Thứ Hai, 29 tháng 10, 2012

(2) Con đường bình thường của các đồng tiền “An Nam”


nguyentrongtao
TẠP CHÍ ĐẠI TRƯỜNG
Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển,TT-Huế, No. 7(96)(2012), tr. 126-136
Trở lại với tiền Càn Long “An Nam”
Tiền kim khí vành tròn lỗ vuông được định hình từ đế quốc Tần Hán, mang niên hiệu vua trị vì, từ thế kỉ IV nên nhà Thanh cũng không làm gì khác để canh tân một truyền thống lâu đời. Có điều, họ là người “ngoại di” vào cai trị Trung Quốc nên đúc tiền có ghi thêm chữ Mãn Châu của dòng tộc họ, như xác nhận thêm một vai trò chủ nhân riêng rẽ. Đất nước Trung Hoa lại quá lớn rộng nên tiền đúc sử dụng cho vùng ngoại biên phía Tây phải thêm chữ của các tộc Hồi, Mông, ví dụ tiền Càn Long thông bảo do Y Lê Bảo Y Cục đúc (tên sông Yli chảy vào hồ Balkach) là dành cho dân vùng nay thuộc nước Kazakhstan. Trừ các tiền của trung ương do bộ Công (ghi mặt trái bằng hai chữ “nguyên bảo” Mãn), bộ Hộ đúc (có hai chữ “tuyền bảo” Mãn), mỗi tỉnh còn có một cục đúc tiền riêng, ghi ở mặt trái tên tắt của tỉnh ấy (ví dụ “vân” là Vân Nam, “quảng” là Quảng Châu, “phúc” là Phúc Kiến…), nói gọn, có khi là chữ Hán, Mãn tương đương hai bên lỗ, có khi là “ (tên tỉnh) bảo” chữ Mãn hai bên lỗ… Như vậy đồng Càn Long “An Nam” cũng là nằm trong truyền thống ấy, phải được giải thích theo truyền thống ấy. Vấn đề còn lại là chấn chỉnh những chi tiết.

Việc quân Thanh có mặt ở Thăng Long quanh cuối 1788, đầu 1789 xác định đồng Càn Long “An Nam” đã được đúc vào thời kì ấy. Nhưng truyền thống vốn cũng có nhiều dạng, đồng thời. Tiền đúc ra là để tiêu dùng, tiền Càn Long “An Nam” phát sinh vào thời động binh to lớn nên được coi là để phát lương cho quân Tôn Sĩ Nghị, và vì mang tên một ông vua Thanh nên hẳn phải được đúc bên Tàu, như giải thích của A. Barker, và của Ed. Toda theo chỉ dẫn Nguyễn Anh Huy. Nhắc lại, nhiều truyền thống tồn tại đồng thời nếu không có các điều kiện loại trừ nhau. Nước Trung Hoa lớn rộng, tiền đúc nhiều không phải được sử dụng trong nước mà còn theo dòng giao thương đi ra nước ngoài, xa thật xa, đến Ấn Độ, đến tận châu Phi. Cứ coi các lô tiền phát hiện ở Việt Nam, phần rất lớn là tiền Đường, Tống, Thanh… thì đủ biết. Cho nên không cần khi động binh mới lo đúc tiền – chưa kể không dễ mà đúc kịp. Tiền kim khí bền vững, dạng hình vuông tròn có mẫu cố định lâu dài không gây lầm lạc, nên người dân cứ dùng tiền có sẵn, không nệ tên ông vua nào, thằng giặc nào. (Vả lại không thể đọc ra chữ trên ấy, chân còn không được, nói chi đến thảo, triện!)…[8] Kĩ thuật đúc còn nhiều khó khăn, hao phí nhiều, các nước, các nhân vật triều đại yếu thế, kém phương tiện cứ cho dùng các đồng tiền tuôn đổ từ Trung Quốc, qua các trao đổi chuyển sản phẩm ra vật giao dịch chung. Chính vì thế mà trên đất Việt tràn đầy tiền Trung Quốc. Chỉ có lúc đột nhiên mở rộng giao thương, vượt khỏi ao nhà Đông Á, với các thương thuyền phương Tây hiện diện ở các thế kỉ XVII, XVIII, vua chúa Việt mới ra lệnh đúc nhiều tiền, mà lại cũng phải nhái theo các mẫu Trung Hoa (Đàng Ngoài theo tờ Lệnh 1745, Đàng Trong 1725, 1746), điều đó hẳn cũng là nguyên nhân dẫn đến tình hình loạn danh hiệu tiền ta thấy trong các sưu tập bây giờ.



Tiền Càn Long và các nơi đúc: (1). Tiền của Phúc Kiến Bảo Phúc Cục: chữ “phúc” Mãn và Hán bên phải lỗ, “Chiết Giang Bảo Chiết Cục”, hai bên lỗ là “chiết bảo” chữ Mãn; (2). “Trực Lệ Bảo Trực Cục”, hai bên lỗ là “trực bảo” chữ Mãn; (3). “Công bộ Bảo nguyên Cục”, hai bên lỗ là “nguyên bảo” Mãn. Nguồn: Đinh Phúc Bảo.

Tiền còn mang dạng truyền thống khác, không phải chỉ là vật trung gian để trao đổi mà còn là vật chứng nhận quyền uy. Cho nên các ông vua phải đúc tiền, không cần phải nhiều, đủ cho dân chúng buôn bán, mà chỉ để lấy uy trong vòng hạn hẹp, như khi Lí Thái Tông đúc tiền Thiên Cảm mang danh hiệu của người thiếp cưng, thêm tước ông con của vợ đó, ông đúc tiền Minh Đạo ban phát cho các quan văn võ trước khi đi đánh Chiêm (1044). Các tay nổi dậy, muốn chứng tỏ sự hiện diện của họ, muốn lôi kéo dân chúng vọng tưởng về một thời đại khác, đều cũng đúc những đồng tiền mà vì tính phù du của những cuộc nổi dậy đã gây khó khăn đoán định cho người sau. Một đồng Trần tân công bảo, cũng có thể đọc Trần công tân bảo được đoán định cho hai nhân vật lịch sử cuối Lê sơ (Trần Tuân và Trần Công Ninh), chẳng ông nào làm thoả mãn người sưu tầm cả – sai lầm có phần là do ông Tây đọc tiếng Việt, như khi cho đồng Thiên Bình thb. là của Trần Thiêm Bình vậy. May mắn là Ninh dân thông bảo của Nguyễn Tuyển 1740 được nhận ra vì sử ghi ông dựng cờ “Ninh dân”. Ðồng Chiêu đạo vương nha của con người khuất lấp Chiêu Ðạo Vương Trần Quang Xưởng đồng thời giúp ta thấy được khía cạnh phức tạp của triều đại Trần, của thời đại Việt Nam đời Lí Trần không như sử cũ tô vẽ, mà dấu hiệu ẩn khuất là nằm trong sự kiện kèn cựa giữa Trần Ích Tắc và Trần Nhật Duật, nơi hội nghị Bình Than của các thành phần sông nước đương thời.

Tóm lại, tiền Càn Long “An Nam” không cần phải đúc ra vì nhu cầu quân dụng của Tôn Sĩ Nghị. Nó chỉ xuất hiện để chứng minh cho một thực tế chiếm hữu của nhà Thanh: Đời Càn Long, vào cuối năm 1788 đó, trên vùng đất có tên là An Nam, vốn là một phiên thần lâu đời của Trung Quốc, nay đã thuộc hẳn vào Trung Quốc, nên phải có tên trong danh hiệu tiền của Thiên tử, giống như các tỉnh, Y Lê ngoại biên hay Phúc Kiến, Chiết Giang ở nội địa vậy. Vì thế giới hạn Càn Long thông bảo trong khoảng thời gian 1788-1802 do A. Barker đưa ra hẳn không thích hợp. Tiền này chỉ được đúc vào thời gian phù du Tôn Sĩ Nghị đóng quân trên đất Đại Việt mà thôi. Trong những biến chuyển quanh các năm 1788, 1789 đó, nhất là với chiến thắng lẫy lừng của Quang Trung, nhân vật Lê Chiêu Thống trở thành tội đồ của lịch sử, tha hồ cho người nay mắng mỏ. Cho đến nay hình như chỉ có ông Nguyễn Duy Chính từ vị thế bên ngoài, cách biệt với những sôi động tình cảm của số đông, đã lên tiếng nhẹ lời bênh vực ông vua thất thế kia. Tuy nhiên đó cũng chỉ là những tỏ bày kêu gọi thông cảm mà không đi vào tính cách duy lí của một tình trạng lịch sử thuộc vào quá khứ khu vực Á Đông: Lê Chiêu Thống cầu cứu nhà Thanh, và quân Thanh tiến vào Đại Việt là nằm trong giao ước Thiên triều Phiên thuộc như đã nói. Sau Chiêu Thống còn có nhiều nhân vật thực hiện trong vô thức mối giao ước đó mà người ta không để ý vì bị những sự kiện khác to lớn hơn che khuất, hoặc vì chưa đủ tâm ý, kiến thức để nhận ra mà thôi.

Cũng vì mối liên hệ đó mà, trước khi nhận xét trên những đồng tiền cụ thể, ta có thể nói rằng tiền Càn Long “An Nam” đã được đúc ngay ở Đông Kinh/Thăng Long. Tiền Trung Quốc đúc ở tỉnh có cơ quan riêng như tiền chữ “phúc” ở Phúc Kiến Bảo Phúc Cục, nên Vân Nam hay Quảng Châu không có phận sự đúc tiền Càn Long “An Nam”. Trong lúc đó Tôn Sĩ Nghị có ngay ở nơi đóng quân một truyền thống đúc tiền cũng lâu đời, có nhiều cơ sở ở ngay Đông Kinh, ở Sơn Tây, Sơn Nam với các đồng Cảnh Hưng dồn dập nhiều loại “thông/đại/thái/cự/chính/chí /thuận… bảo”, mặt sau mang các chữ “kinh”, “trung” từ kho kinh đô, các chữ “sơn tây” từ kho Sơn Tây… Ở đó họ từng đúc các loại tiền rõ ràng mang ảnh hưởng tiền Trung Quốc, tiền Thanh một cách vụng về hay rõ rệt với các chữ Hán, Mãn trên mặt sau. Ngày nay người sưu tập còn thấy đồng Minh Mạng thông bảo có “nguyên bảo” chữ Mãn ở mặt sau, cũng như có đồng Tường Phù “tuyền bảo” Mãn vậy[9].

Và Quang Trung “An Nam”


Một khi đã nắm vững được tính chính danh và sự liên tục của tên nước An Nam thì vấn đề tiền Quang Trung “An Nam” trở nên dễ dàng dù cũng phải ngăn chận những giải thích quá đà như đối với đồng Càn Long. Mà lần này thì phải chận những dẫn dắt tình cảm theo hướng ngược lại.

Tiền đúc với ý nghĩa xác nhận quyền lực thì đồng Quang Trung “An Nam” hẳn chỉ ra đời sau khi Quang Trung được công nhận là An Nam Quốc Vương trong năm 1789. Xác nhận này có thể gây tức giận cho nhiều người, rất nhiều người, cho rằng đã làm hạ giá ông vua anh hùng. Thật ra sự xuất hiện của đồng tiền này là đúng lúc cho một nhu cầu chính danh trong, ngoài. Đây là sự xác nhận với dân Bắc Hà về việc Quang Trung làm chủ nước An Nam cũ của nhà Lê bằng quyền lực thực tế, và được chuẩn nhận về mặt quốc tế (khu vực) bằng việc vua Thanh tấn phong, có sứ thần qua lại. Tiền có lí do tạo tác theo một biến cố, ở vào thời điểm rõ rệt nên số lượng không nhiều, do đó cũng lưu truyền ít oi so với các thứ cùng niên hiệu. Đặt đúng vị trí của nó trong dòng lịch sử cổ tiền Á Đông sẽ thấy sự xuất hiện của nó không là một biến cố lớn lao vượt khỏi ý nghĩa bình thường của một trường hợp tương tự, huống là gán thêm cho nó những danh vị ngô nghê trong những bài tụng ca cứ tưởng vốn không thể lặp lại ở thế kỉ văn minh.

Tất cả những xác định lạc lõng xảy ra chỉ vì phong trào Tây Sơn nói chung từng được ca tụng không hết lời, thêm ông Quang Trung đầy oai võ càng nâng cao thời đại có ông tham dự, dù là chỉ ở một phần đất nước Việt Nam ngày sau. Trong tranh luận về biến cố, nhân vật lịch sử thời đại này, người ta không quan tâm tới lí lẽ bình thường về các tranh chấp cá nhân, triều đại nên loại trừ các sự kiện thực tế đã có ghi chép rành rẽ, do đó lại càng không cần tìm hiểu sâu sát hơn nữa. Bảo rằng Gia Long tận diệt dòng dõi, quan chức Tây Sơn đến mức ví dụ, cho “chém Trần Quang Diệu hàng trăm mảnh” mà không chịu biết rằng trên đà chiến thắng, Nguyễn Ánh đã tha vợ bé (thứ phi!), bà con Nguyễn Nhạc lấy lẽ “chỉ là người đàn bà… là dân thường”. Người ta không thấy rằng theo tính cách một người chỉ huy có tinh thần thực tế, dưới triều ông có đầy các quan chức Tây Sơn cũ, trong đó có người chỉ đầu hàng vào phút chót! Và cũng trong tình hình thực tế sau biến động, Minh Mạng, ông vua cứng rắn nhất triều đại, từng hối tiếc là đã thiêu hủy sách vở Tây Sơn để đến nay cần muốn biết xem thời ấy như thế nào thì không biết phải tìm nơi đâu!

Với quan điểm phe phái thiên lệch quá quắt như thế, người ta không cần đi sâu vào chuyên ngành để tìm ra lí lẽ nên cứ lầm lạc theo đà phê phán có sẵn mà dẫn dắt học giả nước ngoài rơi xuống hố như mình. Sử gia G. Dutton đã dựa vào sách của cơ quan chuyên ngành cao nhất nước mà cho rằng từ lệnh 1839 cấm sử dụng tiền Tây Sơn, để có thể suy ra lòng tưởng nhớ dai dẳng, sâu sắc của dân chúng đối với triều đại thất bại kia đã vượt lên trên những cố công cùng sức của lớp người chiến thắng muốn hủy diệt Tây Sơn đến không còn vết tích nào[10]. Sách viết với quan điểm cũ, được in trong thế kỉ XXI mà không chú ý tìm tài liệu mới, có ông Nguyễn Anh Huy nhắc nhở rằng ngay trong Đại Nam thực lục (từng được dịch trong những năm 1970), đã có tờ chiếu 1816 cho phép vẫn thông dụng tiền Tây Sơn trong 5 năm nữa (1817-1821), như thế thêm thông tin là từ lúc triều Nguyễn phục hưng, dân chúng vẫn dùng tiền ngụy triều. Ông Nguyễn nhắc tờ chiếu kia, chủ yếu vẫn là đề cao (tiền) Quang Trung nói riêng và tiền Tây Sơn nói chung nhưng tờ chiếu kia lại cho thấy thực tế khác mà chính quyền Nguyễn phải chịu đựng, và cũng là yếu tố để nhà cổ tiền học phải lưu ý trong lập luận của mình đối với tiền Á Đông. Lí do thực tế đó là: “… (dân gian) noi theo đã lâu, chợt nghiêm cấm thì người tích trữ đọng lại mà không thông, người không quen thì ngại tiền mới, thực ra không tiện cho dân.” Ai bảo một chính quyền phong kiến độc tài thì không chú ý đến tình hình thực tế phải chịu đựng của người dân? Vậy là mười lăm năm sau khi “đổi đời” người dân vẫn dùng tiền cũ không phải vì nhớ tiếc Tây Sơn. Cho đến năm 1839 kia cũng vậy. Ông Mĩ quen sống ở thế giới bạc giấy Tây phương, máy in loạch xoạch thoáng chốc ra tiền, máy bay thoáng chốc rải ra khắp nước… lầm lạc là phải nhưng “học giả” Việt chỉ mới qua vài vụ đổi tiền để hủy dấu vết cũ, mới qua vài triều thay đổi mà đã quên chuyện tiền đồng với bao khó khăn tạo tác, với người dân mang thói quen dùng vật trao đổi vành tròn lỗ vuông kia, không cần biết các chữ gì trên ấy…

*

Tuy có rất nhiều cách để nhận mặt quá khứ nhưng quá khứ là thứ đã thành hình không thể cải sửa. Điều đó có nghĩa là tuy có khó khăn nhưng quá khứ không phải là thứ gì không nắm bắt được. Nó đã xuất hiện trong những điều kiện cụ thể, theo những trình tự hợp lí trong bộ óc con người nên tuy với thời gian cách biệt, việc tìm ra quá khứ ấy vẫn còn có những đường dây hợp lí để theo dõi. Cứ bám vào các sự kiện cụ thể, ráp nối chúng vào nhau, đâu đấy đã có tông phả, chỉ cần tìm ra vị trí đúng của chúng là ghép xong, là thấy thời xưa hiện về, không hoàn hảo nhưng cũng không phải chỉ là vu khoát, tùy hứng. Trường hợp các đồng tiền “An Nam” đang bàn chỉ là một minh chứng nhỏ, được cố gắng đem vào trong toàn cục lịch sử vốn đã từng bị làm méo mó, đến mức có người tưởng là vô phương cứu chữa.

tháng 7-2012

[1] Albert Schroeder, Đại Nam hoá tệ đồ lục – Annam, Études numismatiques, Paris, Imprimerie Nationale 1905.

[2] Đinh Phúc Bảo, Cổ tiền đại từ điển, Đài Bắc, Thế Giới Thư Cục ấn hành, 5 quyển, 1964. Tựa của tác giả đề Trung Hoa Dân Quốc năm thứ 27 (1939).

[3] Phạm Thăng, Tiền tệ Việt Nam theo giòng lịch sử. Tập 1: Từ thời Đinh Tiên Hoàng (968) cho đến 1975. Tác giả còn là họa sĩ tốt nghiệp trường Mĩ Thuật Gia Định 1952, có triển lãm tranh 1962, 1964, 1971 tại Sài Gòn, triển lãm tem thư tại Bangkok 1972. Sách do tác giả tự xuất bản tại Canada 1995, có bản in lần đầu 1990 tại Đức. Hình ở trang 128. Vì tình hình thực tế, chúng tôi không theo dõi được tình trạng trao đổi phong phú trên mạng nhờ sự phát triển ở Việt Nam sau 1975, trong đó có tham dự của người Việt di tản.

[4] Dr. R. Allan Barker, The Historical Cash Coins of Việt Nam – Vietnam’s Imperial History as Seen Through its Currency- Part I: Official and Semi-Official Coins,Singapore 2004.

Hình Quang Trung Annam tr. 218, Càn Long Annam tr. 224, 2 mẫu, hình và chú. Theo giới hạn hiểu biết của chúng tôi, đây là quyển sách nói về tiền cổ Việt Nam phong phú, viết và trình bày với tinh thần khoa học cao nhất. Tuy nhiên nền sử học Việt Nam trong nước đã gây ảnh hưởng sai lạc đến tác giả, không riêng gì về các đồng tiền An Pháp và một dạng Thái Bình, ví dụ tinh thần dân tộc chủ nghĩa trong nhận xét về đồng Thiên Khánh, trang 92.

[5] Nguyễn Anh Huy, Lịch sử tiền tệ Việt Nam – Sơ truy và lược khảo…Nhà xuất bản Văn Hoá Sài Gòn 2010. Từ trong sách cũng được biết thêm các tác giả và luận văn khác. tiền Tây Sơn với tờ chiếu 1819 tr. 197, 211.

[6] A. Barker, sđd, trang 148-150.

[7] Câu hát ru em nguyên vẹn: “Ban ngày mang mảng đi chơi, Tối lặn mặt trời đổ lúa ra xay”.

[8] Tình trạng rối rắm này phát sinh những kiến giải sai lầm từ những hiểu biết thô thiển đến những lập luận mang dáng vẻ chuyên sâu. Như cứ thấy các đồng tiến trùng niên hiệu giữa Việt Nam và Trung Quốc thì gán ngay là tiền Việt. Như đã thấy, tiền là vật thông dụng trong dân chúng nên sự chấp nhận không nằm ở các dấu hiệu bác học (niên hiệu, lời gia tặng, can chi, chữ Hán…) mà là ở các hình thức quan sát, cảm nhận ngay được: đồng hay kẽm, dày hay mỏng, lành lặn hay mẻ sứt… Trên hết, và là điểm cố định lớn nhất trong sử dụng: là hình vành tròn, lỗ vuông theo truyền thống chuẩn nhận khu vực nên người ta không cần biết trong thứ đang cầm mua bán có niên hiệu ông vua Tàu, vua Nhật, có bán lạng hay ngũ thù, có tiền đúng là của vua sai đúc ra, hay của tên loạn thần tặc tử nào làm vua, dù trong thoáng chốc dù khá lâu dài như của ngụy Tây Sơn… Tình trạng tiền tự đúc lấy niên hiệu Trung Hoa (như ở Đàng Trong 1725, Đàng Ngoài 1745), hay việc Nhật đúc tiền bán, Hoà Lan kinh doanh tiền ở Đàng Trong là minh chứng cho sự chuẩn nhận bình thường đó. Vấn đề tính chất tiền xưa là “không biên giới” có khi cố tình được bỏ qua để phục vụ cho lợi ích chính trị cấp thời. Ví dụ trên chùm đảo Cressent của Hoàng Sa bị mất năm 1974 có đảo Money vì thấy có tiền Vĩnh Lạc (1403-1424) nơi đó nên là cớ cho một luận cứ về chủ quyền của Trung Quốc trên quần đảo. Cũng theo tâm thức đó mà người chủ trương triển lãm Hoàng Sa năm 1974 ở Sài Gòn đã lấy tên Quang Ảnh từ Đại Nam thực lục, thay vào. (còn đảo Robert được thay bằng Hữu Nhật, cũng lấy từ sử Nguyễn).

Vì thế đem áp dụng nguyên tắc thô thiển của khảo cổ học vào việc định vị thời gian cho một khái quật dựa trên xác nhận của một đồng tiềm kèm theo, sẽ dẫn đến lầm lạc rất xa. Chúng tôi đã chú ý đến tình trạng này nên đã có ý kiến từ 1988 là: “Sự hiện diện của một đồng tiền trong một ngôi mộ chỉ mang tính chất tiêu cực cho việc đoán định thời điểm chôn cất: Nó chứng tỏ rằng người chết chỉ được chôn sau khi đồng tiền ra đời mà thôi”. Chưa kể rằng trong thời gian “sống” đồng tiền đã kéo thêm tính chất khác theo với lịch sử lưu hành cho đến khi mòn mỏi của nó. Ví dụ, thấy tiền bán lạng ngũ thù của các thế kỉ đầu công nguyên mà cho rằng ngôi mộ ở vào thời kì (Đông Sơn) đó thì thật tội nghiệp, bởi vì nếu tiền chồng thành từng cục 36 đơn vị thì mộ không thể nào được chôn trước hậu bán thế kỉ XV cả, vì dấu hiệu 36 đơn vị đó chỉ được sử nói đến năm 1467 mà thôi (Khâm định Việt sử cương mục, bản dịch tập Một. Nxb. Giáo Dục, 1998, trang 1059-1060, là dẫn chứng đầu tiên trong sử về tiền gián – với các tầng cấp đơn vị: 1, 36, 360). Trong những năm 1960, lập Ấp chiến lược người ta đã thấy có tiền Ngũ thù lẫn lộn tiền Việt, tiền Đường Tống giống như các tập nhóm khác lưu hành vào thế kỉ XVII, XVIII ở Đàng Trong.

[9] Tạ Chí Đại Trường, Những bài dã sử Việt, Nxb. Tri Thức, Hà Nội 2009, tr. 335. Hình mờ vì dùng một bản in khác.

[10] George Dutton, The Tây Sơn Uprising – Society and Rebellion in Eighteenth Century Vietnam, University of Hawaii Press, Honolulu 2006.

Nguyên văn phần nhận xét về tiền Tây Sơn (pp. 231-232): “Tây Sơn loyalists continued to find ways to stir up unrest, despise the relentless Nguyễn efforts to remove all traces of Tây Sơn rules. The new court’s efforts in this direction continued to confront reminders of the Tây Sơn, both material and psychological. Although the Nguyễn could tear down some of the structures that had been erected by the Tây Sơn, they could not put an end to the use of the TâySơn-minted coinage. These coins, bearing the names of the three emperors, represented a constant reminder of that dynasty well after it had been overthrown. Nguyễn efforts to halt the use of these coins were limited and ineffectual, reflected in the fact as late as 1839 edicts were still being issued against their continued ciculation”. Chú cho biết là dẫn theo Việt Nam những sự kiện lịch sử (từ khởi thủy đến 1858), Hà Nội, Nxb. Giáo Dục 2001.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét