BÁO CÁO TÌNH HÌNH KINH TẾ, XÃ HỘI
NĂM 2012 VÀ NHIỆM VỤ NĂM 2013
(Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trình bày
tại Kỳ họp thứ 4, Quốc hội khoá XIII, ngày 22 tháng 10
năm 2012)
__________
Thưa các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam,
Thưa các vị đại biểu
Quốc hội,
Thưa các đồng chí
lão thành cách mạng và các vị khách,
Thưa đồng chí, đồng
bào,
Thay mặt Chính phủ, tôi xin trân trọng báo cáo với Quốc hội và đồng bào cả
nước một số vấn đề lớn về tình hình kinh tế, xã hội năm 2012; mục tiêu, nhiệm
vụ và những giải pháp chủ yếu của Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2013.
Phần thứ nhất
TÌNH HÌNH THỰC HIỆN NHIỆM VỤ
PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 2012
Chúng ta thực hiện nhiệm vụ năm 2012 trong bối cảnh kinh
tế thế giới biến
động rất phức tạp và khó khăn nhiều hơn, thương
mại sụt giảm mạnh, tăng trưởng toàn cầu thấp so với dự báo đầu
năm, tác động tiêu cực đến nền kinh tế đã hội
nhập sâu rộng và có độ mở lớn như nền kinh tế nước ta. Ở trong nước, việc thắt
chặt tài khóa và tiền tệ để kiềm chế lạm phát là cần thiết nhưng hệ quả là cầu
nội địa giảm mạnh, hàng tồn kho lớn, lãi suất tín dụng tăng cao; doanh nghiệp
khó tiếp cận vốn, sản xuất khó khăn. Bên cạnh đó, chúng ta phải dành nhiều thời
gian và công sức để đối phó với thiên tai, dịch bệnh, các âm mưu thủ đoạn gây
mất ổn định chính trị - xã hội và đe dọa chủ quyền quốc gia.
Bối cảnh trên đặt ra
những thách thức lớn trong lựa chọn chính sách và điều hành kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội năm 2012. Chính phủ đã quyết liệt triển khai nhiều giải pháp đồng bộ để thực hiện mục
tiêu đề ra trong Nghị quyết của Quốc hội[1]. Trên cơ sở kết quả 9 tháng đầu năm 2012 và ước thực hiện trong các tháng
cuối năm, Chính phủ xin báo cáo Quốc hội đánh giá tình hình kinh tế, xã hội năm
2012 trên các nội dung chủ yếu như sau:
1. Về kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và tháo gỡ
khó khăn cho sản xuất kinh doanh
Đã kiên trì mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, tiếp tục thực hiện chính sách tài khoá,
tiền tệ chặt chẽ. Kinh tế vĩ mô có những tiến bộ trên một số tiêu chí quan
trọng.
Lạm phát bước đầu được kiềm chế, giá tiêu dùng 9 tháng tăng 5,13%. Trong những tháng cuối năm sẽ thực
hiện các biện pháp để giữ mức lạm phát cả năm khoảng 8%.
So với đầu năm, lãi suất cho vay đã giảm. Tỷ lệ tín dụng
cho khu vực nông nghiệp và nông thôn tăng. Thanh khoản của hệ thống ngân hàng
có bước cải thiện. Huy động tiền gửi tăng 12,7%. Tỷ giá ổn định, niềm tin vào
đồng tiền Việt Nam được củng cố, khắc phục một bước tình trạng sử dụng
ngoại tệ, vàng để làm phương tiện thanh toán ở trong nước. Xuất khẩu tăng 18,9%, đạt 83,79 tỷ USD, nhập khẩu tăng 6,6%, đạt 83,76 tỷ USD. Ước xuất khẩu cả năm tăng 16,6%, nhập khẩu tăng 6,8%, nhập siêu khoảng 1
tỷ USD, bằng 0,9% kim ngạch xuất khẩu. Dự trữ ngoại hối tăng, đạt trên 11 tuần nhập khẩu; cán cân thanh
toán quốc tế thặng dư trên 8 tỷ USD.
Thu ngân sách đạt 67,3%, chi ngân sách đạt 71,2% dự toán. Với tín hiệu tích cực của những tháng
cuối năm, ước thu ngân sách cả năm đạt kế hoạch, bảo đảm được
các nhiệm vụ chi và giữ bội chi ngân sách ở mức 4,8% GDP, đạt chỉ tiêu
Quốc hội đề ra.
Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội ước bằng 29,5% GDP
(năm 2011 là 34,6%). Nhiều biện pháp tháo gỡ khó khăn được thực hiện, tình hình sản xuất kinh doanh dần được cải thiện. Hàng tồn kho giảm[2]. Số
doanh nghiệp ngừng hoạt động, giải thể giảm dần tuy vẫn
còn cao so với cùng kỳ. Số doanh nghiệp đăng ký mới[3] tăng nhưng vẫn thấp hơn năm trước.
Sản xuất công nghiệp tăng dần qua từng quý[4].
Chỉ số sản xuất công nghiệp 9 tháng tăng 4,8%, ước cả năm tăng 5,3%. Công
nghiệp khai khoáng và các ngành sản xuất gây ô nhiễm, tiêu tốn năng lượng tăng thấp
hơn mức bình quân. Nhiều doanh nghiệp đầu tư nước ngoài áp dụng công nghệ cao có xuất khẩu tăng mạnh.
Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản tiếp tục phát
triển, giữ vai trò rất quan trọng trong ổn định kinh tế và đời sống nông thôn. Giá
trị sản xuất toàn ngành 9 tháng tăng 3,7%, ước cả năm đạt khoảng 3,9%. Sản
lượng lúa cả năm ước đạt trên 43 triệu tấn, tăng khoảng 1 triệu tấn so với năm 2011,
xuất khẩu khoảng 7 triệu tấn gạo, đều là mức cao nhất so với các năm trước. Nuôi
trồng thủy sản tăng khá, ước cả năm xuất khẩu đạt 6,5 tỷ USD trong tổng số 26,5
tỷ xuất khẩu của toàn ngành (năm 2011 là 25 tỷ).
Khu vực dịch vụ tăng trưởng cao hơn mức tăng trưởng chung
của nền kinh tế. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 9
tháng tăng 17,3%, nếu loại trừ yếu tố giá cũng tăng 6,7%, ước cả năm tăng 18%. Doanh
thu du lịch ước cả năm tăng trên 15%, số khách du lịch quốc tế đến Việt Nam
tăng trên 8%. Khối lượng vận chuyển hành khách tăng 12,1%, ước cả năm tăng 13%;
bưu chính, viễn thông tiếp tục phát triển mạnh.
Tăng trưởng kinh tế 9
tháng đạt 4,73%, ước cả năm đạt khoảng 5,2%, thấp hơn kế hoạch nhưng quý sau cao
hơn quý trước[5],
lạm phát được kiềm chế, kinh tế vĩ mô ổn định hơn là những dấu hiệu tích cực để
phát triển bền vững trong thời gian tới[6].
2. Về thực hiện tái cơ
cấu nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng
Tại
Kỳ họp trước, Chính phủ đã báo cáo Quốc hội Đề án tổng thể tái cơ cấu nền kinh
tế. Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt
và chỉ đạo triển khai thực hiện các đề án tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước[7],
tái cơ cấu thị trường tài chính,
ngân hàng[8]
và tái cơ cấu đầu tư theo tinh thần
Nghị quyết Trung ương 3 (Khoá XI), coi đây là những nội dung quan trọng trong
tổng thể tái cơ cấu. Đã
chỉ đạo tiếp tục hoàn thiện thể chế về đầu tư nhằm huy động mạnh mẽ các nguồn
lực xã hội vào đầu tư phát triển, giảm tỷ trọng và nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn nhà nước. Đổi mới việc lập kế hoạch vốn đầu tư tập trung, vốn trái phiếu Chính phủ và vốn chương trình mục tiêu
quốc gia từ kế hoạch hàng năm sang kế hoạch trung hạn; khắc phục tình trạng đầu tư dàn
trải, vượt quá khả năng cân đối của ngân sách,
tập trung vào các chương trình, dự án quan trọng. Quy định rõ trách nhiệm của người quyết định
đầu tư về chất lượng và hiệu quả của các công trình xây dựng. Đã chỉ đạo rà soát, điều chỉnh chiến lược, quy hoạch
nhiều ngành, lĩnh vực, địa phương để làm cơ sở quản lý đầu tư trung và dài hạn.
Triển khai thực hiện tái
cơ cấu ngân hàng thương mại, nhất là các ngân hàng yếu kém, gắn với việc xử lý
nợ xấu. Tăng cường thanh tra, giám sát đối với các tổ chức tín dụng, công ty
tài chính, chứng khoán, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm nhằm bảo đảm cho thị
trường tài chính phát triển lành mạnh[9]. Triển
khai thực hiện tái cơ cấu các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước theo
hướng tập trung vào ngành nghề kinh doanh chính, quy mô phù hợp với thị trường,
năng lực quản trị và khả năng tài chính. Tập trung hoàn thiện thể chế quản lý nhà
nước đối với doanh nghiệp và quản lý của chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà
nước. Quy định rõ quyền hạn, trách nhiệm của
từng chủ thể, nhất là của bộ quản lý ngành và hội đồng quản trị doanh nghiệp.
3. Về bảo đảm an sinh xã
hội và phúc lợi xã hội
Chính phủ đã tập trung chỉ đạo thực hiện đồng bộ các chương trình, chính sách xã hội, trọng tâm là tạo việc làm, tăng thu nhập và giảm nghèo. Tỷ lệ hộ nghèo ước cả năm giảm 1,76%. Tuy không đạt kế hoạch là 2% nhưng
trong điều kiện kinh tế khó khăn thì đây là một cố gắng lớn.
Mặc dù gặp nhiều khó khăn, qua 9 tháng đã giải quyết được 1,13 triệu
việc làm mới, ước cả năm đạt khoảng 1,52 triệu. Thực hiện chế độ bảo
hiểm thất nghiệp cho trên 280 nghìn lao động. Tình hình lao động ở các khu công
nghiệp cơ bản ổn định. Một bộ phận lao động được đào tạo, chuyển nghề mới phù
hợp hơn.
Quan tâm chăm lo 8,8 triệu người có công, trong đó gần
1,5 triệu người đang hưởng trợ cấp thường xuyên. Số hộ người có công có mức sống thấp hơn mức trung bình tại địa bàn nơi cư trú giảm xuống chỉ còn dưới 5%.
Thu hút được 10,34 triệu người tham gia bảo hiểm xã hội, trong đó có 10,2 triệu
là bảo hiểm xã hội bắt buộc tăng 4,2% so với cùng kỳ; 8,07 triệu người tham gia
bảo hiểm thất nghiệp tăng 6,6% so với cùng kỳ. Thực hiện trợ cấp xã hội thường
xuyên cho gần 2,3 triệu người (trên 40 nghìn người trong các cơ sở bảo trợ xã
hội). Đã kịp thời cứu trợ, khắc phục hậu quả thiên tai, phục hồi sản xuất, ổn
định đời sống nhân dân.
Công tác chăm sóc sức khỏe, bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm, bảo vệ và chăm sóc trẻ
em, phòng chống HIV/AIDS được tiếp tục
quan tâm chỉ đạo và đạt được những kết quả tích cực[10].
Tỷ lệ tham gia bảo hiểm y tế đạt gần 68% (tăng 5%). Nhờ các chính sách hỗ trợ
nên khả năng tiếp cận dịch vụ y tế của người nghèo, cận nghèo vẫn được bảo đảm.
4. Về phát triển văn hoá, giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ, bảo vệ môi trường
Văn hóa, thể thao tiếp
tục được quan tâm, gắn với thực hiện các cuộc vận động xây dựng đời sống văn
hóa ở cơ sở và chương trình xây dựng nông thôn mới. Việc gìn giữ, phát huy các
giá trị văn hóa dân tộc được chú trọng. Nhiều di sản văn hóa vật thể và phi vật
thể được bảo tồn, hoàn thiện hồ sơ đề nghị công nhận di sản văn hóa. Công tác
quản lý lễ hội tiếp tục được chấn chỉnh. Chính phủ đã trình Hội nghị Trung ương
6 (Khóa XI) đề án đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo; đề án phát
triển khoa học và công nghệ, tạo cơ sở thực hiện đột phá chiến lược về phát
triển nguồn nhân lực, tái cơ cấu và chuyển đổi mô hình tăng trưởng.
Hầu hết các
chỉ tiêu về phát triển giáo dục và đào tạo đều đạt và vượt kế hoạch. Chất lượng giáo dục có bước tiến bộ. Cơ sở vật chất trường, lớp học
tiếp tục được tăng cường, kiên cố hóa. Ký túc xá sinh viên được quan tâm đầu tư. Cơ bản khắc phục tình trạng xã
trắng về giáo dục mầm non. Số trẻ mẫu giáo đạt gần 3,6 triệu, tăng 7,6% so với kế hoạch. Các chính sách miễn, giảm học phí, cấp học bổng… mang
lại hiệu quả thiết thực. Đặc biệt là chính
sách cho vay ưu đãi đối với học sinh, sinh viên đã khắc phục được tình trạng bỏ
học do không có tiền đóng học phí[11]. Công bằng xã hội trong giáo dục được bảo đảm tốt hơn.
Hoạt động nghiên cứu khoa học đạt được những kết quả tích
cực. Một số công trình nghiên cứu có giá trị khoa học và thực tiễn, đóng góp
thiết thực vào phát triển kinh tế - xã hội. Trình độ công nghệ trong một số lĩnh vực như điện tử,
công nghệ thông tin, chế tạo thiết bị dầu khí... được nâng cao. Kết quả nghiên
cứu, ứng dụng khoa học công nghệ được nhân rộng, nhất là trong nông nghiệp, y
tế, xây dựng công trình. Hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ được đẩy
mạnh.
Đã tập trung chấn chỉnh công tác quản lý, khai thác khoáng sản và sử dụng
đất lúa. Chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, biện pháp bảo vệ môi trường, ứng phó
với biến đổi khí hậu được tích cực triển khai. Chủ động tham gia các sáng kiến,
các diễn đàn quốc tế lớn về bảo vệ môi trường, phù hợp với định hướng phát
triển bền vững của đất nước. Công tác quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường
được tăng cường. Nhiều chỉ tiêu về môi trường, phát triển bền vững đạt và vượt
kế hoạch. Việc sản xuất, nhập khẩu và sử dụng hóa chất, thuốc bảo vệ thực
vật... được tăng cường quản lý.
5. Về cải cách hành chính, phòng chống tham nhũng, thực
hành tiết kiệm
Cải cách hành chính tiếp tục được triển khai đồng bộ cả về thể chế, tổ chức
cán bộ, thủ tục hành chính và tài chính công.
Đã quy định rõ chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy các Bộ, cơ quan ngang Bộ, phân định rõ trách nhiệm quản lý các lĩnh vực giữa các Bộ, ngành bảo đảm mỗi
việc đều có cơ quan chịu trách nhiệm chính. Đang tiếp tục hoàn thiện mô hình tổ
chức các cơ quan chuyên môn của chính quyền địa phương theo hướng bảo đảm quản
lý thống nhất của trung ương và phù hợp với đặc thù của địa phương.
Tăng cường công tác quản
lý cán bộ, công chức, thanh tra công vụ, kỷ luật, kỷ cương hành chính; chấn
chỉnh thái độ phục vụ của đội ngũ công chức, đề cao trách nhiệm người đứng đầu.
Hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn chức danh công chức, viên chức và tuyển chọn,
nâng ngạch công chức theo nguyên tắc cạnh tranh.
Công tác cải cách thủ tục hành chính tiếp tục được đẩy
mạnh. Trên cơ sở kết quả hệ thống hóa và công khai các thủ tục hành chính ở 4
cấp chính quyền, việc kiểm soát thủ tục hành chính đã trở thành một khâu bắt
buộc khi ban hành các văn bản quy phạm pháp luật.
Tiếp tục đổi mới quản lý tài chính công, nhất là trong thu
chi ngân sách, phân bổ vốn đầu tư, trong cơ chế tài chính đối với các đơn vị sự
nghiệp công lập như y tế, giáo dục, khoa học công nghệ...
Công tác phòng chống tham nhũng tiếp tục được quan tâm
chỉ đạo gắn với việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (Khoá XI). Tổng kết việc
thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 và Luật phòng chống tham nhũng. Tăng cường chỉ đạo, đôn đốc, kiểm tra, phối hợp các cơ quan chức
năng trong đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí. Tập trung chỉ đạo
xử lý các vụ án tham nhũng.
Đã tổng kết công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo và tập
trung chỉ đạo xử lý các vụ việc tồn đọng, công khai hồ sơ, kết quả xử lý, bảo
đảm lợi ích hợp pháp của người dân và kỷ cương pháp luật. Chỉ đạo xử lý phù hợp
những vụ việc khiếu nại, tố cáo phức tạp được dư luận đặc biệt quan tâm.
Công tác thông tin, tuyên truyền được quan tâm, đẩy mạnh.
Thông qua các chương trình giao lưu trực tuyến, chương trình “Dân hỏi Bộ
trưởng trả lời”, việc giải trình trước các Ủy ban của Quốc hội, các Bộ, ngành
chủ động thông tin về hoạt động của mình và tiếp nhận ý kiến đóng góp, đã phát
huy quyền làm chủ của nhân dân, góp phần tạo đồng thuận xã hội.
6. Tăng
cường công tác đối ngoại, bảo đảm quốc phòng an ninh, ổn định chính trị - xã hội
Đã triển khai thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ, phù hợp,
xử lý kịp thời các vấn đề nảy sinh, giữ vững ổn định chính trị - xã hội và độc
lập, chủ quyền quốc gia.
Thế trận quốc
phòng toàn dân và an ninh nhân dân được tăng
cường. Lực lượng vũ trang tiếp tục được xây dựng theo hướng cách mạng, chính
quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Tiềm lực quốc phòng và công nghiệp quốc
phòng được nâng lên. Gắn kết chặt chẽ
hơn phát triển kinh tế với củng cố quốc phòng, an ninh.
Công tác đối ngoại tiếp tục phát triển cả chiều rộng và
chiều sâu. Kết hợp chặt chẽ đối
ngoại của Đảng với ngoại giao của Nhà nước và ngoại giao nhân dân; tạo môi
trường quốc tế thuận lợi để bảo vệ
chủ quyền, hội nhập quốc tế, huy động nguồn lực phát triển và nâng
cao vị thế đất nước.
Công tác phòng chống tội
phạm, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội được tăng cường và có những chuyển biến
tích cực. Đã phá nhiều đường dây tội phạm quy mô lớn, nhất là tội phạm ma túy,
buôn bán người. Tăng cường tuyên truyền, giáo dục phòng chống tội phạm vị thành
niên. Trật tự, an toàn giao thông được tập trung chỉ đạo, giảm mạnh cả về số vụ
tai nạn, số người chết và số người bị thương[12].
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém, nổi
lên là:
Kinh tế vĩ mô chưa vững chắc. Lạm phát vẫn có nguy cơ tăng trở lại. Nợ xấu gia
tăng, xử lý còn chậm và còn nhiều khó khăn. Lãi suất tín dụng còn cao so với
hiệu quả sản xuất kinh doanh. Tăng trưởng huy động vốn cao hơn nhiều so với
tăng trưởng tín dụng cho vay; chênh lệch lãi suất huy động và lãi suất cho vay
còn lớn. Doanh nghiệp còn nhiều khó khăn, khó tiếp cận được nguồn vốn, tồn kho
lớn. Số lượng doanh nghiệp phải giải thể, ngừng hoạt động còn nhiều. Thị trường
bất động sản đình trệ, chưa có khả năng phục hồi sớm, tiềm ẩn nhiều rủi ro. Một
số tập đoàn, tổng công ty nhà nước hoạt động sản xuất kinh doanh hiệu quả thấp,
vi phạm pháp luật, gây thất thoát lớn tài sản nhà nước. Tái cơ cấu tập đoàn
Vinashin còn nhiều khó khăn, vướng mắc. Việc cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước
còn chậm. Tiến trình tái cơ cấu đầu tư, doanh nghiệp nhà nước, thị trường tài
chính, ngân hàng thương mại đang ở giai đoạn đầu, còn nhiều khó khăn, cần có
quyết tâm cao, nguồn lực cần thiết và lộ trình thích hợp. Chất lượng, hiệu quả,
sức cạnh tranh của nền kinh tế chưa được cải thiện nhiều. Năng lực dự báo
kinh tế, xã hội còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu.
Đời sống của một bộ phận
nhân dân, nhất là vùng sâu, vùng xa và đồng bào dân tộc thiểu số còn nhiều khó
khăn. Do nguồn lực còn hạn chế nên việc mở rộng diện và nâng mức hỗ trợ các
chính sách an sinh xã hội, chương trình giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới, tạo
việc làm và cải cách tiền lương chưa đáp ứng được yêu cầu.
Giáo dục đào tạo vẫn còn
nhiều yếu kém; chất lượng đào tạo của nhiều trường đại học, cao đẳng, chậm được
cải thiện; việc xây dựng các trường đại học trọng điểm, đại học xuất sắc còn
chậm; cơ sở vật chất một số trường đại học chưa đáp ứng được yêu cầu; chất
lượng, hiệu quả dạy nghề còn thấp, nhất là dạy nghề cho lao động nông thôn.
Khoa học và công nghệ chưa đáp ứng yêu cầu nâng cao năng suất, chất lượng và
sức cạnh tranh của nền kinh tế. Những hạn chế, yếu kém trong công tác bảo vệ,
chăm sóc sức khỏe nhân dân và tình trạng quá tải bệnh viện chậm được khắc phục;
quản lý giá thuốc và dịch vụ y tế chưa tốt. Hoạt động văn hóa, thông tin, thể
dục, thể thao còn nhiều hạn chế.
Công tác quản lý tài nguyên, môi trường còn bất cập; số
dự án treo còn lớn. Một số công trình thuỷ điện chưa đạt được các mục tiêu đề
ra, gây bức xúc trong nhân dân. Việc khai thác, xuất khẩu trái phép khoáng sản vẫn
còn xảy ra ở một số địa phương. Ô nhiễm môi trường tại nhiều khu công nghiệp,
cơ sở sản xuất, làng nghề, lưu vực sông vẫn còn nặng nề. Tình trạng ngập lụt
tại một số thành phố lớn chậm được khắc phục.
Trật tự, an toàn
xã hội vẫn còn nhiều bức xúc, nhất là tình trạng tội phạm, tệ nạn xã hội, vi
phạm pháp luật giao thông, vệ sinh an toàn thực phẩm... Công tác quản lý thông
tin, nhất là thông tin mạng, blog cá nhân chưa tốt, còn bị các thế lực thù địch
lợi dụng bịa đặt, xuyên tạc, gây tác hại xấu. Một số cơ quan nhà nước còn thiếu
chủ động cung cấp thông tin chính xác, kịp thời để định hướng đúng dư luận. Một
số báo đưa tin thiếu khách quan, sai lệch, khai thác nhiều tin tiêu cực, gây tâm
lý không tốt.
Cải cách hành
chính chưa đáp ứng được yêu cầu. Nhiều thủ tục hành chính không còn phù hợp,
chậm được sửa đổi. Kỷ cương hành chính chưa nghiêm, công tác kiểm tra, giám sát
còn nhiều yếu kém, làm giảm hiệu lực, hiệu
quả quản lý điều hành. Một bộ phận cán bộ, công chức suy thoái, không làm tròn
trách nhiệm, nhũng nhiễu, tiêu cực, ảnh hưởng tới lòng tin của nhân dân.
Nhìn tổng quát, trong điều kiện phải đối mặt với nhiều khó khăn thách thức, công tác lãnh đạo
điều hành thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2012 đã bám sát
mục tiêu, nhiệm vụ đề ra trong các nghị quyết của Đảng và Quốc hội, đạt và vượt
10 trên 15 chỉ tiêu kế hoạch. Lạm phát được kiềm chế, kinh tế vĩ
mô chuyển biến theo hướng ổn định hơn, tăng trưởng quý sau cao hơn quý trước. Nông
nghiệp tiếp tục tăng trưởng cao, khẳng định vai trò quan trọng trong ổn định và
phát triển đất nước. Tái cơ cấu nền kinh tế, đổi
mới mô hình tăng trưởng đạt được một số kết quả bước đầu. An
sinh xã hội được bảo đảm. Công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế đạt những kết
quả tích cực. Quốc phòng, an ninh được tăng cường. Trật tự an toàn xã hội có
tiến bộ.
Tuy
nhiên, còn 5 chỉ tiêu chưa đạt kế hoạch[13], khó khăn của nền
kinh tế vẫn còn lớn, hạn chế, yếu kém còn nhiều. Các nhiệm vụ trung hạn nhằm
tạo lập nền tảng cho ổn định vĩ mô và tăng trưởng bền vững mới ở giai đoạn khởi
động, thách thức còn ở phía trước. Trong khi đó, nhiệm vụ còn lại của những
tháng cuối năm là rất nặng nề. Để đạt được mục tiêu tăng GDP
cả năm 5,2% thì quý IV phải đạt mức tăng 6,5% (trong khi mức tăng quý III chỉ
là 5,35%) đòi hỏi cả hệ thống chính trị, các cơ quan quản lý nhà nước, cộng
đồng doanh nghiệp phải nỗ lực thực hiện quyết liệt, đồng bộ các giải pháp tháo
gỡ khó khăn, hỗ trợ sản xuất kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng, ổn định kinh tế
vĩ mô, không để lạm phát cao trở lại, tích cực chuẩn bị các điều kiện cho tăng
trưởng cao hơn trong năm 2013.
Phần thứ hai
MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP
PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 2013
Năm 2013, dự báo kinh
tế thế giới tiếp tục khó khăn, diễn biến phức tạp và tiềm ẩn nhiều rủi ro; thương mại toàn cầu phục hồi chậm, tăng trưởng kinh
tế không cao hơn nhiều so với năm 2012. Ở trong nước, bên cạnh những kết quả
đạt được, nền kinh tế vẫn còn rất nhiều khó khăn. Năm 2013 là năm bản lề của kế
hoạch 5 năm nhưng nhiều chỉ tiêu sau 2 năm thực hiện vẫn còn khá thấp so với
mức đề ra cho cả thời kỳ 2011 - 2015, trong khi chúng ta phải dành nhiều nguồn
lực để bảo đảm quốc phòng an ninh, an sinh xã hội và ứng phó với thiên tai,
biến đổi khí hậu.
I. MỤC TIÊU TỔNG QUÁT VÀ CÁC CHỈ TIÊU CHỦ YẾU
1. Mục tiêu tổng quát
Trong năm 2013, tiếp tục
quán triệt Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI, Nghị quyết của Quốc hội về kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011 - 2015 và Kết luận của Hội nghị
Trung ương 6 (Khóa XI), trên cơ sở kết quả thực hiện nhiệm
vụ kế hoạch năm 2012, Chính phủ đề nghị Quốc hội xem xét xác định mục tiêu tổng
quát của năm 2013 là:
Tăng cường ổn định kinh
tế vĩ mô; lạm phát thấp hơn, tăng trưởng cao hơn năm 2012. Đẩy mạnh thực hiện
3 đột phá chiến lược gắn với tái cơ cấu nền kinh tế, chuyển đổi mô hình
tăng trưởng. Bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội. Nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế. Tăng cường quốc
phòng, an ninh và bảo đảm ổn định chính trị - xã hội. Tạo nền tảng phát triển
vững chắc hơn cho những năm tiếp theo.
2. Các chỉ tiêu chủ yếu
- Các chỉ tiêu kinh tế: Tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng khoảng 5,5%. Kim
ngạch xuất khẩu tăng khoảng 10%. Tỷ lệ nhập siêu khoảng 8%. Bội chi ngân sách
nhà nước không quá 4,8% GDP. Tốc độ tăng giá tiêu dùng (CPI) khoảng 8%. Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội bằng khoảng 30%
GDP.
- Các chỉ tiêu xã hội: Giảm 2% tỷ lệ hộ nghèo cả nước, 4% đối với các huyện
nghèo. Tạo việc làm cho khoảng 1,6 triệu lao động, tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực
thành thị dưới 4%, tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 49%. Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi
bị suy dinh dưỡng giảm xuống dưới 16%. Đạt 22 giường bệnh trên 1 vạn dân (không
tính giường trạm y tế xã).
- Các chỉ tiêu môi trường: 84%
cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng được xử lý; 75% khu công nghiệp, khu
chế xuất đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn
môi trường. Tỷ lệ che phủ rừng đạt 40,7%.
II. NHIỆM VỤ VÀ GIẢI
PHÁP CHỦ YẾU
1. Tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát
Thực hiện đồng bộ các giải pháp để tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô và kiềm
chế lạm phát ở mức thấp hơn năm 2012. Nâng cao năng lực dự báo, chủ động điều
hành và có phản ứng chính sách phù hợp kịp thời để ứng phó có hiệu quả với
những tác động tiêu cực đến nền kinh tế.
Điều hành chính sách tiền tệ, tài khóa chặt chẽ, linh hoạt; gắn kết chính
sách tài khoá với chính sách tiền tệ theo mục tiêu tăng cường ổn định vĩ mô và
bảo đảm tăng trưởng hợp lý. Tiếp tục hạ lãi suất tín dụng phù hợp với mức giảm
lạm phát; điều hành tỷ giá theo tín hiệu thị trường, bảo đảm giá trị đồng tiền
Việt Nam; hoàn thiện cơ chế quản lý thị trường vàng; cải thiện cán cân thanh
toán quốc tế và tăng dự trữ ngoại hối. Thực hiện tốt nhiệm vụ thu, chi theo kế hoạch, chống thất thu, triệt để tiết kiệm chi,
nâng cao hiệu quả đầu tư công, giữ mức bội chi ngân sách không quá 4,8% GDP.
Quản lý chặt chẽ nợ công và nợ quốc gia
trong giới hạn an toàn, bảo đảm an ninh tài chính quốc gia.
Cơ bản hoàn thành việc cơ cấu lại các tổ chức tài chính, tín dụng yếu kém. Kiên
quyết xử lý các hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động tài chính, ngân hàng.
Hỗ trợ phát triển lành mạnh thị trường chứng khoán.
Đẩy mạnh xuất khẩu, kiểm soát chặt chẽ các mặt hàng nhập khẩu không khuyến
khích. Tăng cường các biện pháp thu hút và thúc đẩy giải ngân các nguồn vốn nước
ngoài ODA, FDI; kiểm soát có hiệu quả đầu tư gián tiếp của nước ngoài (FII);
tạo thuận lợi thu hút khách du lịch quốc tế và kiều hối.
Bảo đảm cân đối cung cầu các mặt hàng thiết yếu. Thực hiện nhất quán chủ
trương quản lý giá theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước đối với
điện, than, xăng dầu, dịch vụ công theo lộ trình phù hợp với yêu cầu kiểm soát
lạm phát. Tăng cường quản lý thị trường, giá cả, chống đầu cơ buôn lậu. Chủ
động cung cấp thông tin chính xác, kịp thời về tình hình kinh tế vĩ mô để hạn
chế việc tăng giá do tâm lý.
2. Tháo gỡ khó khăn thúc đẩy phát
triển sản suất kinh doanh
Hỗ trợ doanh nghiệp vay vốn tín dụng với lãi suất hợp lý.
Ưu tiên tín dụng cho sản xuất nông nghiệp, hàng xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ,
doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Tháo gỡ vướng mắc
về thủ tục hành chính cho doanh nghiệp. Nghiên cứu giảm thuế thu nhập doanh
nghiệp.
Bằng các biện pháp đồng bộ, đẩy nhanh việc xử lý nợ xấu.
Tiếp tục rà soát các khoản nợ và áp dụng các biện pháp xử lý phù hợp như cơ cấu
lại nợ, trích lập dự phòng rủi ro, xử lý tài sản bảo đảm. Xử lý nợ giữa
ngân sách với các doanh nghiệp,
nợ chéo giữa các doanh nghiệp (như than, khí, điện, xi măng…). Khôi phục thị
trường bất động sản. Nghiên cứu thành lập công ty xử lý nợ.
Thực hiện các giải pháp
phù hợp để giải quyết hàng tồn kho. Thúc đẩy sự hợp tác giữa các doanh nghiệp
liên quan và ngân hàng; triển khai nhanh các công trình kết cấu hạ tầng, chương
trình phát triển nhà ở xã hội, giao thông nông thôn... Xúc tiến thương mại,
phát triển thị trường trong nước, đẩy mạnh cuộc vận động "Người Việt Nam
ưu tiên dùng hàng Việt Nam". Ngăn chặn
có hiệu quả việc gian lận thương mại, nhập khẩu hàng hóa kém chất lượng.
Thúc đẩy phát triển các ngành công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản, công
nghiệp hỗ trợ, công nghiệp có giá trị gia tăng cao. Tập trung tháo gỡ khó khăn,
vướng mắc để bảo đảm tiến độ của các công trình công nghiệp quy mô lớn. Thực
hiện các biện pháp đồng bộ để thu hút đầu tư vào các lĩnh vực công nghệ cao. Hỗ
trợ các nhà thầu trong nước nâng cao năng lực để tham gia nhiều hơn vào các dự
án xây dựng kết cấu hạ tầng. Hỗ trợ phát triển các doanh nghiệp vừa và
nhỏ, trong đó khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, cung cấp
linh kiện, phụ kiện và sử dụng nhiều lao động.
Tiếp tục triển khai có hiệu
quả Chiến lược tổng thể phát triển khu vực dịch vụ. Khuyến khích đầu tư phát
triển các ngành dịch vụ có lợi thế và giá trị gia tăng cao như du lịch, viễn
thông, hàng không, tài chính, ngân hàng… Tăng cường xúc tiến thương mại, mở
rộng thị trường xuất khẩu, không để lệ thuộc quá lớn vào một thị trường.
Đẩy mạnh thực hiện Nghị
quyết của Trung ương về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Tăng vốn nhà nước và
thu hút nguồn vốn xã hội cho đầu tư phát triển nông nghiệp và xây dựng nông
thôn mới. Thực hiện các giải pháp hỗ trợ
thiết thực, hiệu quả, nhất là vốn tín dụng, ứng dụng khoa học công nghệ và
tổ chức thị trường để phát triển mạnh sản xuất các sản phẩm nông nghiệp có lợi
thế. Nhân rộng các mô hình chuyển đổi cơ cấu, sản xuất có hiệu quả cao. Kiểm
soát vệ sinh an toàn thực phẩm trong toàn bộ chuỗi sản xuất - chế biến - tiêu
thụ.
3. Đẩy mạnh thực hiện 3 đột phá chiến lược gắn với tái cơ cấu nền
kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng
Tập trung nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường; cải thiện năng
lực cạnh tranh và môi trường kinh doanh. Thực hiện đồng bộ các giải pháp để huy
động các nguồn lực đầu tư xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng, nhất là nguồn lực
từ đất đai. Ban hành chính sách về phí sử dụng kết cấu hạ tầng hợp lý để đẩy
mạnh huy động vốn đầu tư từ khu vực ngoài nhà nước.
Thực hiện có hiệu quả kế hoạch đầu tư trung hạn 2013 - 2015. Tập trung vốn
ngân sách cho các dự án, công trình trọng điểm, quan trọng quốc gia. Dành một
phần vốn ngân sách thỏa đáng để tham gia các dự án hợp tác công - tư (PPP), vốn đối ứng ODA, kinh phí giải phóng mặt
bằng. Phát hành trái phiếu công trình và áp dụng các hình thức đầu tư phù
hợp để tập trung nâng cấp mở rộng Quốc lộ 1A[14]. Xem
xét phát hành trái phiếu Chính phủ trong tổng mức 2011 - 2015 Quốc hội đã cho
phép để hoàn thành các công trình hạ tầng quan trọng khác.
Tập trung chỉ đạo tái cơ cấu sản xuất, ưu tiên phát triển những sản phẩm có giá trị gia tăng cao, áp dụng công nghệ
cao, công nghệ sạch, sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả và bảo vệ môi trường. Đẩy mạnh cổ phần hoá và tái cơ cấu các tập đoàn kinh tế, các tổng công ty
nhà nước; tập trung tháo gỡ khó khăn, vướng mắc để đẩy nhanh việc tái cơ cấu
Vinashin và Vinalines. Hoàn thiện việc phân
định rõ quyền, trách nhiệm, nghĩa vụ của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ,
Bộ quản lý ngành và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, các Bộ tổng hợp, Hội đồng thành
viên. Tăng cường quản lý nhà nước và quản lý của chủ sở hữu, nhất là kiểm tra,
giám sát việc tuân thủ pháp luật và nâng cao khả năng quản trị doanh nghiệp.
Đồng thời sớm nghiên cứu mô hình tổ chức quản lý của chủ sở hữu, phương thức tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng và công tác cán bộ đối với doanh nghiệp nhà nước.
4. Bảo đảm an sinh xã hội, phúc lợi xã hội,
cải thiện đời sống nhân dân
Thực hiện đồng bộ, hiệu quả các cơ chế chính sách mới theo nghị quyết và Kết
luận Hội nghị Trung ương 5 (Khóa XI) về chính sách xã hội, tiền lương, triển
khai Bộ luật lao động, Pháp lệnh ưu đãi người có công… Quan tâm bảo đảm mức tối
thiểu về các dịch vụ xã hội cơ bản cho người dân, đặc biệt là người nghèo, người
có hoàn cảnh khó khăn và đồng bào dân tộc thiểu số. Về thời điểm điều
chỉnh lương tối thiểu chung, do cân đối ngân sách nhà nước năm 2013 rất khó
khăn, chưa bố trí được nguồn, đề nghị Quốc hội giao Chính phủ tính toán cụ thể,
báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội và thực hiện ngay khi có điều kiện, trước hết
là đối với người có công, cán bộ hưu trí.
Đẩy mạnh dạy nghề, tạo việc làm, nâng cao thu nhập. Thực hiện có hiệu quả chương trình dạy nghề gắn với
tạo việc làm cho lao động nông thôn, người nghèo, bộ đội xuất ngũ và lao động vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất. Chấn
chỉnh công tác dạy nghề cho lao động nông thôn. Phấn
đấu đưa khoảng 85 nghìn lao động đi làm việc ở nước ngoài.
Triển khai có hiệu quả các chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền
vững, nhất là trên địa bàn các huyện nghèo, các xã đặc biệt khó khăn; hỗ trợ
đồng bào dân tộc thiểu số. Có chính sách hỗ trợ phù hợp các hộ cận nghèo. Quan tâm trợ giúp xã hội
đối với những người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Kịp thời cứu đói giáp hạt,
cứu trợ nhân dân vùng bị thiên tai, bão lụt, mất mùa. Thực hiện
thí điểm hỗ trợ xây dựng 700 nhà tránh lũ, lụt cho các hộ nghèo ở các tỉnh Bắc
Trung bộ và duyên hải miền Trung.
Ban hành các chính sách
khuyến khích nông dân, người lao động tự do tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện.
Thực hiện có hiệu quả bảo hiểm thất nghiệp. Kiểm tra, giám sát chặt chẽ
việc thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc. Triển khai đồng bộ các giải pháp xây dựng quan hệ lao
động hài hòa, giải quyết kịp thời các tranh chấp lao động, giảm số vụ đình
công, lãn công. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra an
toàn lao động.
Tiếp tục hoàn thiện và quan tâm thực hiện tốt chính sách
đối với người có công, chú trọng giải quyết những trường hợp hồ sơ còn tồn
đọng. Hỗ trợ giải quyết cơ bản về nhà ở đối với hộ người có công. Ngăn chặn và đẩy lùi các nguy cơ xâm hại, buôn
bán trẻ em và phụ nữ. Bảo đảm quyền của trẻ em và bình đẳng giới.
Triển khai tốt chương trình mục tiêu quốc gia về nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn; đưa thông
tin về cơ sở, vùng sâu, miền núi, hải đảo và vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
5. Phát triển giáo
dục đào tạo, khoa học công nghệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân
Khẩn trương triển khai Luật
giáo dục đại học, Chiến lược phát triển giáo dục và Kết luận của Hội
nghị Trung ương 6 (khóa XI) về đổi
mới căn bản, toàn diện giáo
dục
và đào tạo. Coi trọng giáo dục nhân
cách, đạo đức, lối sống cho học sinh. Thực hiện có hiệu quả các cuộc vận động
và các phong trào thi đua trong ngành giáo dục.
Nâng cao chất lượng
phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở, gắn với phân luồng giáo dục,
đào tạo nghề. Triển khai phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi, phấn
đấu tăng khoảng 7% số học sinh mẫu giáo. Tăng cường đầu tư cho giáo dục tại các
vùng khó khăn, vùng đồng bào dân tộc, củng cố và phát triển hệ thống các trường
phổ thông dân tộc nội trú.
Đổi mới cơ chế quản lý
giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý. Nâng
cao chất lượng giáo dục đại học, cao
đẳng; tăng tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm; chấn
chỉnh giáo dục đại học ngoài công lập và các chương trình đào tạo liên kết với nước ngoài. Tiếp tục phát triển và nâng cao chất lượng, hiệu
quả dạy nghề theo nhu cầu thị trường
lao động, gắn với doanh nghiệp và hội nhập quốc tế. Phấn đấu tuyển mới trung cấp chuyên nghiệp tăng 6%, đại
học
và cao đẳng tăng 6,5%, sau đại học
tăng 20%.
Đổi mới cơ chế tài chính
trong giáo dục, huy động ngày càng tăng và sử dụng có hiệu quả nguồn lực của
Nhà nước và xã hội. Tiếp tục thực hiện chính sách tín dụng dành cho
học sinh, sinh viên. Đẩy nhanh tiến độ kiên cố hóa trường lớp
học nhất là ở vùng sâu, vùng xa, xây dựng ký túc xá sinh viên, nhà công vụ giáo viên và đầu tư xây dựng giảng
đường một số trường đại học lớn.
Khẩn trương triển khai Nghị
quyết của Hội nghị Trung ương 6 (Khóa XI) và Chiến lược phát triển khoa học, công nghệ giai đoạn 2011
- 2020, chương trình phát triển sản phẩm quốc gia, chương trình nâng cao
năng suất và chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp. Nâng mức đóng góp của khoa
học công nghệ vào tăng trưởng.
Đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ về tổ chức, cơ chế quản
lý, cơ chế hoạt động khoa học và công nghệ, trong đó tập trung đổi mới công tác
xây dựng chiến lược, kế hoạch phát triển khoa học và công nghệ, phương thức đầu
tư, cơ chế tài chính, chính sách cán bộ, cơ chế hoạt động tự chủ của các tổ
chức khoa học và công nghệ. Đẩy nhanh việc chuyển đổi các tổ chức khoa học công
nghệ công lập sang thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm; hỗ trợ phát triển doanh nghiệp khoa học công nghệ. Áp
dụng rộng rãi cơ chế đặt hàng nghiên cứu khoa học, cơ chế khoán
thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu khoa học.
Tiếp tục đầu tư và phát huy hiệu quả các khu công nghệ cao, vườn ươm công
nghệ. Có cơ chế, chính sách thu hút mạnh các dự án đầu tư nghiên cứu và phát
triển các sản phẩm công nghệ cao. Phát triển mạnh dịch vụ tư vấn, thẩm định, giám
định công nghệ và thị trường khoa học công nghệ. Tăng cường quản lý bảo hộ sở
hữu trí tuệ. Ban hành chính sách thuế phù hợp để khuyến khích các
doanh nghiệp đầu tư cho nghiên cứu khoa học, đổi mới công nghệ và đào
tạo nguồn nhân lực.
Tăng cường công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân. Tiếp tục phát
triển hệ thống y tế theo hướng công bằng, hiệu quả. Đẩy mạnh thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về y tế.
Củng cố và nâng cao hiệu quả mạng lưới y tế dự phòng, chủ động phòng chống
dịch bệnh, không để dịch lớn xảy ra. Nâng cao chất lượng khám chữa bệnh; thực hiện đồng bộ các biện pháp để giảm quá tải bệnh viện; nâng số bác sĩ trên 1 vạn dân từ 7,4 năm 2012 lên 7,6; tỷ lệ trạm y tế xã có bác sĩ từ 74% lên 76%; tỷ lệ xã đạt tiêu chí quốc gia về y tế từ 45%
lên 50%. Thực hiện có hiệu quả các chính sách bảo hiểm y tế, hỗ trợ mua bảo
hiểm y tế cho học sinh, sinh viên, hộ cận nghèo, phấn đấu nâng tỷ lệ tham gia bảo
hiểm y tế từ 68% lên 71%, tiến
tới thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân. Thực hiện chặt
chẽ chính sách tài chính y tế đã ban hành. Phát triển công nghiệp dược, quản lý
hiệu quả giá thuốc chữa bệnh. Tăng cường thanh tra, kiểm tra chất lượng, tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm.
6. Tăng cường hiệu lực hiệu quả quản lý nhà nước về đất đai, tài nguyên, bảo
vệ môi trường, phòng chống thiên tai và ứng phó với biến đổi khí hậu
Khẩn trương triển khai Luật đất đai sửa đổi. Thực hiện các giải pháp bảo vệ
3,8 triệu ha đất lúa. Rà
soát các quy hoạch và kiên quyết xử lý các dự án treo, nhất là trên diện
tích đất lúa. Tăng cường quản lý, xử lý nghiêm việc khai thác và xuất khẩu khoáng sản trái phép. Đẩy mạnh việc
kiểm tra chấp hành pháp luật về bảo vệ môi trường.
Thực hiện chương trình
mục tiêu quốc gia và chiến lược ứng phó với biến đổi khí hậu, chiến lược phát
triển bền vững, chiến lược tăng trưởng xanh. Khuyến khích sử dụng tiết kiệm,
hiệu quả tài nguyên, năng lượng. Đẩy mạnh trồng rừng kinh tế; không tiếp tục khai
thác rừng tự nhiên; có cơ chế chính sách phù hợp để khuyến khích người dân tại
chỗ trồng và bảo vệ rừng đặc dụng, rừng phòng hộ. Ngăn chặn có hiệu quả nạn phá
rừng; chủ động phòng chống cháy rừng.
Tăng cường năng lực
cán bộ và cơ sở vật chất kỹ thuật cho nghiên cứu, dự báo về thiên tai, biến đổi
khí hậu. Kịp thời khắc phục hậu quả và triển khai nhân rộng các mô hình phòng
tránh và cứu trợ phù hợp để ứng phó và hạn chế các tác động xấu của thiên tai.
7. Cải cách hành
chính, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, phòng chống tham nhũng
lãng phí, bảo đảm trật tự an toàn xã hội và xây dựng đời sống văn
hóa
Thực hiện Nghị quyết Trung
ương 4 một số vấn đề cấp bách về xây dựng
Đảng
hiện nay và cuộc vận động học
tập, làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, tạo sự chuyển biến về thái độ phục
vụ của đội ngũ công chức và tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính, nâng cao
hiệu lực hiệu quả của bộ máy nhà nước.
Triển khai có hiệu quả
Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước 2011 - 2020. Công khai, minh bạch các thủ tục hành chính, nhất là trong các lĩnh vực liên quan đến người dân và
doanh nghiệp.
Thực hiện tốt quy chế
dân chủ ở cơ sở. Chăm lo, bảo đảm lợi ích, phát huy quyền làm chủ gắn với trách
nhiệm đóng góp xây dựng đất nước của người dân. Tăng cường kỷ luật, kỷ cương, xử lý nghiêm những hành vi xâm phạm quyền làm
chủ của nhân dân và lợi dụng dân chủ gây phương hại cho đất nước.
Triển khai đồng bộ các
giải pháp phòng chống tham nhũng, lãng phí theo Kết luận của Hội nghị Trung ương 5 (Khóa XI), tập trung vào các lĩnh vực: quản lý sử dụng đất đai,
tài nguyên, khoáng sản; đầu tư xây dựng cơ bản; quản lý thu, chi ngân sách;
quản lý, sử dụng vốn, tài sản trong doanh nghiệp nhà nước; tín dụng, ngân hàng;
công tác cán bộ; quan hệ giữa các cơ quan nhà nước với người dân, doanh nghiệp... Xử lý nghiêm và
công khai kết quả xử lý các vụ việc tham nhũng.
Đẩy mạnh phòng chống
HIV/AIDS và đấu tranh ngăn chặn các tệ nạn xã hội, nhất là tệ nạn ma túy, mại dâm. Phát huy kết quả đạt được của
“Năm an toàn giao thông 2012” phấn đấu giảm 10% tai nạn giao thông cả về số vụ,
số người chết và số người bị thương.
Phát huy vai trò của Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể nhân dân để thực hiện có hiệu quả phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng
đời sống văn hóa”. Đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động văn hóa, thể dục, thể
thao. Tăng cường quản lý lễ hội, hoạt động văn hóa, nghệ thuật, giữ gìn giá trị
truyền thống, thuần phong mỹ tục và bản sắc văn hóa dân tộc.
8. Bảo đảm quốc phòng an ninh và ổn định chính trị xã hội; nâng
cao hiệu quả công tác đối ngoại
Thực hiện đồng bộ các giải pháp để bảo đảm quốc phòng, an ninh; giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Chủ động ngăn chặn mọi âm mưu hoạt động chống phá của các thế lực thù địch. Tăng cường thực hiện Chương trình quốc gia về
phòng, chống tội phạm.
Thực hiện có hiệu quả đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước. Bảo đảm độc
lập, tự chủ và đẩy mạnh hội nhập quốc tế. Tăng cường hữu nghị, hợp tác cùng
phát triển với các nước láng giềng. Chủ động đóng góp tích cực, trách nhiệm vào
việc xây dựng Cộng đồng ASEAN và các cơ chế, tổ chức, diễn đàn quốc tế. Đưa
quan hệ với các đối tác đi vào chiều sâu, hiệu quả, tạo môi trường và điều kiện
thuận lợi để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Kiên trì, nhất quán thực hiện chủ trương giải quyết các vấn đề trên biển
bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước Liên
hợp quốc về Luật biển năm 1982; tôn trọng và thực hiện đầy đủ Tuyên bố về ứng
xử của các bên ở Biển Đông (DOC) và hướng tới xây dựng Bộ quy tắc ứng xử ở Biển
Đông (COC), bảo vệ vững chắc chủ quyền, quyền chủ quyền và lợi ích quốc gia trên
biển; đóng góp tích cực vào hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn hàng hải ở Biển
Đông.
9. Tăng cường công tác thông tin tuyên truyền, tạo sự đồng thuận xã hội,
phát huy sức mạnh tổng hợp thực hiện thắng lợi nhiệm vụ kế hoạch năm 2013
Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước;
tạo sự đồng thuận và quyết tâm cao trong triển khai thực hiện mục tiêu, nhiệm
vụ kế hoạch năm 2013. Tăng cường công khai, minh bạch và chủ động cung cấp
thông tin về các vấn đề được xã hội quan tâm.
Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên, huy động
sức mạnh tổng hợp tổ chức thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Chăm
lo cải thiện đời sống và bảo vệ lợi ích thiết thực của người dân. Tuyên truyền,
vận động các tầng lớp nhân dân đoàn kết, tin tưởng và tích cực tham gia thực
hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà
nước về thông tin báo chí. Đề cao vai trò và trách nhiệm của các cơ quan thông
tin đại chúng, bảo đảm thông tin khách quan, trung thực, đúng định hướng, vì
lợi ích của đất nước. Khuyến khích ứng dụng công nghệ thông tin và sử dụng các
tiện ích của mạng internet, đồng thời thực hiện các
biện pháp cần thiết ngăn chặn có hiệu quả việc lợi dụng để chống phá đất nước. Xử
lý nghiêm việc thông tin sai sự thật.
Thưa Quốc hội,
Thưa đồng chí, đồng bào,
Trong
những ngày qua, Ban cán sự đảng Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Ban cán sự đảng
các bộ và từng thành viên Chính phủ đã nghiêm túc kiểm điểm tự phê bình theo
tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 Khóa XI "Một số vấn đề cấp bách về xây
dựng Đảng hiện nay". Tập thể Ban cán sự đảng và mỗi đồng chí chúng tôi đã
thành khẩn nhìn nhận những yếu kém, khuyết điểm và chân thành cầu thị rút ra
những bài học thấm thía, sâu sắc nhất trong thực thi chức trách nhiệm vụ được
giao và trong cả quá trình hoạt động cách mạng của mình.
Với trọng
trách là Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ, tôi nghiêm túc nhận trách
nhiệm chính trị lớn của người đứng đầu Chính phủ và xin thành thật nhận lỗi
trước Quốc hội, trước toàn Đảng, toàn dân về tất cả những yếu kém, khuyết điểm
của Chính phủ trong lãnh đạo, quản lý, điều hành, nhất là những yếu kém, khuyết
điểm trong kiểm tra, giám sát hoạt động của tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà
nước; một số tập đoàn, tổng công ty, điển hình là Vinashin, Vinalines, sản xuất
kinh doanh kém hiệu quả, có nhiều sai phạm, gây tổn thất và hậu quả nghiêm
trọng về nhiều mặt, ảnh hưởng lớn đến uy tín và vai trò của kinh tế nhà nước.
Chính
phủ, Thủ tướng Chính phủ, từng thành viên Chính phủ sẽ nghiêm túc nghiêm khắc
với mình, đoàn kết nhất trí, hết lòng hết sức làm việc, đề cao trách nhiệm, nỗ
lực cao nhất để khắc phục những yếu kém khuyết điểm, phấn đấu thực hiện tốt chức
trách nhiệm vụ được giao, hành động quyết liệt, tất cả vì Tổ quốc vì nhân dân,
vì Đảng vì chế độ, vì sự ổn định và phát triển bền vững của đất nước.
Thưa các vị đại biểu Quốc
hội,
Chúng ta đang phấn đấu để đạt kết quả cao nhất nhiệm vụ còn lại của năm 2012. Bước sang năm 2013, năm bản lề của Kế
hoạch 5 năm 2011 - 2015, đất nước ta phải đối mặt với rất nhiều khó
khăn, thách thức, nhiệm vụ đặt ra là rất nặng nề. Dưới sự lãnh đạo của Trung ương
Đảng, toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, cả hệ thống chính trị phải cùng nhau chung
sức chung lòng, quyết tâm cao nhất thực hiện thắng lợi nhiệm vụ kế hoạch năm
2013, góp phần tích cực vào việc thực hiện Kế hoạch 5 năm 2011 - 2015. Chính
phủ mong nhận được sự ủng hộ, giám sát của Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
các đoàn thể nhân dân và đồng chí đồng bào cả nước.
Xin cảm ơn các vị đại biểu, đồng chí đồng bào./.
[1]
Mục tiêu là: “Ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì
tăng trưởng ở mức hợp lý gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền
kinh tế, nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh; bảo đảm phúc lợi xã
hội, an sinh xã hội và cải thiện đời sống nhân dân; giữ vững ổn định chính trị,
củng cố quốc phòng, bảo đảm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; nâng cao
hiệu quả hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế”.
[3]
Tính đến 20 tháng 9 cả nước có 51 nghìn doanh nghiệp thành lập mới, 40 nghìn
doanh nghiệp giải thể hoặc dừng hoạt động.
[4]
Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) 3 tháng đầu năm tăng 4,1%, 6 tháng tăng 4,5%,
9 tháng tăng 4,8%.
[6] Thời kỳ 2007 - 2011 so với 2002 - 2006, kinh tế thế giới
tăng trưởng bình quân 2,7% năm, giảm 33%; Việt Nam giai đoạn này tăng trưởng
6,5%, chỉ giảm 16,7%.
[9]
Việc khởi tố một số thành viên Ban lãnh đạo
Ngân hàng ACB gần đây, thực tế đã chỉ đạo các cơ quan chức năng điều tra sai
phạm từ năm 2011, khi đủ chứng cứ đã xử lý ngay theo đúng quy định của pháp
luật.
[10]
45% số xã đạt chuẩn quốc gia về y tế theo chuẩn mới, 74% số xã có bác sỹ; tỷ lệ
trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng là 16,3% (chỉ tiêu là 16,6%); số
giường bệnh trên một vạn dân đạt 21,5, đạt chỉ tiêu đề ra.
[12] So với cùng kỳ năm 2011, đã giảm 21,7% số vụ, 18,1% số
người chết, 26,7% số người bị thương (Nghị
quyết số
21/2011/QH13 của Quốc hội đề ra mục tiêu từ 2012 giảm số vụ tai nạn, số người
chết 5 - 10%
).
[13]
Có 5 chỉ tiêu dự báo chưa đạt, trong đó chỉ tiêu tăng trưởng GDP thấp
hơn kế hoạch, chỉ tiêu tỷ lệ vốn đầu tư phát triển toàn xã hội so với GDP không
đạt (29,5% so với 33,5%) kéo theo hai chỉ tiêu giải quyết việc làm, giảm tỷ lệ
hộ nghèo đạt thấp. Năm 2012 diện tích rừng tăng thêm vẫn đạt mức đề ra, nhưng
chỉ tiêu tỷ lệ che phủ rừng không đạt kế hoạch do có sự điều chỉnh số liệu gốc
so sánh năm 2011.
[14] Đầu tư mở rộng 1.054 km và nâng cấp
282 km mặt đường với tổng nhu cầu đầu tư khoảng 89 nghìn tỷ đồng.
Nguồn: Trang thông tin quốc hội.
http://na.gov.vn/htx/Vietnamese/default.asp?expandaction=subexpand&khoaQH=11&intkyhop=266#3HztTexAyfKW
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét