Chủ Nhật, 22 tháng 5, 2011

QUẢN LÝ ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ BẢN (phần 2)

Bài giảng cũ:

QUẢN LÝ ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ BẢN

4. Cơ cấu vốn đầu tư
Đi song song với việc đổi mới nền kinh tế, công tác kế hoạch hoá đã được đổi mới theo 4 hướng sau đây:
Một là, từ cơ chế kế hoạch hoá với 2 thành phần kinh tế cơ bản là quốc doanh và tập thể chuyển sang cơ chế kế hoạch hoá huy động toàn bộ nguồn lực của các thành phần kinh tế phát triển theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước bằng cơ chế chính sách luật pháp và kế hoạch.
Hai là, từ cơ chế khép kín, tự cấp, tự túc trong từng ngành, từng khu vực chuyển sang cơ chế mở cả trong nước và nước ngoài, lấy hiệu quả làm thước đo trong quá trình phát triển.
Ba là, chuyển từ cơ chế phân bổ nguồn lực, mà chủ yếu là nguồn vốn Ngân sách Nhà nước sang cơ chế động viên và khai thác các nguồn vốn khác nhau bằng các cơ chế chính sách phù hợp, định hướng sử dụng các nguồn vốn đó theo mục tiêu kế hoạch.
Bốn là, chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung, với chằng chịt các chỉ tiêu pháp lệnh được bao cấp cả đầu ra lẫn đầu vào sang cơ chế kế hoạch hoá định hướng cung cấp thông tin dự báo và tạo hành lang pháp lý để cho các thành phần kinh tế cùng phát triển.
Trên cơ sở đổi mới đó, nguồn vốn đầu tư phát triển được huy động đa dạng hơn, khai thác khả năng của các thành phần kinh tế. Hiện nay dầu tư phát triển của đất nước được huy động từ 5 nguồn vốn sau đây:
(1)  Nguồn vốn đầu từ Ngân sách Nhà nước:
Được huy động từ bản cân đối thu chi Ngân sách. Trên cơ sở thực hiện chính sách chi Ngân sách tiết kiệm và có hiệu quả, sẽ giành phần đáng kể cho chi đầu tư phát triển. Theo tính toán ban đầu, khả năng tích luỹ Ngân sách từ nguồn thu trong nước giành cho đầu tư phát triển bình quân hàng năm chiếm khoảng 3,7 - 3,8% GDP, bằng 12,6% tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội. Một phần nguồn vốn ODA và các khoản vay nước ngoài sẽ được đưa vào Ngân sách để đầu tư, nâng mức vốn đầu tư phát triển của Ngân sách Nhà nước lên khoảng 5,5 - 6% GDP và bằng khoảng 21% tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội.
  (2) Nguồn vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước,
Nguồn vốn này do Nhà nước huy động từ vốn của ngân hàng, vốn vay dân cư và một phần nguồn vốn ODA cho vay lại.
Khả năng nguồn tín dụng đầu tư của Nhà nước tuỳ thuộc vào khả năng huy động tất cả nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư và vốn vay ODA từ nước ngoài đưa vào đầu tư, thông thường chiếm khoảng 16-17% tổng đầu tư toàn xã hộ, (vốn huy động trong nước 7%, vốn huy động từ nước ngoài cho vay lại chiếm 9,6%).
Đây là phần vốn của Nhà nước cho vay theo lãi suất ưu đãi đối với các dự án đầu tư của các doanh nghiệp trong những lĩnh vực thuộc diện ưu tiên được xác định theo kế hoạch của Nhà nước, trước hết là các dự án đầu tư vào những ngành then chốt và những ngành, những địa bàn được Nhà nước khuyến khích đầu tư theo định hướng của kế hoạch nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lý và có hiệu quả.
(3) Nguồn vốn của các doanh nghiệp Nhà nước,
Nguồn vốn này bao gồm vốn khấu hao cơ bản để lại, lợi nhuận sau thuế, phát hành trái phiếu, cổ phiếu doanh nghiệp, vốn cổ phần hoá, vốn nhà xưởng, đất đai chưa sử dụng đến có thể huy động trong kỳ kế hoạch. Vốn liên kết, liên doanh...
Thông thường nguồn vốn của doanh nghiệp Nhà nước tự đầu tư chiếm khoảng 14 - 15% tổng nguồn vốn đầu tư xã hội, chủ yếu sẽ đầu tư chiều sâu, mở rộng sản xuất, đổi mới thiết bị, hiện đại hoá dây chuyền công nghệ.
(4)  Nguồn vốn của dân cư và tư nhân,
Đầu tư của các doanh nghiệp tư nhân và hộ gia đình có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn, mở mang ngành nghề, phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ và vận tải trên các địa phương. Luật khuyến khích đầu tư trong nước được triển khai thực hiện sẽ tạo thêm điều kiện thuận lợi cho khu vực kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế hộ gia đình phát triển và thúc đẩy sự đan xen, hỗn hợp các hình thức sở hữu trong nền kinh tế. Khả năng nguồn vốn trong dân còn lớn. Nhà nước sẽ ban hành các chính sách khuyến khích nhằm động viên các tầng lớp dân cư đưa đại bộ phận tiền tiết kiệm trong năm và phần để dành cho đầu tư phát triển. Một mặt khuyến khích họ trực tiếp đầu tư vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, mặt khác khuyến khích hình thức đầu tư gián tiếp thông qua việc cho Ngân sách, ngân hàng vay hoặc mua cổ phần trong các doanh nghiệp Nhà nước, mua cổ phiếu công trình,... Tỷ lệ tiết kiệm trong dân cư chiếm bình quân vào khoảng 15,0% GDP, trong đó phần tiết kiệm của dân cư tham gia đầu tư gián tiếp (cho Ngân sách vay, ngân hàng vay và cho các doanh nghiệp Nhà nước vay) vào khoảng 3,7% GDP, chiếm khoảng 25% tổng số tiết kiệm của dân cư; phần tiết kiệm của dân cư tham gia đầu tư trực tiếp khoảng 5% GDP và bằng 33% số tiết kiệm được, ngoài ra một phần tiết kiệm của dân cư được đưa vào cho vay ngắn hạn. Như vậy, sẽ huy động các tầng lớp dân cư đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp khoảng 70% tổng số tiết kiệm của dân cư và bằng 16,6% tổng số đầu tư toàn xã hội. Ngoài ra, nguồn ngoại tệ của dân cư từ nước ngoài gửi về với khối lượng không nhỏ cũng có thể huy động tham gia vào đầu tư phát triển kinh tế.
(5)  Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI),
Đây là nguồn vốn của các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư trực tiệp xây dựng các công trình của Việt nam dưới nhiều hình thức: 100% vốn nước ngoài, góp vốn liên doanh, đầu tư theo hình thức BOT, BT... Nguồn vốn này trong những năm trước mắt sẽ ưu tiên kêu gọi nguồn vốn FDI vào các dự án trong lĩnh vực nông nghiệp, trồng rừng, xây dựng các vùng nguyên liệu chế biến lương  thực, thực phẩm, khuyến khích hưóng vào xây dựng những khu công nghiệp có trình độ công nghệ cao, những khu chế xuất, những xí nghiệp thuộc ngành công nghiệp nặng, hoá dầu, lọc dầu, khai khoáng, xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông, bưu điện, viễn thông, cảng, sân bay, điện, sản xuất thép, phân bón, hoá chất,.. và khuyến khích đầu tư vào những vùng kinh tế trọng điểm, những vùng có nhiều tài nguyên nhưng điều kiện khai thác còn hạn chế.
5. Cơ cấu đầu tư
Cơ cấu đầu tư là kết quả định hướng phân bổ và thực hiện các nguồn vốn đã huy động được trong thời kỳ kế hoạch cho các lĩnh vực đầu tư (bao gồm các dự án đầu tư) theo mục tiêu chương trình đầu tư để hoàn thành các mục tiêu của kế hoạch phát triển kinh tế xã hội.
Cơ cấu đầu tư có tác động rất lớn  và trực tiếp đến cơ cấu kinh tế, nó thúc đẩy cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng mục tiêu của chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Việc huy động nguồn vốn đầu tư là rất cần thiết, là nhân tố để bảo đảm khối lượng đầu tư, nhưng nếu không có định hướng đầu tư đúng, không có mục tiêu chương trình đầu tư rõ ràng thì không có cơ cấu đầu tư tốt, để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Các dạng cơ cấu đầu tư:
(1) Cơ cấu đầu tư theo ngành:
Đó là kết quả định hướng phân bổ và thực hiện các nguồn vốn đầu tư theo các ngành kinh tế quốc dân bao gồm cả 3 khu vực: nông nghiệp, công nghiệp và xây dựng, dịch vụ.
Cơ cấu ngành được xây dựng cho đến ngành cấp 2 theo bảng phân ngành của Tổng cụcnthống kê
(2)  Cơ cấu đầu tư theo vùng, lãnh thổ
Đó là kết quả định hướng phân bổ và thực hiện các nguồn vốn đầu tư theo các vùng lãnh thổ. Trong từng vùng lãnh thổ còn có cơ cấu ngành để bảo đảm thực hiện các mục tiêu của phát triển kinh tế trong từng vùng.
(3) Cơ cấu đầu tư giữa Trung ương và địa phương:
Trong bối cảnh phân cấp quản lý đầu tư và xây dựng hiện nay, và theo Luật ngân sách hiện hành đã hình thành cơ cấu đầu tư nguồn vốn trung ương quản lý và địa phương quản lý (chủ yếu là từ ngân sách)
Trong mỗi nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội đều có thể phân tích, định hướng bằng 3 dạng cơ cấu trên. Tuy vậy, các dạng cơ cấu đầu tư  nêu trên được  tính toán, định hướng trên 2 cung bậc như sau:
 Cơ cấu trước đầu tư,
Đó là cơ cấu được xác định trong quá trình hướng dẫn kế hoạch, mang tính chủ quan dựa vào các cơ chế chính sách được ban hành để thu hút các nguồn vốn đầu tư theo một cơ cấu định hướng của kế hoạch. Trong 5 nguồn vốn nêu trên, nguồn vốn từ ngân sách nhà nước có thể được xác định theo cơ cấu phân bổ cứng, có sự chủ động tương đối của cơ quan hoạch định kế hoạch để thu hút các nguồn vốn khác, còn các nguồn vốn khác tuỳ theo mức độ hấp dẫn về cơ chế chính sách mà có hay không có sự hưởng uứng tích cực theo cơ cấu đầu tư hợp lý trong thời kỳ kế hoạch.
Cơ cấu sau đầu tư  
Đó là kết quả việc thực hiện các nguồn vốn đầu tư đầu tư trong các lĩnh vực đầu tư. Do sự phân cấp đầu tư hiện nay khá rộng rãi, nhất là đối với nguồn vốn từ ngân sách nhà nước nên trong quá trình điều hành thực hiện chương trình đầu tư đều có những sự hiệu chỉnh, bố trí lại cho phù hợp với tình hình thực tế ở từng bộ ngành và địa phương. Trong trường hợp có những sự sai lệch qúa lớn so với cơ cấu chung, ảnh hưởng đến toàn cục thì cần có sự giám sát và điều hành vĩ mô.  
5. Công trình đầu tư và chương trình đầu tư.
Công trình  đầu tư là sản phẩm, và là kết quả của các dự án đầu tư được xác định theo quy hoạch và mục tiêu của kế hoạch được xây dựng bằng nhiều  nguồn vốn khác nhau theo tính chất của từng dự án
Chương trình đầu tư là sự tập hợp có mục tiêu, có thứ tự ưu tiên một chuỗi các quá trình, hoạt động, biện pháp nhằm phối hợp thực hiện có hiệu quả nhất những mục tiêu cụ thể của từng dự án đầu tư trong thời kỳ kế hoạch . Như vậy, chương trình đầu tư là một công cụ, một bộ phận của công tác kế hoạch hoá, là một phương thức thực hiện kế hoạch để đưa nhiệm vụ kế hoạch vào thực thi trong cuộc sống.
Chương trình đầu tư là một bức tranh toàn cảnh về  phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật của một nước trong một giai đoạn nhất định, thường là từ 3-5 năm, nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của cộng đồng và thúc đẩy khả năng phát triển của nền kinh tế.
Một chương trình đầu tư được xây dựng trên cơ sở khoa học và thực tiễn sẽ giúp cơ quan có thẩm quyền, xác định được thứ tự ưu tiên hay tầm quan trọng tương ứng của mỗi một dự án qua sàng lọc, phân loại và xếp hạng rõ ràng, nhất quán theo một hệ thống các tiêu chuẩn lựa chọn, và luôn được cập nhật cho phù hợp với tình hình thực tế; đồng thời sẽ tạo điều kiện tập trung được nguồn lực hướng vào những dự án có hiệu quả kinh tế - xã hội cao nhất, để nhanh chóng đưa vào phát huy trong thời gian hợp lý.
Xem xét trên toàn hệ thống, chương trình đầu tư là tập hợp các dự án đầu tư , trong đó từng dự án đều nhằm những mục tiêu nhất định, thực hiện được các mục tiêu của từng dự án sẽ góp phần thực hiện mục tiêu của chương trình. Điều đó sẽ tạo khả năng thúc đẩy việc hoàn thành mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Chương trình đầu tư sẽ được cập nhật và rà soát lại cho phù hợp với điều kiện và thực tế của tình hình.  Qua việc cập nhật và rà soát này có thể một số dự án phải chỉnh, sửa lại, thậm chí phải hoẵn hoặc đình chỉ thi công, một số dự án mới khác được đề nghị đưa vào chương trình.
Chu kỳ cập nhật và bổ sung chương trình đầu tư công cộng được liên tục thực hiện theo sơ đồ sau:


(1)
(2)
(3)
Năm thứ
1
2
3
4
5
1
2
3
4
5
1
2
3
4
5
Chương trình đầu tư 5 năm
Trong kỳ ké hoạch















Cập nhật và bổ sung lần 1















Cập nhật và bổ sung tiếp















Cập nhật và bổ sung tiếp



































II. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP LUẬN VỀ
QUẢN LÝ ĐẦU TƯ VÀ XÂY DỰNG

1. Kế hoạch hoá chương trình đầu tư:
Chương trình đầu tư phát triển vừa là công cụ điều hành kế hoạch, vừa là giải pháp hữu hiệu nhất nhằm đạt được mục tiêu phát triển nền kinh tế.
Trong qúa trình xây dựng kế hoạch, dựa vào mục tiêu phát triển kinh tế xã hội trong từng thời kỳ và theo quy hoạch tổng thể phát triển từng vùng, quy hoạch phát triển ngành, sản phẩm để xác lập cho được chương trình đầu tư phát triển, bao gồm:
- Mục tiêu của chương trình đầu tư,
- Danh mục các dự án đầu tư trong từng lĩnh vực, từng ngành và trên từng địa phương, sử dụng bằng nhiều nguồn vốn khác nhau trong toàn bộ nền kinh tế.
- Các giải pháp huy động vốn đầu tư.
- Cơ chế quản lý vốn đầu tư
Trong đó, danh mục các dự án đầu tư bằng nguồn vốn của Ngân sách và các nguồn vốn có nguồn gốc của Ngân sách phải được kế hoạch hoá một cách chặt chẽ. Các bước kế hoạch hoá được tiến hành như sau:
- Xác định mục tiêu phát triển của ngành, lĩnh vực, địa phương.
- Đánh giá thực trạng năng lực sản xuất và năng lực các công trình công cộng.
- Xác định nhu cầu tăng thêm của năng lực sản xuất trong từng ngành và trong từng lĩnh vực trên từng địa bàn.
- Xác định danh mục các dự án chuyển tiếp sang thời kỳ kế hoạch tới, trong đó coi trọng danh mục các dự án chuyển tiếp trong lĩnh vực công cộng.
- Hình thành các dự án khởi công mới để đưa vào thực hiện trong kỳ kế hoạch.
- Xác định nguồn vốn và phân bổ các nguồn vốn  cho từng mục tiêu của chương trình
- Xây dựng hệ thống các giải pháp thực hiện chương trình, bao gồm việc phân cấp quản lý chương trình, dự án.
 Trong việc hình thành các dự án mới cần phải tiến hành 4 bước sau đây:
     Bước 1: Nghiên cứu lựa chọn cơ hội đầu tư.
Nghiên cứu lựa chọn cơ hội đầu tư là bước đầu tiên do chủ đầu tư tự làm. Đây là bước mà chủ đầu tư hình thành ý đồ đầu tư và lựa chọn cơ hội đầu tư. Trong bước này, chủ đầu tư dựa trên cơ sở bảng phân bổ tổng hợp các cơ hội đầu tư và thông qua việc phân tích, xử lý các thông tin về nguồn tài lực, thông tin về thị trường, thông tin về tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ,... tiến tới xác lập và lựa chọn cơ hội đầu tư.
Bước 2: nghiên cứu tiền khả thi:
Trên cơ sở cơ hội đầu tư đã lựa chọn, loại trừ các nhân tố không thích hợp, chủ đầu tư thông qua các nhà chuyên môn, các tổ chức tư vấn đầu tư tiến hành bước nghiên cứu tiền khả thi.
Mục đích của bước này là nhằm loại bỏ bớt những vấn đề không cần thiết, giúp nhà đầu tư giảm bớt rủi ro, tiết kiệm chi phí khi chuyển sang giai đoạn chuẩn bị đầu tư. Bước này thường được đánh giá và khẳng định được các vấn đề quan trọng ảnh hưởng đến sự thành bại của đầu tư như vấn đề về đầu ra, đầu vào, địa điểm, yêu cầu hoạt động và tính hiệu quả của dự án,...
Bước 3: nghiên cứu khả thi;
Đây là bước có khối lượng công việc lớn nhất, đầy đủ và toàn diện nhất, đảm bảo cho việc quyết định đầu tư đúng đắn, hạn chế đến mức thấp nhất các khả năng rủi ro có thể xảy ra. Các tài liệu điều tra cơ bản, các phân tích tính toán đề xuất trong bước này đòi hỏi phải đạt độ chính xác cao (sai số không vượt quá 5%). Đầy là cơ hội cuối cùng và quan trọng nhất để các nhà đầu tư lựa chọn các giải pháp tối ưu cho mình trước khi quyết định bỏ vốn. Báo cáo khả thi phải có nội dung đầy đủ, phải chu đáo đến mức người ra quyết định không còn phát hiện điều gì về việc thiếu số liệu hoặc phân tích chưa kỹ, bỏ sót hoặc sai lệch. Kết thúc bước này là kết thúc giai đoạn chuẩn bị đầu tư.
Do yêu cầu và tầm quan trọng của dự án, quá trình nghiên cứu khả thi đòi hỏi phải huy động một lực lượng lớn các chuyên gia có trình độ cao, thuộc nhiều lĩnh vực với phạm vi rộng và có lượng thông tin tích luỹ phong phú. Vì vậy, nghiên cứu khả thi thường được các nhà đầu tư thuê các hãng tư vấn đầu tư hoặc một tập thể các hãng tư vấn đầu tư hoặc một tập thể các nhà chuyên môn ở nhiều lĩnh vực soạn thảo.
Nói chung, nội dung nghiên cứu khả thi được lặp lại gần đúng như nghiên cứu tiền khả thi nhưng phạm vi nghiên cứu rộng hơn, yêu cầu nghiên cứu đòi hỏi độ chính xác cao hơn và phải giải đáp được chi tiết từng vấn đề cụ thể như phải xác định được công suất, lựa chọn được địa điểm, lựa chọn dây chuyền công nghệ và thiết bị, xác định nguồn cung cấp nhân lực, nguyên nhiên vật liệu, điện, nước, xác định thị trường tiêu thụ, khẳng định được nguồn tài trợ, điều kiện tài trợ,...
Do đặc điểm từng lĩnh vực, từng ngành sản xuất khác nhau nên từng nội dung trong nghiên cứu khả thi tuỳ theo từng lĩnh vực, từng ngành cóthể có mức độ nông sâu khác nhau. Ví dụ, đối với các dự án thuộc ngành sản xuất công nghiệp phải đi sâu các vấn đề nền móng công trình, cung cấp điện, nước, giao thông phục vụ sản xuất, tiêu thụ sản phẩm và bảo vệ môi trường. Đối với các dự án ngành sản xuất nông, lâm nghiệp dự án trước hết phải tập trung giải quyết vấn đề phân bổ đất đai sử dụng giữa các ngành và các thành phần kinh tế,...       
Bước 4: đánh giá, sắp xếp thứ tự ưu tiên danh mục các dự án.
Đối với chương trình đầu tư công cộng vì được đầu tư bằng nguồn vốn Nhà nước do đó, các bước tiến hành sẽ chặt chẽ hơn, gắn kết giữa mục tiêu phát triển, mục tiêu ổn định trong từng dự án đầu tư, trong từng ngành và từng vùng. Đồng thời phải tiến hành lựa chọn và sắp xếp các dự án đầu tư công cộng theo thứ tự ưu tiên trongtừng lĩnh vực và trong từng địa bàn theo nguyên tắc sau đây:
Một là, xác định mức độ cần thiết của dự án. Nội dung nầy chủ yếu xem xét ”đầu ra” của dự án, nghĩa là khả năng đáp ứng các sản phẩm công cộng, mức độ tác động của nó đối với các hoạt động kinh tế xã hội trong một vùng và sự loan toả đến các vùng khác.
Hai là, phải bảo đảm nguyên tắc hiệu quả (sẽ trình bày kỹ hơn ở chương VI). Bất kỳ dự án đầu tư nào cũng cần phải thẩm định, đánh giá, xác định tính hiệu quả của nó. Trước hết phải đánh giá tính hiệu quả về  mặt tài chính của dự án và hiệu quả kinh tế xã hội ở tầm kinh tế quốc dân. Có nhiều dự ánđầu tư công cộng khôngcó lãi về mặt tài chính, thậm chí Nhà nước phải trợ giá , nhưng vẫn quyết định đầu tư vì hiệu quả kinh tế xã hội của chúng.
Ba là, bảo đảm nguyên tắc phát triển bền vững và phân bố hợp lý giữa các vùng. Rõ ràng là trong chương trình đầu tư công cộng cần có các dự án nhằm tạo ra các yếu tố tăng trưởng ở một số ngành, địa bàn trọng điểm, làm động lực, đầu tàu tăng trưởng, kéo theo các ngành, khu vực, địa bàn khác tăng trưởng theo. Tuy nhiên, cần có sự cân đối hợp lý giữa tăng trưởng theo điểm và theo diện để tránh sự phát triển chênh lệch quá mức giữa các tầng lớp dân cư trong xã hội, giữa các ngành, vùng lãnh thổ.
Bốn là, phải bảo đảm nguyên tắc hệ thống. Mỗi một dự án trong chương trình đầu tư công cộng là một bộ phận hữu cơ của cả chương trình đầu tư công cộng, có tác động và ảnh hưởng đến toàn bộ chương trình. Vì vậy, việc lựa chọn các dự án không làm một cách riêng biệt, tách rời khỏi hệ thống, mà cần được tiến hành theo hướng phát huy tác động của cả chương trình. Nói cách khác, một dự án, dù xét riêng biệt có thể cho hiệu quả rất cao, nhưng nếu đặt vào trong chương trình mà không phát huy được tác dụng của các dự án khác trong chương trình thì cũng cần xem xét lại. Vì vậy, việc lựa chọn và xếp hạng dự án phải nhìn một cách toàn diện, xét hiệu quả tổng hợp của toàn bộ chương trình đầu tư công cộng.
Năm là, bảo đảm nguyên tắc lợi thế so sánh. Việc lựa chọn và xếp hạng các dự án đầu tư công cộng cần đáp ứng yêu cầu phát huy tối đa thế mạnh - lợi thế so sánh, và khắc phục những bất lợi của cả đất nước nói chung và của từng ngành, địa phương nói riêng. Cụ thể, cần phát huy thế mạnh về lực lượng lao động, tài nguyên thiên nhiên đa dạng còn ít được khai thác và chế biến,... Ngược lại, cần hạn chế tới mức tối đa sự bất lợi do khan hiếm về vốn, nhất là sự lệ thuộc vào nguồn tài chính bên ngoài. Nói cách khác, nên ưu tiên chọn các dự án dùng nhiều lao động, nguyên liệu sẵn có trong nước, tài nguyên thiên nhiên, sử dụng ít ngoại tệ,...
2. Quá trình đổi mới cơ chế quản lý  đầu tư và xây dựng

(1). Các cơ chế về tăng khả năng thu hút vốn đầu tư trong nước:

 (1.1) Một số cơ chế, chính sách chung đã ban hành tác động trực tiếp đối với phát triển doanh nghiệp trong nước.

Trong thời gian qua đã khuyến khích sản xuất kinh doanh thông qua việc bổ sung, sửa đổi, ban hành và triển khai các Luật như: Luật doanh nghiệp, Luật khuyến khích đầu tư trong nước, Luật thương mại, Luật thuế giá trị gia tăng và các chính sách cụ thể như:
- Xây dựng chương trình hành động thực hiện Nghị quyết TW3 nhằm huy động nguồn vốn đầu tư từ khu vực Doanh nghiệp Nhà nước do qua trình sắp xếp lại.
- Xây dựng chương trình hành động thực hiện Nghị quyết TW5 nhằm khai thác nguồn vốn đầu tư từ khu vực kinh tế tập thể và kinh tế tư nhân.
- Ban hành đồng bộ các văn bản hướng dẫn thực hiện Luật Doanh nghiệp nhằm ổn định và tạo môi trươngf thuận lợi để thu hút nguồn vốn đầu tư của khu vực dân cư.
- Ban hành sửa đổi Luật khuyến khích đầu tư trong nước, theo hướng mở rộng phạm vi ưu tiên, các sản phẩm ưu tiên, ưu đãi, địa bàn ưu tiên ưu đãi để huy động cao hơn nguồn vốn trong nước của các thành phần kinh tế.
- Ban hành Nghị định số 90 của Chính phủ về khuyến khích phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ nhằm khuyến khích và thu hút nguồn vốn của dân cư đưa vào đầu tư.
- Ban hành Nghị định 35/2002/NĐ-CP ngày 29-3-2002, về việc sửa đổi, bổ sung danh mục A, B, C ban hành tại phụ lục kèm theo Nghị định số 51/1999/NĐ-CP ngày 8-7-1999 của Chính phủ qui định chi tiết thi hành luật khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi). 
- Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 193/2001/QĐ-TTg ngày 20-12-2001 về việc ban hành qui chế thành lập tổ chức và hoạt động của Quĩ Bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa
- Nghị quyết số 05/2001/NQ-CP  ngày 24-5-2001về việc bổ sung một số giải pháp điều hành kế hoạch năm 2001, trong đó hạ lãi suất tín dụng nhà nước từ 7% xuống còn 5,4%/năm; lãi suất cho vay của ngân hàng phục vụ người nghèo đối với khu vực 3 là 5,4%, các khu vực khác là 6%.
- Quyết định số 105/2002/QĐ-TTg ngày 2-8-2002 của TTCP về chính sách cho các hộ dân vùng ngập lũ mua trả chậm nền nhà và nhà ở trong ácc cụm tuyến dân cư ở các tỉnh ĐBSCL.
- Ban hành Nghị định 51/1999/NĐ-CP ngày 8/7/1999 và Nghị định 35/2002/NĐ-CP ngày 29-3-2002 của Chính phủ về cấp ưu đãi cho các doanh nghiệp đầu tư mới hoặc đầu tư mở rộng vào những ngành và khu vực được khuyến khích dưới các hình thức như miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, miễn thuế sử dụng vốn, miễn thuế nhập khẩu vật tư thiết bị tạo tài sản cố định, miễn thuế nhập khẩu nguyên liệu cho sản xuất hàng xuất khẩu và hỗ trợ lãi suất sau đầu tư
Các cơ chế, chính sách và luật pháp mới ban hành trong thời gian qua đã góp phần quan trọng điều chỉnh môi trường đầu tư thông thoáng, giảm chi phí đầu tư đê thu hút nguồn vốn đầu tư.
(1.2) Các văn bản và cơ chế chính sách hỗ trợ gián tiếp việc thu hút nguồn vốn đầu tư phát triển:
- Chủ trương hỗ trợ đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng làng nghề, hạ tầng du lịch, hạ tầng khu công nghiệp vừa và nhỏ, hạ tầng nuôi trồng thuỷ sản, hạ tầng chợ đầu mối...
- Thực hiện chính sách đối với lao động dôi dư do sắp xếp, chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước dưới dạng được nghỉ hưu trước tuổi, được hỗ trợ kinh phí đóng bảo hiểm xã hội, trợ cấp mất việc làm, đào tạo nghề miễn phí cho người lao động dôi dư (Nghị định 41/2002/NĐ-Cp ngày 11/4/2002 của Chính phủ)
Với các cơ chế, chính sách và chương trình hỗ trợ đã được ban hành nêu trên, một số doanh nghiệp công nghiệp đã có thêm điều kiện thuận lợi để phát triển. Tuy nhiên, về cơ chế chính sách cũng còn bất cập và chưa đồng bộ cần xem xét bổ sung để tạo môi trường và kế hoạch thuận lợi hơn cho công nghiệp phát triển và sẽ được trình bày ở phần giải pháp.

(1.3). Các cơ chế thu hút vốn đầu tư nước ngoài

Về cơ chế quản lý và khuyến khích thu hút vốn đầu tư trực tiếp  nước ngoài đã được ban hành:

- Luật bổ sủa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu tư nước ngoài taị Việt Nam.
- Nghị định 24/2000/NĐ-CP ngày 31/7/ 2000 quy định chi tiết việc thi hành Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam .
- Nghị định 27/2003/NĐ-CP ngày 19/3/2003 thay đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 24/2000/NĐ-CP.
- Đã trình Chính phủ dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định 36/CP về khu công nghiệp khu chế xuất; Dự thảo Nghị định về thí điểm cổ phần hoá các doanh nghiệp FDI. Hiện nay, Chính phủ đang xem xét để ban hành trong thời gian sắp tới.
 - Mở rộng phạm vi phân cấp xem xét cấp phép các dự án đầu tư nước ngoài cho các ngành, các địa phương.
- Thực hiện một số các cơ chế chính sách nhằm đưa về một mặt bằng trong chi phí đầu tư, cơ hội đầu tư giữa đầu tư trong nước và đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam.
- Bổ sung quy định một số ưu đãi về thuế đối với ĐTNN nhằm tăng cường tính hấp dẫn và cạnh tranh của môi trường đầu tư Việt Nam như mở rộng các quy định về miễn, giảm thuế nhập khẩu, giảm mức thuế suất thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài, mở rộng diện được hưởng các ưu đãi về chuyển lỗ.
- Thực hiện cơ chế mở rộng quyền tự chủ trong tổ chức quản lý, kinh doanh của doanh nghiệp ĐTNN; xoá bỏ sự can thiệp không cần thiết của cơ quan Nhà nước vào hoạt động bình thường của doanh nghiệp.
Các Luật, văn bản pháp luật nói trên đã có tác động tích cực đến hoạt động đầu tư nước ngoài tại nước ta, tạo sự thông thoáng hơn cho các hoạt động đầu tư nước ngoài, đơn giản hoá các thủ tục đầu tư nước ngoài…  Tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc và giảm thiểu rủi ro trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp và nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Do vậy, trong bối cảnh có sự cạnh tranh gay gắt về thu hút vốn FDI của các nước, nhờ có môi trường đầu tư tương đói tốt, nên trong những năm  qua hoạt động đầu tư nước ngoài đã có đạt những thành tích đáng kể:
- Thực hiện vốn đầu tư FDI đạt khá, riêng năm 2002 đạt 2,5tỷ USD.
- Vốn tăng thêm của các dự án tăng khá cao, chứng tỏ môi trường của ta đã được cải thiện đáng kể. Riêng năm 2002, vốn tăng thêm đạt 1.050 triệu USD, bằng khoảng 50% vốn đầu tư được cấp phép cả năm  2002.
(2) Các cơ chế chính sách quản lý đầu tư và xây dựng:
 Trải qua nhiều lần thay đổi cơ chế quản lý đầu tư và xây dựng, bắt đầu từ Quyết định 232/QĐ-TTg, tiếp đến là các Nghị định 385/CP, 177/CP, 42/CP và 92/CP, đến nay chúng ta đã có hai Nghị định đang được thực hiện là Nghị định 52/1999/NĐ-CP ngày 08/7/1999 và kèm theo Nghị định là quy chế quản lý đầu tư và xây dựng. Sau một năm thực hiên, quy chế quản lý đầu tư và xây dựng đã bộc lộ một số điểm cần phải xem xét lại. Vì vậy, ngày 05 tháng 5 năm 2000 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 12/2000/NĐ-CP về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của quy chế quản lý đầu tư và xây dựng ban hành kèm theo nghị định số 52/1999/NĐ-CP ngày 08 tháng 7 năm 1999 của Chính phủ. Việc sửa đổi lại đã thể hiện trong các điều 6, 7, 9, 10, 11, 12, 13, 14, 22, 27, 35, 38, 41, 43, 46 và 63 và Phụ lục phân loại dự án đầu tư.
- NĐ số 07/2003/NĐ-Cp về sửa đổi một số điều của quy chế quản lý đầu tư và xây dựng để phù hợp với yêu cầu nhằm đổi mới cơ chế quản lý theo hướng tăng cường phân quyền, phân cấp một cách hợp lý .Đi đôi với việc phân quyền và phân cấp phải quy định rõ trách nhiệm của các chủ thể đầu tư.
Đây là những Nghị định được bổ sung, sửa đổi khá toàn toàn diện, trong đó quản lý đầu tư và xây dựng đã được phân cấp mạnh cho các bộ, ngành và địa phương, đồng thời đã thực hiện việc phân cấp quản lý đầu tư và xây dựng theo từng nguồn vốn cụ thể, rõ ràng. Đặc biệt, các Nghị định 52 và 12 đã làm rõ chức năng quản lý nhà nước, chức năng của chủ đầu tư trong lĩnh vực đầu tư và xây dựng; xác định rõ mục tiêu, phạm vi và đối tượng quản lý; phân định cụ thể quyền hạn, trách nhiệm của các cấp, các ngành trong từng khâu của quá trình đầu tư và xây dựng, nhất là trong các khâu quy hoạch, chuẩn bị đầu tư, thẩm định dự án, quyết định đầu tư, triển khai thực hiện dự án đầu tư, thanh quyết toán vốn đầu tư... Nhiều thủ tục hành chính trong quá trình đầu tư và xây dựng đã được đơn giản hoá. Nhờ đó, công tác quản lý đầu tư và xây dựng trong thời gian qua đã có nhiều chuyển biến tích cực, đã phát huy được nội lực trong việc huy động và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư, cho phép các đối tượng tham gia đầu tư và xây dựng được nhiều chủ động hơn trong sản xuất, kinh doanh.
Đang nghiên cứu để hoàn chỉnh trình cấp có thẩm quyền ban hành 
- Tiếp tục thực hiện chủ trương của Chính phủ về thống nhất Luật Đầu tư nước ngoài và Luật Đầu tư trong nước thành một Luật chung áp dụng chung. Hướng quan trọng là cần có cơ chế một giá cho tất cả các loại hình doanh nghiệp, nhằm giảm chi phí đầu vào, tăng khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp.
- Sửa đổi bổ sung Thông tư 12/2000/TT-BKH về hướng dẫn hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam  để cụ thể hoá Nghị định 27/Cp nói trên. 
- Pháp lệnh về đấu thầu
- Sửa đổi bổ sung Nghị định 88 và 14/CP về đấu thầu
- Sửa đổi bổ sung Nghị định 43/CP về tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước.
-   Luật Xây dựng và Luật Đầu tư.
- Tăng cường công tác giám sát và giám định đầu tư
- Đổi mới công tác  quản lý nguồn  vốn ODA
Trong thời gian qua, công tác vận động và thu hút nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) đã đạt được những kết quả quan trọng, góp phần thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của kế hoạch 5 năm 2001-2005 và kế hoạch hàng năm.
Việc quản lý nguồn vốn này đã đi vào nề nếp và ngày một đồng bộ. Nghị định 17/CP của Chính phủ ban hành ngày 4/5/2001về quản lý và sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức(ODA) và quyết định 64/TTg ngày 26/4/2001 của Thủ tướng Chính phủ về quản lý sử dụng viện trợ phi Chính phủ nước ngoài (NGO) đã tăng cường công tác quản lý nhà nước các nguồn vốn này, đồng thời mở rộng phân cấp và đề cao trách nhiệm của các Bộ, địa phương và các cơ quan thụ hưởng.
 Bên cạnh đó phải nhận xét rằng giải ngân các nguồn vốn viện trợ nước ngoài hiện chưa đạt được kế hoạch đề  ra, ảnh hưởng đến tiến độ công trình và làm giảm hiệu quả đầu tư. Có nhiều nguyên nhân của tình hình này, một trong số đó là các quy định, quy trình thủ tục của ta còn chưa thật đồng bộ, thiếu rõ ràng và có nơi, có lúc còn rườm ra, phức tạp làm khó cả cho ta lẫn nhà tài trợ nước ngoài.
 Nhằm khắc phục tình trạng nêu trên để đẩy mạnh giải ngân nguồn viện trợ nước ngoài, Chính phủ sẽ sớm ban hành Nghị định bổ sung và sửa đổi các Nghị định về đấu thầu, di dân giải phóng mặt bằng và tái định cư. Đồng thời Chính phủ yêu cầu các cơ quan quản lý nhà nước viện trợ nước ngoài rà soát lại các quy trình và thủ tục theo hướng rõ ràng, minh bạch cả đối với trong nước cũng như đối với bên tài trợ nước ngoài.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét