có thể kết luận được.

Vào cuối tháng 4 vừa qua, nhà nước Việt Nam trình bầy dự định thực hiện một số biện pháp tài chánh song song với các biện pháp tiền tệ để chống lại nạn lạm phát bao gồm việc giảm bớt chương trình đầu tư công, cắt giảm bội chi ngân sách xuống dưới 5% của GDP, và giảm những chi phí thường xuyên 10% trong 9 tháng còn lại của năm 2011. Tuy nhiên, nhà nước xem ra rất chậm chạp về lãnh vực này vì thực tế cho thấy chưa có biện pháp tài chánh nào được thực hiện. Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư gửi 10 phái đoàn đến các địa phương để nghiên cứu các dư án đầu tư của nhà nước, nhưng chưa công bố những dự án nào cần phải loại.  Một thành viên của Ủy Ban Kinh Tế của Quốc Hội cho biết rằng không nơi nào muốn những dự án của họ bị hủy bỏ vì những dự án này mang tiền đến địa phương và cho ngay chính họ. Theo TS Trần Du Lịch, thành viên Hội Đồng Tư Vấn Chính Sách Tài Chính và Tiền Tệ Quốc Gia, một trong những lý do của sự chậm trễ này chính là không có sự phân biệt rõ ràng giữa ngân sách quốc gia và ngân sách địa phương(13).

Một số chuyên viên tên tuổi đã lên tiếng thúc dục nhà nước thi hành những biện pháp tài chánh như TS Vũ Thanh Tú Anh, Giám Đốc Chương Trình Giáo Dục Kinh Tế Fulbright, TS Quách Đức Pháp, Chủ Tịch Hội Chuyên Gia Đầu Tư Tài Chánh, ông Cao Sỹ Kiêm, cựu Thống Đốc NHNN. Thật vậy, những biện pháp tiền tệ không đủ để ngăn chặn lạm phát mà nhà nước cần phải thi hành những biện pháp tài chánh, đặc biệt là cần phải cải tổ toàn diện khu vực DNNN, nguồn gốc của những đầu tư thiếu hiệu quả và phí phạm tài nguyên quốc gia.

Hậu quả của lạm phát

 
Nạn khan hiếm xăng dầu tại Việt Nam (Người Đưa Tin).


Một trong những hậu quả của tình trạng lạm phát mà chúng ta đã thấy ở trên là lạm phát làm giảm phát triển. Nhà nước sau cùng đã phải giảm chỉ tiêu phát triển 1% từ 7%-7.5% xuống 6.5% cho năm 2011 đặc biệt là ngừng, đình hoãn, giãn tiến độ thực hiện một số dự án đầu tư của nhà nước. Với lãi suất và đối với tình trạng kinh tế vĩ mô bất ổn do lạm phát gây ra, các nhà đầu tư tư nhân có khuynh hướng giảm đầu tư hoặc rút ra khỏi Việt Nam.

Nạn lạm phát làm cho đồng tiền VNĐ yếu đi và mất giá. Người tiêu thụ bớt tin tưởng vào VNĐ và do đó họ có khuynh hướng giữ vàng hoặc ngoại tệ. Mới đây NHNN đã áp dụng một số biện pháp để giảm bớt hiện tượng dollar hóa thị trường bằng cách kiểm soát chợ đen, tăng tỉ lệ dự trữ USD từ 4% lên đến 6%, và giới hạn lãi suất dành cho tiền USD ký quỹ xuống còn 3%.  Kể từ khi có cuộc khủng hoảng tài chánh thế giới vào năm 2008, các đồng nội tệ Á châu đều lên giá so với USD và mức lạm phát tối đa cũng chỉ bằng nửa Việt Nam. Chỉ riêng tiền của Việt Nam bị mất giá. Đây là một thử thách đối với Việt Nam.

Vì đồng VNĐ mất giá cho nên dân chúng thu mua và tích trữ vàng và đồng USD. Các cơ sở kinh doanh không bị đòi hỏi phải bán giữ ngoại tệ cho ngân hàng trung ương.Do đó những cơ sở này cũng lưu trữ ngoại tệ. Trong khi đó, mức tồn trữ ngoại tệ của NHNN quá thấp. Kể cả vàng mức dự trữ ngoại tệ của NHNN vào cuối năm 2010 là 15.5 tỉ USD, tương đương với 1.9 tháng trị giá nhập cảng theo báo cáo của Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế. Hiện nay có khoảng 400,000 công nhân Việt Nam làm việc ở ngoại quốc và khoảng ba triệu “Việt kiều” đang sống ở nước ngoài. Theo thống kê của Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế, số tiền của công nhân “xuất khẩu lao động”  và “Việt kiều” chuyển về Việt Nam dưới dạng “gross remittance” hay “net private transfers” trong hai năm 2009 và 2010 là 6 tỉ USD (thực tế) và 6.1 tỉ USD (dự đoán). Con số ngoại tệ này cũng không đáng kể gì đối với nhu cầu ngoại tệ của Việt Nam hiện nay. Tình trạng cán cân thương mại thiếu hụt do nhập nhiều hơn xuất khẩu kéo dài quá lâu đã làm hao mòn dự trữ ngoại tệ. Trong thời gian từ 2005-2010, tổng số nhập siêu của Việt Nam là 47.3 tỉ USD hay trung bình mỗi năm là 7.9 tỉ USD. Thêm vào đó là nạn đầu tư vô tội vạ của các tập đoàn kinh tế quốc doanh. Thay vì chú trọng vào việc sản xuất, một số tập đoàn này lại đầu tư vào dịch vụ kinh doanh phi sản xuất như chứng khoán và nhà đất. Đó là những lý do làm cho Việt Nam đang trải qua tình trạng khan hiếm ngoại tệ khiến cho các nhà nhập khẩu gặp khó khăn khi thu mua ngoại tệ để mua hàng từ nước ngoài.

Theo ông Lê Xuân Trình, Phó Tổng Giám Đốc Tổng Công Ty Dầu Việt Nam (PV Oil), trung bình PV Oil cần 80-90 triệu USD mỗi tháng để nhập cảng dầu, nhưng chỉ mua được một phần USD, còn phần lớn phải đi vay. Trong ba tháng đầu của năm 2011, số nợ của PV Oil đã lên đến 100 triệu(14).

Theo một số báo ở trong nước, xăng trở nên khan hiếm, đặc biệt tại các tỉnh ở miền Tây Nam phần, giáp ranh với Campuchia, sau khi có quyết định tăng giá xăng. Báo SGGP tường thuật rằng nhiều trạm chỉ bán xăng nhỏ giọt, hoặc đề bảng hết xăng, hoặc tạm đóng cửa để sửa chữa. Vụ khan hiếm xăng dầu ảnh hưởng đến những người sống về dịch vụ chuyên chở bằng ghe máy, thuyền máy, hay xe hơi.

Lạm phát nói chung ảnh hưởng đến lương bổng của công nhân và nhửng dân nghèo ở nông thôn một cách mạnh mẽ. Vì giá xăng dầu và điện gia tăng, các công ty chuyên chở đã tăng chi phí chuyên chở bằng 15%-20%. Các công ty đường sắt cũng gia tăng lệ phí 25% kể từ 1/4/2011. Những công ty hàng không cũng có những quyết định tương tự. Cuối cùng chỉ có những người tiêu thụ chịu mọi hậu quả.

Một cuộc điều tra dư luận của 2,100 công nhân tại bẩy thành phố và tỉnh doTổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam thực hiện vào cuối tháng 11, 2010 cho thấy rằng chỉ có 3.9% số người hồi âm là thỏa mãn với số lương bổng, trong khi đó 50.9% không hài lòng. Vào năm 2010, ở Việt Nam có khoảng 216 vụ đình công xẩy ra. Trong hai tháng đầu của năm nay, có trên 20 vụ đình công liên hệ tới lạm phát mà phần lớn là ở tại những công ty đầu tư nước ngoài sản xuất quần áo, giầy, và đồ điện tử với lương bổng rất thấp và điều kiện làm việc nghèo nàn(15).

Kết luận

Hiện nay Việt Nam ở vào tình trạng tứ bề thọ địch về phương diện kinh tế. Những nhà hoạch định kinh tế phải đương đầu với các mục tiêu khác nhau mà những biện pháp áp dụng sẽ tạo ra những ảnh hưởng trái ngược nhau: giảm lạm phát, duy trì phát triển, giảm đầu tư công, duy trì khu vực DNNN, thúc đẩy sản xuất và xuất khẩu, cân bằng ngân sách và cán cân thương mai. Qua những chỉ thị về ngừng, đình hoãn, giãn tiến độ thực hiện một số dự án đầu tư của nhà nước cho 2011, Nghị quyết 11 cho thấy nhà nước đã không tiên đoán được tình trạng lạm phát nói riêng và kinh tế vĩ mô khó khăn nói chung hiện nay.

Cho đến ngày 3/5/2011, ông Võ Hồng Phúc, Bộ Trưởng Kế Hoạch và Đầu Tư mới xác nhận tại diễn đàn của Ngân Hàng Phát Triển Á châu đang nhóm họp tại Hà Nội rằng ưu tiên hàng đầu của Việt Nam là chống lạm phát và ấn định mục tiêu phát triển kinh tế theo tình trạng lạm phát hiện nay. Mục tiêu phát triển mới là 6.5% thay vì 7% – 7.5%.

Tình trạng kinh tế khó khăn của Việt Nam hiện nay không phải chỉ giới hạn ở vấn đề lạm phát nghiêm trọng. Thật sự lạm phát chỉ là mặt nổi của một tình trạng đáng e ngại hơn. Đó là một sự bất ổn kinh tế toàn diện, từ ngân sách quốc gia thiếu hụt, khu vực DNNN lỗ lã, cán cân thương mại mất cân bằng, thị trường bong bóng nhà đất, đầu tư thiếu kiểm soát, khan hiếm ngoại tệ, cho đến tiền VNĐ mất giá, và nhất là đời sống dân nghèo cơ cực hơn. Cải tổ khu vực quốc doanh là một việc làm cấp thiết hiện nay nếu Việt Nam muốn tiến một cách bền vững, muốn loại bỏ những sự phung phí tài nguyên, và muốn ngặn chặn tình trạng lạm phát tận gốc một cách hiệu quả.

© Nguyễn Quốc Khải

© Đàn Chim Việt

——————————————————–
Chú thích:

1- Nguyen Pham Muoi, Vu Trong Khanh, “Vietnam Inflation Accelerates, Suggesting Future Cooling Efforts,” Wall Street Journal, April 24, 2011.
2- Marianne Brown, “Vietnam Consumers Struggle With Rising Food Prices,” Deutsche Press-Agentur, April 26, 2010.
3- Jason Folkmanis, “Vietnam’s Inflation Accelerates to Fastest Pace in 28 Months,” Bloomberg News, April 23, 2011.
4- Emma Saunders, “Aim is Growth, Not Inflation, as Vietnam Devalues,” Financial Times, February 11, 2011.
5- IMF, “Vietnam: 2010 Article IV Consultation—Staff Report and Public Information Notice,” September 2010.
6- John Ruwitch, “Vietnam Leaders All Talk No Action on Inflation,” Reuters, January 14, 2011.
7- Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, “Nghị Định về Kinh Doanh Xăng Dầu, số 84/2009/NĐ-CP,” 15-10-2009.
8- Wasantha Rupasingha, “Inflation Fuels Social Unrest In Vietnam,” World Socialist Web Site (wsws.org), March 21, 2011.
9- Vietnam Business News, “EVN’s 2010 Losses Excluded in 2011 Electricity Price Scheme,” May 4, 2011.
10- Jason Folkmanis, “Vietnam’s Inflation Accelerates to Fastest Pace in 28 Months,” Bloomberg News, April 23, 2011.
11- Ben Bland, “Inflation Fears as Vietnam Devalues Dong,” Financial Times, February 11, 2011.
12- Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, “Nghị Quyết Về Những Giải Pháp Chủ Yếu Tập Trung Kiềm Chế Lạm Phát, ổn Định Kinh Tế Vĩ Mô, Bảo Đảm An Sinh Xã Hội,” 24-02-2011.
13- Diễn Đàn Kinh Tế Việt Nam, “Vì Sao Tài Khóa còn dửng dưng chống Lạm Phát,” 26-04-2011.
14- Thanh Loan, “Báo Động Đỏ Cung Cấp Xăng Dầu,” PetroVietnam, 29-03-2011.
15- Wasantha Rupasingha, “Inflation Fuels Social Unrest In Vietnam,” World Socialist Web Site (wsws.org), March 21, 2011.

http://www.pagewash.com/nph-index.cgi/000010A/uggc:/=2fqnvyliarjf1.jbeqcerff.pbz/2011/05/08/athlra-auna-in-u=25r1=25on=25nqh-dh=25r1=25on=25n3-p=25r1=25oo=25n7n-a=25r1=25on=25n1a-y=25r1=25on=25n1z-cung-uv=25r1=25oo=2587a-anl-=25r1=25oo=259s-iv=25r1=25oo=2587g-anz/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét