3- Một ngày như mọi ngày…Bình thường một ngày của dân chúng ở Nga bắt đầu vào lúc 8 giờ sáng, những ai không phải đi làm có thể tự cho phép bình minh bắt đầu vào lúc 9-10 giờ. Trời mùa đông ở Nga phải đến 9 giờ mới sáng, nên 9-10 giờ sáng thức giấc cũng không phải trưa quá. Những người đi chợ Vòm phải thức giấc vào lúc 5 giờ sáng và đến 6 giờ 30 đã có mặt ở “công”, sẵn sàng phục vụ khách hàng. Vào mùa hàng chạy, hay vào những hôm bán “ốp- tâm” (bán buôn) người ta phải có mặt ở vị trí từ 6 giờ.
1 góc chợ Vòm
Mặc dù ai phải đi chợ thường đi ngủ rất sớm, nhưng hôm nào nghe tiếng chuông báo thức lúc 5 giờ sáng người ta cũng thấy sao mà khổ thế, ai cũng cố gắng ngủ thêm một vài phút cho đỡ thèm, rồi mới tung chăn vùng dậy. Người ta bảo, vào mấy phút ngủ rốn ấy, trong đầu họ lập tức hiện lên một con tính rất nhanh, nếu nghỉ một buổi chợ, họ bị mất 50 đô la tiền thuê “công”, rồi tiền kho, tiền hộ khẩu…tổng cộng không dưới 100 đô la, nên lại bật dậy đi làm. Những người đi chợ Vòm ngoài ước mong kiếm tiền, còn một ước mơ đơn sơ giống y như nhau: được ngủ thả phanh, được ngủ thoải mái, được ngủ đến lúc nào chán thì thôi! Mỗi năm họ cũng được toại nguyện ít nhất một ngày- đó là Năm mới. Chợ Vòm chính thức chỉ nghỉ có một ngày đầu năm, còn quanh năm suốt tháng nó mở cửa làm việc, không kể thời tiết, không kể ngày nghỉ, mà đến cả các ngày lễ trong năm nó cũng không màng nghỉ ngơi. Tinh thần làm việc của dân chợ Vòm nếu vào thời Liên Xô, chắc thế nào cũng được tặng thưởng huy chương, hay ít nhất cũng được chiến sỹ thi đua. Thế mà-tiếc quá- nó lại sinh nhầm thời!Sau khi ăn sáng thật chắc dạ để tích trữ năng lượng cho một ngày lao động cật lực, người đi chợ cẩn thận nhìn hàn thử biểu ngoài trời. Nếu nhiệt độ dưới âm 15 độ, họ phải mặc chừng 7-8 lớp áo khác nhau, trong đó ít nhất có tới 2 cái áo dầy sụ, trông như một cái bắp cải mùa đông rồi lặng lẽ lăn từ từ khỏi nhà. Đúng là “lăn” thật vì cứ thử hình dung mà xem, những đôi bàn chân nhỏ bé thường chỉ mang giầy cỡ 36-37, giờ phải đi tới 4-5 lớp tất len, và bỏ vào một đôi ủng cỏ thô (tiếng Nga gọi là Valenki) cỡ 42-43 thì không có cách gì mà “đi” được. Nếu dùng một từ chính xác hơn, thì có lẽ là họ “lướt”, nhưng “bắp cải” thì khó “lướt” quá, nó chỉ biết “lăn” thôi!
Ngoài trời còn tối như bưng, trên các ngả đường còn vắng lặng. Metro chỉ vừa mở cửa lúc 5giờ 30 vẫn còn vắng tanh. Mùa đông nhiều người Nga cho xe vào gara để khỏi hỏng xe, nên metro rất đông, vào giờ đi làm các toa tầu đều chật cứng. Nhưng vào lúc 5 giờ 30 cả đoàn tầu chỉ có vài chục hành khách, những người đi chợ Vòm tha hồ chọn chỗ ngồi ngủ mơ màng thêm ít phút.
Chợ Vòm nằm ngay cạnh ga metro Cherkizov, nhưng ít người Việt nào dám lên ga này để đến chợ. Người đi chợ có tiền, hầu hết đều mua ô tô, còn những ai phải đi metro lại thường rất nghèo, nên ít khi có hộ khẩu hợp lệ. Cảnh sát ở những ga gần chợ được đánh giá là “cáo”, vì họ thuộc lòng mặt từng người không có giấy tờ đi qua đây, nhớ quy luật đi về để ra đây đón lõng bắt phạt. Người đi chợ thường xuống trước một hai bến, rồi lên mặt đất bắt taxi đến tận cổng chợ. Tuy hơi tốn tiền taxi một chút, nhưng lại tránh được khoản tiền phạt. Tiền taxi đến chợ thường mất hơn 1 đô la, còn tiền phạt rẻ cũng mất 2-3 đô la nên vẫn tiết kiệm được một khoản chi.
Mặc dù đã phải xuống trước vài ga, nhưng như vậy cũng không phải tuyệt đối an toàn. Cảnh sát trực các ga metro trước đó cũng có người ranh ma không kém. Lặng lẽ đứng nấp sau một cây cột đá trong đường ngầm, vừa thấy mấy người Việt Nam ló mặt ra là họ hỏi ngay: “giấy tờ đâu?”. Lâu dần thành quen, người Việt đâm cảnh giác hơn, vừa đi vừa nghe ngóng, phán đoán xem hôm nay tay cảnh sát có thể trốn ở đâu để đi vòng đường khác. Cảnh sát với người Việt như hai kẻ chơi trốn tìm nồng nhiệt, vừa căng mọi giác quan ra phán đoán, vừa hồi hộp thích thú xem ai giỏi hơn. Mỗi khi phán đoán sai bị phạt tiền, mấy người Việt Nam lại vỗ vai viên cảnh sát khen :”mày giỏi quá !”. Viên cảnh sát vừa thu được tiền phạt, vừa được khen, mặt nở như chiếc bánh đa, vừa cười sung sướng, vừa cám ơn, vừa hẹn…tái ngộ luôn luôn!
Từ cổng chợ vào đến “công” bán hàng còn phải đi vòng vèo 5-10 phút nữa qua các dãy “công” san sát. Trời vẫn tối om, đường đi không có đèn điện, nhưng các bóng người cứ lao đi vun vút. Cư dân ở đây đã học được cách định hướng rất tốt, họ chẳng cần nhìn đường, cứ đi theo một phản xạ có điều kiện đã ăn sâu vào…chân. Nhiều “công” hai bên đường đã mở cửa, xếp hàng xong, các chủ nhân của nó đã có thể tắt đèn pin ngồi thì thào nói chuyện trong bóng tối. Những công đang xếp hàng thì người giữ đèn pin, người kéo bàn ra sắp xếp hết sức khẩn trương. Ai cũng hiểu thời gian là tiền bạc, chỉ cẩn để tuột mất một “con khách ốp tôm”- tức là một khách hàng mua buôn- thì coi như mất một buổi chợ. Khắp chợ đâu cũng thấy người ta bàn chuyện bán buôn.
-Năm nay trời nóng chẳng ra nóng, lạnh chẳng ra lạnh, mấy “công’ hàng da nhà em lỗ mất mấy trăm “vé”.
-Nào riêng gì áo da nhà chị, hàng áo phao nhà em cũng bán tống bán tháo mà trong kho còn cả đống kia. Chẳng biết bao giờ mới trở lại cái thời trước khủng hoảng nhỉ, hồi ấy nhà em vừa bán vừa đuổi khách mà họ cứ bâu vào mua.
-Làm gì còn cái thời ấy nữa chị, hồi ấy mỗi ngày nhà em lãi mấy “chục vé”, ngon ơ.
-Thế nào, hàng nhà anh mấy hôm nay có “tít” không?
-Cũng túc tắc đủ ăn đủ tiêu thôi.
-Thời buổi này đủ ăn, đủ tiêu là tốt rồi, em cũng chỉ mong được như ông anh thôi.
-Năm nay vụ 8 tháng 3 bên nhà anh định đi hàng gì đấy, áo sơ mi hay nước hoa?
_Em đang định lấy áo sơ mi cho chắc ăn. Nước hoa thì lãi dầy thật nhưng hàng tồn thì chỉ còn nước vứt đi. Dân Nga bây giờ cũng khôn lắm, họ biết tỏng mình bán toàn hàng dởm, nên không chạy như mấy năm trước nữa.
Cảnh họp chợ ban đêm làm tôi nhớ đến những hôm chợ phiên ở chợ Bưởi cái thời tôi còn be tí. Thời ấy, cứ vào những ngày tận cùng là con số 4 hay 9: mồng 4, mồng 9, 14, 19, 24, 29 theo lịch âm, các bà, các chị từ ngoại ô lại lỉnh kỉnh quang gánh kéo về họp chợ từ 4- 5 giờ sáng. Trên con đê trước nhà tôi từng đoàn người nối tiếp nhau vừa đi vừa trò chuyện trong bóng tối, chốc chốc lại thấy cất lên một giọng cười lảnh lót của mấy cô gái trẻ trêu nhau. Mấy chục năm trước, bóng tối còn được trang điểm thêm những tiếng gà gáy, tiếng chó sủa làm đêm bớt buồn và cô quạnh. Những câu chuyện của dân chúng đi chợ mà chỉ thấy nói toàn chuyện trời, chuyện đất, chuyện ăn, chuyện mặc, không thấy kêu ca hàng chạy hay không, lãi nhiều hay ít.
Không ngờ đã sang tới thiên niên kỷ thứ ba, mà vẫn có cảnh họp chợ trong bóng đêm và con người vẫn phải căng người ra để tính toán từng đồng, từng đồng.
Trời vừa mờ sáng, các đoàn xe đi lấy hàng từ các tỉnh cũng vừa cập bến. Dân đi lấy hàng tay kéo xe đẩy, tay vung vẩy mấy cái túi dứa to tướng còn rỗng không, nhanh nhẩu tỏa vào các dẫy bán hàng. Những cặp mắt vừa đấy còn nặng vì buồn ngủ, phút chốc đã hoạt bát hẳn, đảo lướt qua các sạp hàng để tiên liệu xem mẫu mã nào có thể bán được. Cả người mua và người bán đều tiết kiệm lời tới mức tối đa, sau mỗi câu hỏi: “Bao nhiêu?”, người ta cũng chỉ nghe thấy một con số duy nhất: “Trăm ba”, hay “Bốn tám”, rồi không gian lại chìm vào im lặng. Cả người mua và người bán đều bận tính toán trong đầu xem giá nào có thể mua được, giá nào có thể bán được. Dân mua buôn nắm giá rất chắc. Cả khu chợ hàng chục ngàn “công”, thế mà bao giờ họ cũng vẫn tìm được người bán giá thoáng nhất. Sau khi thấy giá cả có vẻ mua được, đôi bên mới tiếp tục trả giá, bên bớt 5 xu, kẻ nèo 3 xu một “con” hàng hóa. Thường người bán bao giờ cũng hỏi:
-Thế bà mua nhiều không?,
Trước khi quyết định hạ giá cho khách. Sau khi “tiền đã trao, cháo đã múc” đôi bên mới hồ hởi chào hỏi, hẹn gặp, chúc tụng nhau cứ như những người quen cũ lâu lắm mới gặp lại. Mỗi người bán buôn lại có vài mánh lới lôi kéo khách quay trở lại mua hàng của mình, họ gọi là “chăn khách”: Nào là hạ giá, nào là chọn hàng đẹp, nào là khuân hàng ra xe giúp… Hôm nào “chăn” được một ông khách “sộp”, hôm đó đúng là một ngày hội của dân bán hàng. Càng nhiều khách mua quen thu nhập của người bán càng đều đặn hơn.
Khi trời sáng rõ mặt người, những đợt khách buôn lớn đã thưa thớt dần, chỉ còn khách mua lẻ và mua buôn nhỏ trong thành phố đến mua túc tắc. Trên con đường ngập nước, chốc chốc lại thấy một chiếc xe chở hàng của dân cửu vạn, vừa đi vừa hô luôn mồm: “Dorogu, dorogu”, tiếng Nga nghĩa là “nhường đường nào, nhường đường nào”. Phần lớn dân chúng đều bỏ qua lời xin đường, tiếp tục nhìn ngó hàng hóa hai bên đường để lựa chọn, nên các anh cửu vạn luôn phải dùng người vừa đi vừa gạt khách.
Đến 2-3 giờ trưa, chợ bán buôn đã vãn hẳn khách. Nhiều “công” đã rục rịch xếp hàng, thu dọn chỗ. Trời mùa đông ở Nga rất mau tối, 4 giờ chiều trời đã lại nhá nhem. Những người chăm chỉ nhất cũng đóng công chuẩn bị đi ăn trưa rồi về. Những người đi bán hàng thuê không dám bỏ ra hơn 1 đô la mỗi ngày để ăn trưa ở chợ, họ nhanh chân đi về nhà ăn cho rẻ.
Những người làm ở chợ Vòm này phải kỳ kèo với khách từng hào, nên dù lưu lượng hàng bán ra mỗi ngày có thể lên tới vài chục ngàn đô la, nhưng họ vẫn hết sức tiết kiệm. Phần lớn dân chợ Vòm, từ người làm thuê đến ông bà chủ hàng đều có đức tính chi li đến khó hiểu. Họ không keo kiệt chút nào, không bủn xỉn chút nào, nhưng tác phong nghề nghiệp đã ngấm vào cuộc sống, không thể tách chúng ra được nữa. Thay vì tính một bữa cơm trưa 40 rúp tương đương gần 1,5 đô la thì họ tính nếu không ăn trưa ở chợ, một năm họ tiết kiệm được tới 540 đô la, một con số thật đáng để tiết kiệm!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét