CHÍNH PHỦ
Số: 284/BC-CP
|
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do -
Hạnh phúc
Hà Nội, ngày 19 tháng
10 năm 2012
|
BÁO
CÁO
TÌNH
HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 2012
VÀ
KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 2013
Kính gửi: Đại biểu Quốc hội Khóa XIII
Căn cứ Chương trình làm
việc của Kỳ họp thứ tư, Quốc hội Khóa XIII, Chính phủ
báo cáo Quốc hội Tình hình kinh tế - xã hội năm 2012
và Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2013.
Tại Kỳ họp thứ hai, Quốc hội Khoá XIII đã thông qua Nghị
quyết số 11/2011/QH13 ngày 09 tháng 11 năm 2011 về Kế hoạch phát triển kinh tế
- xã hội năm 2012 với mục tiêu tổng quát là: Ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì mức tăng
trưởng hợp lý gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng và tái cơ cấu nền kinh tế,
nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế; bảo đảm phúc
lợi xã hội và an sinh xã hội, cải thiện đời sống nhân dân; giữ vững ổn định
chính trị, củng cố quốc phòng, bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội; nâng
cao hiệu quả công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế.
Căn cứ các Nghị quyết của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ
đã ra các Quyết định giao chỉ tiêu kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, dự
toán ngân sách nhà nước, kế hoạch vốn đầu tư phát triển nguồn ngân sách nhà
nước, kế hoạch vốn các chương trình mục tiêu quốc gia năm 2012 và kế hoạch vốn trái phiếu Chính phủ giai đoạn 2012 -
2015 và năm 2012. Chính phủ đã
ban hành Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 03 tháng 01 năm 2012 về những giải pháp
chủ yếu chỉ đạo, điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, Nghị quyết số 13/NQ-CP ngày 10 tháng 5 năm 2012 về các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh
doanh, đồng thời vẫn tiếp
tục thực hiện mục tiêu
kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, từng bước
thực hiện tái cơ cấu nền kinh tế theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả
và sức cạnh tranh, phấn
đấu thực hiện tốt kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội đã đề ra.
Thực hiện các Nghị quyết của Trung ương, Bộ Chính trị,
các Nghị quyết của Quốc hội, Nghị quyết của Chính phủ, Quyết định của Thủ tướng
Chính phủ, các cấp, các ngành, các doanh nghiệp và toàn dân đã nỗ lực phấn
đấu và đã đạt được những kết quả nhất định trong việc kiềm chế lạm phát, ổn
định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, duy trì tăng trưởng hợp lý.
Dưới đây là tình hình kinh tế - xã hội 9
tháng đầu năm và dự báo khả năng hoàn thành kế hoạch cả năm 2012:
1.1. Về giá cả và lạm phát:
Nhờ thực hiện đồng bộ các giải
pháp chính sách, như: thắt chặt tiền tệ, quản lý chặt chẽ chi tiêu và giảm bội
chi ngân sách nhà nước, cắt giảm vốn đầu tư và đổi mới nâng cao hiệu quả đầu tư
công,… lạm phát đã cơ bản được kiềm chế. Tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng (CPI)
liên tục giảm trong 7 tháng đầu năm 2012. So với tháng trước, CPI tháng 1 tăng
1%, tháng 2 tăng 1,37%, tháng 3 tăng 0,16%, tháng 4 tăng 0,05%, tháng 5 tăng
0,18%. Đáng chú ý là trong tháng 6 và tháng 7, CPI đã giảm lần lượt là âm (-)
0,26% và âm (-) 0,29%. Tuy nhiên, từ tháng 8 đến nay, do tác động của tăng giá
trên thế giới, tăng giá xăng dầu và các giải pháp để hỗ trợ sản xuất và ảnh
hưởng của thiên tai, lũ lụt nên chỉ số giá tiêu dùng đang có xu hướng tăng trở
lại; so với tháng trước, chỉ số giá tiêu dùng tháng 8 tăng 0,63%. Trong tháng 9,
ngoài các yếu tố nêu trên, việc điều chỉnh viện phí, học phí và giá các mặt
hàng phục vụ năm học mới,... đã tác động làm chỉ số giá tiêu dùng tăng cao. Chỉ
số giá tiêu dùng tháng 9 so với tháng 8 tăng 2,2%, là mức tăng cao nhất trong 9
tháng qua. Chỉ số giá tiêu dùng tháng 9 so với tháng 12 năm 2011 tăng 5,13%.
1.2. Về tiền tệ, tín dụng:
Cơ chế quản lý, điều hành về tiền tệ,
tín dụng và hoạt động ngân hàng tiếp tục được hoàn thiện. Lãi suất cho vay đã
giảm nhanh với mức giảm từ 5-8%/năm so với cuối năm 2011, phù hợp với diễn biến
lạm phát, kinh tế vĩ mô và thị trường tiền tệ. Tính đến ngày 21/9/2012, tổng
phương tiện thanh toán (M2) ước tăng 12,21%, tổng số dư tiền gửi ở các tổ chức
tín dụng tăng 12,7% so với 31/12/2011.
Tín dụng tăng trưởng ở mức thấp
nhưng cơ cấu tín dụng có chuyển dịch theo hướng tích cực, tập trung vào các
lĩnh vực ưu tiên, giảm dần tỷ trọng dư nợ tín dụng đối với các lĩnh vực không
khuyến khích. Tính đến ngày 21/9/2012, tổng dư nợ tín dụng tăng khoảng 2,52% so
với 31/12/2011. Tính đến 31/7/2012, dư nợ tín dụng xuất khẩu tăng khoảng 13,2%
so với 31/12/2011, dư nợ tín dụng đối với lĩnh vực không khuyến khích chiếm 4,99%
so với tổng dư nợ cho vay, giảm (-) 55,4%
so với tỷ trọng cuối năm 2011 (11,2%). Tính đến 30/6/2012, dư nợ tín dụng cho
nông nghiệp, nông thôn tăng khoảng 6,6% so với 31/12/2011. Tuy nhiên, khả năng tăng trưởng tín dụng trong
thời gian tới vẫn rất khó khăn, do nhu cầu thị trường hàng hoá, dịch vụ trong và ngoài
nước tăng thấp, doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn, hàng tồn kho lớn,… đã hạn chế
khả năng hấp thụ vốn của ngân hàng; nợ quá hạn cao, các tổ chức tín dụng quy
định các điều kiện cho vay chặt chẽ hơn,…
Tỷ giá giao dịch VND/USD trên thị
trường cơ bản ổn định. Cán cân thanh toán quốc tế 9 tháng đầu năm 2012 ước
thặng dư ở mức khoảng 8 tỷ USD là điều kiện quan trọng để gia tăng dự trữ ngoại
tệ của Nhà nước.
1.3. Về thu chi ngân sách nhà
nước:
Những khó khăn của kinh
tế thế giới và trong nước đã tác động đến tăng trưởng kinh tế, ảnh hưởng đến thu ngân
sách nhà nước, đặc biệt là thu từ hoạt động xuất nhập khẩu. Bên cạnh đó, việc thực
hiện các giải pháp giãn, miễn giảm thuế để tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh
doanh, hỗ trợ thị trường theo quy định tại Nghị quyết 13/NQ-CP cũng ảnh hưởng giảm
nguồn thu.
Tổng thu ngân sách nhà nước 9 tháng ước đạt trên 498
nghìn tỷ đồng, bằng 67,3% dự toán, tăng 1,3% so với cùng kỳ năm 2011, trong đó:
thu nội địa ước đạt 63,8% dự toán; thu từ dầu thô đạt 99,6% dự toán; thu cân đối từ hoạt động xuất nhập khẩu đạt 58,9% dự toán.
Tổng chi ngân sách nhà nước 9 tháng ước đạt trên
643 nghìn tỷ đồng, bằng 71,2% dự toán, tăng 14,5% so với cùng kỳ năm 2011;
trong đó chi đầu tư phát triển đạt 127,9 nghìn tỷ đồng, bằng 71,1% dự toán.
1.4. Về xuất, nhập khẩu:
Tổng kim ngạch xuất khẩu 9 tháng ước đạt 83,79 tỷ USD,
tăng 18,9% so với cùng kỳ năm 2011, trong đó, xuất khẩu của khu vực FDI (kể cả dầu
thô) đạt 52,5 tỷ USD, tăng 34,6% so với cùng kỳ; trong khi đó xuất khẩu của khu
vực doanh nghiệp trong nước giảm (-) 0,55% so cùng kỳ.
Tăng trưởng xuất khẩu đạt mức vượt kế hoạch đề ra,
nhưng chủ yếu dựa vào tăng trưởng của nhóm hàng công nghiệp của các doanh
nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Tỷ trọng đóng góp trong tổng kim
ngạch xuất khẩu của khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (không kể dầu
thô) 9 tháng đầu năm ước đạt khoảng 55%, tăng so với mức 47,5% cùng kỳ năm
2011.
Tổng kim ngạch nhập khẩu 9 tháng ước đạt 83,76 tỷ USD,
tăng khoảng 6,6% so với cùng kỳ năm 2011, trong đó, kim ngạch nhập khẩu của các
doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đạt 43,9 tỷ USD, tăng 24,8%.
Về mặt hàng nhập khẩu: Việc nhập khẩu nguyên liệu, máy móc phục vụ cho sản
xuất và xuất khẩu của doanh nghiệp trong nước giảm sút; trong khi đó, nhập khẩu
của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng cao, chủ yếu là
nhập khẩu nguyên liệu phục vụ sản xuất hàng xuất khẩu.
Về thị trường nhập khẩu 9
tháng, nhập khẩu từ Châu Á chiếm tới 79,3% tổng kim ngạch nhập khẩu. Các thị
trường nhập khẩu chủ yếu là Trung Quốc (kim ngạch nhập khẩu tăng 17,1%, tỷ trọng
24,7%), ASEAN (giảm 2,5%, tỷ
trọng 18,3%), Hàn Quốc (tăng 19,5%, tỷ trọng 13,5%), Nhật Bản (tăng 15,7%, tỷ
trọng 10,4%) và EU (tăng 21,9%, tỷ trọng 8,2%).
Xuất khẩu
dịch vụ 9 tháng ước đạt trên 7,2 tỷ USD, tăng 10,7% so với cùng kỳ năm 2011.
Nhập khẩu dịch vụ ước khoảng 9,1 tỷ USD, tăng 7,8% so với năm 2011.
Việc giảm
tốc độ tăng nhập khẩu và giảm nhập siêu đã góp phần cân đối ngoại tệ, ổn định
tỷ giá và tăng dự trữ ngoại tệ của Nhà nước, nhưng mặt khác cho thấy nhu cầu
nhập khẩu phục vụ cho đầu tư và sản xuất đang có xu hướng giảm, đặc biệt là của
khu vực doanh nghiệp trong nước, sẽ ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế và xuất
khẩu trong thời gian tới.
1.5. Về đầu tư phát triển:
Trong 9 tháng đầu năm, vốn đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước 9
tháng thực hiện ước đạt
khoảng 127,9 nghìn tỷ đồng, bằng 71,1% dự toán năm. Vốn
trái phiếu Chính phủ ước đạt 28,5 nghìn tỷ đồng, bằng 63,3% kế hoạch. Vốn tín
dụng đầu tư phát triển của Nhà nước ước đạt 17,86 nghìn tỷ đồng, bằng 84% kế
hoạch, cao hơn tỷ lệ giải ngân cùng kỳ (79,1%).
Vốn ODA, tổng giá trị các Hiệp định đã ký kết với nhà tài trợ trong 9 tháng ước
đạt 4,8 tỷ USD, đạt 68% dự kiến ký kết cả năm; trong đó: vốn vay là 4,77 tỷ
USD, vốn viện trợ không hoàn lại là 30 triệu USD. Vốn
ODA 9 tháng giải ngân ước đạt 2,88 tỷ USD, bằng 94,7% kế hoạch; trong đó, vốn vay ước đạt 2,7 tỷ USD, vốn viện trợ không hoàn lại ước
đạt 180 triệu USD.
Vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đăng ký ước 9 tháng đạt khoảng 10 tỷ USD,
bằng 84,7% cùng kỳ năm 2011. Tuy vốn đăng ký giảm nhưng vốn thực hiện ước 9
tháng đạt 8,1 tỷ USD, xấp xỉ cùng kỳ năm 2011. Nguyên nhân suy giảm vốn FDI
đăng ký một mặt do kinh tế thế giới phục hồi chậm, các nhà đầu tư gặp nhiều khó
khăn về nguồn lực tài chính và sự cạnh tranh thu hút vốn của các nước trong khu
vực như Indonesia, Thái Lan,... Mặt khác, yêu cầu về nâng cao chất lượng đầu tư
trực tiếp nước ngoài, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát trong thời gian
qua đã góp phần làm giảm mạnh số lượng các dự án lớn có vốn ảo, các dự án bất
động sản quy mô lớn nhưng không có khả năng triển khai,...
1.6.
Về hoạt động của thị trường chứng khoán:
Tính
đến tháng 9/2012, chỉ số VN-index tăng 13% và HN-index tăng 5% so với cuối năm
2011. Giá trị giao dịch bình quân cổ phiếu, chứng chỉ quỹ tăng 55% so bình quân
năm 2011; mức vốn hoá thị trường đạt khoảng 31% GDP. Vốn trái phiếu Chính phủ
và trái phiếu Chính phủ bảo lãnh qua thị trường chứng khoán 9 tháng đầu năm đạt
88,1 nghìn tỷ đồng, tăng 47% so cùng kỳ năm 2011.
2. Về thực hiện mục tiêu duy trì mức tăng trưởng hợp lý gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng và tái cơ
cấu nền kinh tế:
2.1. Về tái cơ cấu nền kinh tế:
Trong năm 2012 đã xây dựng đề án tái cơ cấu tổng thể nền kinh tế báo cáo
Quốc hội theo nghị quyết của Đảng. Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt và chỉ đạo triển khai thực hiện các đề án tái cơ cấu doanh nghiệp nhà
nước, tái cơ cấu thị trường tài chính, ngân hàng và tái
cơ cấu đầu tư với tinh thần giải quyết khó khăn bức xúc trước mắt gắn
với mục tiêu cơ bản, lâu dài và coi khó khăn, thách thức là một động lực thúc
đẩy tái cơ cấu.
Tiếp tục hoàn thiện thể chế về đầu tư nhằm huy động mạnh mẽ các nguồn lực
xã hội vào đầu tư phát triển, giảm tỷ trọng và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
nhà nước. Thực hiện phân bổ vốn đầu tư tập trung, vốn trái phiếu Chính phủ và
vốn chương trình mục tiêu quốc gia theo kế hoạch trung hạn; khắc phục tình
trạng đầu tư dàn trải, vượt quá khả năng cân đối của ngân sách. Quy định rõ
trách nhiệm của người quyết định đầu tư về chất lượng và hiệu quả của các công
trình xây dựng. Đã chỉ đạo rà soát, điều chỉnh chiến lược, quy hoạch nhiều
ngành, lĩnh vực, địa phương để làm cơ sở quản lý đầu tư trung và dài hạn.
Triển
khai thực hiện tái cơ cấu các ngân hàng thương mại cổ phần yếu kém. Việc xử lý
nợ xấu được khẩn trương thực hiện nhưng kết quả còn hạn chế. Tăng cường thanh
tra, giám sát đối với các tổ chức tín dụng, công ty tài chính, chứng khoán, xử
lý nghiêm các hành vi vi phạm. Từng bước tháo gỡ khó khăn cho thị trường bất
động sản, thị trường chứng khoán. Công tác tái cấu trúc thị
trường chứng khoán và doanh nghiệp bảo hiểm bước đầu triển khai với việc rà soát
các báo cáo về chỉ tiêu an toàn tài chính, phân loại các công ty chứng khoán để
có các giải pháp xử lý, 5 công ty chứng khoán cơ bản hoàn tất rút nghiệp vụ môi
giới, 7 công ty chứng khoán được đưa vào diện kiểm soát đặc biệt, 20 công ty
chứng khoán được kiểm tra định kỳ. Công tác thanh tra, giám sát, xử lý vi phạm
trong hoạt động chứng khoán, các hành vi vi phạm pháp luật trên thị trường
chứng khoán được xử lý kịp thời, đảm bảo thị trường chứng khoán hoạt động công
khai, minh bạch và an toàn.
Trong việc cải
cách doanh nghiệp nhà nước, Chính phủ đã chỉ đạo triển khai thực hiện tái cơ
cấu các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước theo hướng tập trung đầu tư vào
ngành nghề kinh doanh chính, quy mô phù hợp với thị trường, năng lực quản trị
và khả năng tài chính. Đến 31/7/2012, có 19/21 tập đoàn, tổng công ty nhà nước
đã xây dựng Đề án tái cơ cấu. Tập trung hoàn thiện thể chế quản lý nhà nước và
quản lý của chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước. Quy định rõ quyền hạn,
trách nhiệm của từng chủ thể, nhất là của bộ quản lý ngành và hội đồng quản
trị.
2.2. Về tăng trưởng kinh tế:
Tốc độ tăng trưởng tổng sản
phẩm trong nước (GDP) 9 tháng đầu năm ước đạt 4,73%, thấp hơn mức tăng 5,77%
của 9 tháng năm 2011. Trong đó, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,48%,
đóng góp 0,4 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung; khu vực công nghiệp và
xây dựng tăng 4,36%, đóng góp 1,82 điểm phần trăm; khu vực dịch vụ tăng 5,97%,
đóng góp 2,51 điểm phần trăm. Mặc dù tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt thấp hơn cùng
kỳ năm trước và thấp hơn so với kế hoạch đề ra nhưng có xu hướng cải thiện: GDP quý I tăng 4%, quý II tăng 4,66%, quý III ước
tăng 5,35%. Bên cạnh đó, lạm phát được kiềm chế, kinh tế vĩ mô ổn định hơn là những
dấu hiệu tích cực để phát triển bền vững trong thời gian tới. Kết quả thực hiện của một số ngành kinh tế 9 tháng
đầu năm như sau:
2.2.1. Sản xuất công nghiệp và
xây dựng:
Mặc dù vẫn còn khó khăn, nhưng sản xuất công nghiệp đã duy trì được mức
tăng trưởng hợp lý, đảm bảo cung ứng đủ điện và một số nguyên liệu, sản phẩm thiết
yếu cho sản xuất và tiêu dùng. Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) 9
tháng đầu năm tăng 4,8% so với cùng kỳ năm 2011[1], chỉ bằng
62% mức tăng 9 tháng đầu năm 2011 (7,8%). Đây là mức tăng trưởng tuy
thấp nhưng đã có chuyển biến nhất định[2]
sau khi triển khai thực hiện các giải pháp hỗ trợ sản xuất kinh doanh theo Nghị
quyết số 13/NQ-CP của Chính phủ. Chỉ số tồn kho tại thời điểm 01/9/2012 của
ngành công nghiệp chế biến (ngành đóng góp 62,5% mức tăng chung của toàn ngành
công nghiệp), tăng 20,4% so với cùng thời điểm năm trước. Mặc dù mức tồn kho
còn cao nhưng đã có xu hướng giảm dần trong những tháng gần đây[3].
Những kết quả trên cho thấy các biện pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh
doanh đã bước đầu phát huy tác dụng.
Giá trị sản xuất xây dựng 9 tháng đầu năm tăng 2,6% so với cùng kỳ năm
trước. Chương trình Phát triển nhà ở sinh viên và Phát triển nhà ở cho công
nhân lao động tại khu công nghiệp và người có thu nhập thấp tại khu vực đô thị
đạt được những kết quả nhất định. Đã hoàn thành đưa vào sử dụng 157 khối nhà ở
cho sinh viên, đáp ứng 134 nghìn chỗ ở; hoàn thành 62 dự án nhà ở cho công
nhân, đáp ứng chỗ ở cho 67,6 nghìn công nhân. Chương trình hỗ trợ hộ nghèo về
nhà ở theo Quyết định số 167/2008/QĐ-TTg đã hoàn thành các mục tiêu, yêu cầu đề
ra với 511.644 hộ nghèo đã được hỗ trợ nhà ở, đạt 103% so với số hộ phê duyệt
ban đầu.
Thị trường bất động sản nhà ở hoạt động trầm lắng, giá cả sụt giảm ở tất cả
các phân khúc thị trường. Số lượng giao dịch bất động sản giảm mạnh, thậm chí
nhiều dự án không có giao dịch. Cơ cấu hàng hoá bất động sản nhà ở vẫn còn mất
cân đối, thiếu hàng hoá có quy mô vừa và nhỏ, có giá cả phù hợp với đa số nhu
cầu của người dân, đặc biệt thiếu loại hình nhà ở cho thuê. Do tác động tiêu
cực từ sự đóng băng của thị trường bất động sản, sản lượng sản xuất và nhu cầu
sử dụng các loại vật liệu xây dựng đều giảm đáng kể so với cùng kỳ năm 2011,
hầu hết các nhà máy đều không phát huy hết công suất.
2.2.2. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản:
Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản phát triển
tương đối ổn định. Giá trị sản xuất toàn ngành 9 tháng đầu năm ước
tăng 3,7%, trong đó nông nghiệp tăng 2,9%, lâm nghiệp tăng 6,2%, thủy sản
tăng 5,3%.
Diện tích gieo trồng vụ Đông Xuân
đạt khoảng 3,1 triệu ha, sản lượng ước đạt 20,3 triệu tấn, cao hơn vụ Đông Xuân
năm trước khoảng 512,5 nghìn tấn. Diện tích gieo trồng vụ Hè Thu đạt khoảng 2,6
triệu ha, sản lượng ước đạt 13,5 triệu tấn. Diện tích gieo trồng vụ Mùa ước đạt
khoảng 1,97 triệu ha, sản lượng ước đạt khoảng 9,3 triệu tấn. Tổng diện tích
gieo cấy lúa năm 2012 ước đạt 7,65 triệu ha, năng suất ước đạt 56 tạ/ha. Nếu
điều kiện thời tiết thuận lợi, sản lượng lúa cả năm ước đạt 43,1 triệu tấn,
vượt kế hoạch đề ra là 42 triệu tấn, tăng 692 nghìn tấn so với năm 2011, đảm
bảo được an ninh lương thực trong nước và xuất khẩu trên 7 triệu tấn gạo.
Thời tiết, dịch bệnh trên vật
nuôi diễn ra khá phức tạp trong những tháng đầu năm. Tuy nhiên, nhờ sự quan tâm chỉ đạo của các
cấp, ngành và địa phương, chủ động triển khai các biện pháp đồng bộ phòng, chống
dịch bệnh, không để bùng phát dịch lớn,
giảm thiệt hại cho ngành chăn nuôi, nên đàn gia súc, gia cầm vẫn phát
triển ổn định. Ước 9 tháng, giá trị sản xuất ngành chăn nuôi tăng 4,5% so cùng kỳ 2011.
Trong 9 tháng đầu năm, diện tích trồng rừng tập trung ước
đạt 123,5 nghìn ha, bằng 95,2% so với cùng kỳ năm 2011; diện tích rừng trồng
được chăm sóc là 411 nghìn ha, tăng 1,3%; diện tích rừng được khoanh nuôi tái
sinh đạt 932 nghìn ha. Thời tiết nắng nóng, khô hạn kéo dài nên hiện tượng cháy
rừng đã xảy ra ở một số địa phương. Tính chung 9 tháng, diện tích rừng bị thiệt
hại là 3.011,7 ha, tăng 50,8% so cùng kỳ năm 2011, trong đó diện tích rừng bị
cháy là 2.065,4 ha, tăng gấp hơn 2 lần.
Ước 9 tháng đầu năm, sản lượng thuỷ sản khai thác đạt hơn 2 triệu tấn, tăng 4,6%; sản lượng thuỷ sản nuôi trồng đạt 2,33 triệu tấn, tăng 6,5% so với cùng kỳ năm 2011.
Các chương trình lớn về phát triển nông thôn đã được
triển khai mạnh mẽ, như: đầu tư phát triển các huyện nghèo theo Nghị quyết 30a
của Chính phủ, Chương trình xây dựng nông thôn mới, Chương trình mục tiêu quốc
gia Nước sạch và vệ sinh môi trường, Đào tạo nghề cho lao động nông thôn. Các cơ
chế, chính sách hỗ trợ giảm nghèo, hỗ trợ phát triển sản xuất tiếp tục được
triển khai có hiệu quả.
Hạ tầng nông nghiệp, nông thôn được quan
tâm đầu tư phát triển. Các công trình thuỷ lợi dở dang có khả năng hoàn thành
trong năm được tập trung đầu tư; đồng thời chú trọng nâng cấp, sửa chữa các
công trình hiện có nhằm phát huy hiệu quả phục vụ của công trình. Công tác thuỷ
lợi được triển khai đồng bộ, đảm bảo nước làm đất gieo cấy lúa Xuân năm 2012
cho 100% diện tích ở các tỉnh vùng Trung du, Đồng bằng Bắc Bộ; điều hành phân
ranh mặn ngọt, đảm bảo đủ nước ngọt phục vụ sản xuất vụ Xuân hè, Hè thu ở các
tỉnh Đồng bằng Sông Cửu Long. Công tác đê điều và phòng chống lụt bão, giảm nhẹ
thiên tai được quan tâm triển khai thực hiện. Cơ sở hạ tầng nghề cá tiếp tục
được chú trọng đầu tư xây dựng, như: cảng cá, bến cá, khu neo đậu tránh trú bão
cho tầu cá, các vùng sản xuất giống thuỷ sản, hạ tầng các vùng nuôi trồng thuỷ
sản tập trung, các công trình quan trắc và cảnh báo môi trường, cơ sở khảo
nghiệm, kiểm nghiệm, kiểm soát chất lượng thuỷ sản,… tạo điều kiện cho tăng
trưởng bền vững ngành.
2.2.3. Phát triển dịch vụ:
Tốc độ
tăng trưởng khu vực dịch vụ trong 9 tháng đầu năm ước tăng 5,97% so với cùng kỳ năm 2011, cao hơn so với tốc độ
tăng trưởng chung của nền kinh tế.
Tổng
mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 9
tháng đầu năm ước đạt 1.713 nghìn tỷ đồng, tăng 17,3%
so với cùng kỳ năm 2011, nếu loại trừ yếu tố
giá, tổng mức bán lẻ tăng khoảng 6,68%.
Hoạt động
du lịch tiếp tục phát triển khá. Doanh thu của ngành du lịch ước 9 tháng đầu năm đạt
khoảng 113.000 tỷ đồng, tăng khoảng 26% so với cùng kỳ năm 2011. Số lượt khách
quốc tế đến Việt Nam ước đạt khoảng 4,85 triệu lượt, tăng khoảng 13% so với
cùng kỳ năm 2011, trong đó khách đến từ Hàn Quốc tăng 38,2%, Ma-lay-xi-a tăng 25,4%,
Nhật Bản tăng 24,5%, Thái Lan tăng 23,4%, Đài Loan tăng 19,4%,... Thị trường du
lịch nội địa có chuyển biến mạnh mẽ, số lượt khách du lịch nội địa 9 tháng ước
đạt 25 triệu lượt, tăng khoảng 8% so với cùng kỳ năm trước.
Khối lượng
hàng hoá vận chuyển 9 tháng đầu năm ước đạt 715,4 triệu tấn, tăng 9,2%; khối
lượng hàng hoá luân chuyển ước đạt khoảng 137,1 tỷ tấn.Km, giảm 11,8% so với
cùng kỳ năm 2011. Khối lượng hành khách vận chuyển ước đạt 2.128,2 triệu lượt người,
tăng 12,1% so với cùng kỳ năm 2011; khối lượng hành khách luân chuyển đạt 91,95
tỷ lượt người.Km, tăng 9,8%.
Số thuê bao
điện thoại phát triển mới 9 tháng đầu năm ước đạt 8,8 triệu thuê bao, tăng 10%
so với cùng kỳ năm 2011, bao gồm: 16,2 nghìn thuê bao cố định, bằng 37,4% cùng
kỳ và 8.802,2 nghìn thuê bao di động, tăng 10,4% so với cùng kỳ. Tổng số thuê
bao điện thoại cả nước ước đạt 135,9 triệu thuê bao, tăng 4,3% so với cùng kỳ,
bao gồm 15 triệu thuê bao cố định, giảm 3,1% và 120,9 triệu thuê bao di động,
tăng 5,2% so với cùng kỳ năm 2011.
Số thuê bao
internet trên cả nước tính đến cuối tháng 9/2012 ước đạt 4,4 triệu thuê bao,
tăng 13,9% so với cùng kỳ năm trước; số người sử dụng internet ước đạt 32,8
triệu người, tăng 10,4% so với cùng kỳ năm 2011. Số lượng tên miền phát triển mới tăng ổn định, tính đến cuối tháng 9/2012 ước
đạt trên 32.500 tên, nâng tổng số tên miền truyền thống “.vn” hiện có lên trên
200.000 tên.
2.2.4. Về phát triển doanh nghiệp:
Về doanh nghiệp đăng ký thành lập mới: Tính đến 20/9/2012, cả nước có gần 51 nghìn doanh nghiệp
thành lập mới, với tổng số vốn đăng ký là 350,5 nghìn tỷ đồng, giảm 11,7% về số
doanh nghiệp và tăng 0,7% về vốn so với cùng kỳ năm 2011. Một số lĩnh vực có số
lượng doanh nghiệp đăng ký thành lập mới giảm là: kinh doanh bất động sản giảm
47,8%, khai khoáng giảm 46,1%, nông, lâm nghiệp, thuỷ sản giảm 25,3%, xây dựng
giảm 24,9% so với cùng kỳ năm 2011. Trong khi đó, một số lĩnh vực có số lượng
doanh nghiệp thành lập mới liên tục tăng là: giáo dục đào tạo tăng 24%, tài
chính, ngân hàng, bảo hiểm tăng 11,5%, nghệ thuật, vui chơi giải trí tăng 10,8%
so với cùng kỳ năm 2011. Việc chuyển dịch lĩnh vực đăng ký kinh doanh của khu
vực doanh nghiệp như trên cho thấy các doanh nghiệp đã chủ động tái cơ cấu theo
hướng hoạt động hiệu quả hơn, thích ứng với sự thay đổi của thị trường.
Về các doanh
nghiệp gặp khó khăn phải dừng hoạt động: Số doanh nghiệp gặp khó khăn phải giải thể, dừng hoạt
động có dấu hiệu giảm dần. Tuy nhiên, số doanh nghiệp phải giải thể, dừng hoạt
động còn cao, cho thấy khu vực doanh nghiệp vẫn gặp nhiều khó khăn. Tính đến
20/9/2012, tổng số doanh nghiệp đã giải thể hoặc dừng hoạt động là 40.190 doanh
nghiệp, tăng 6,5% so với cùng kỳ năm 2011, trong đó có 6.593 doanh nghiệp giải
thể và 33.597 doanh nghiệp dừng hoạt động[4].
Tính đến 20/9/2012, trong tổng số 675.069 doanh nghiệp đã
được thành lập, cả nước còn 471.509 doanh nghiệp đang hoạt động, chiếm 69,8%; 85.660
doanh nghiệp đã giải thể; 19.081 doanh nghiệp đã đăng ký dừng hoạt động và 98.819
doanh nghiệp dừng hoạt động nhưng không đăng ký.
3.1. Về giáo dục và đào tạo:
Công tác đổi mới quản lý giáo dục tiếp tục được đẩy mạnh.
Hầu hết các chỉ tiêu về phát triển giáo dục đào tạo đều đạt hoặc vượt kế hoạch
đề ra, cụ thể: Ước thực hiện 9 tháng đầu
năm và cả năm 2012: số trẻ mẫu giáo là 3.586 nghìn trẻ, đạt 107,6% kế hoạch; số
học sinh tiểu học là 7.200 nghìn học sinh, đạt 98% kế hoạch; số học sinh THCS
là 4.950 nghìn học sinh, đạt 99,6% kế hoạch; số học sinh THPT là 2.755 nghìn
học sinh, đạt 97% kế hoạch; tuyển mới đại học và cao đẳng chính quy ước đạt 562
nghìn chỉ tiêu, đạt 101,3 kế hoạch; tuyển mới trung cấp chuyên nghiệp ước đạt
323 nghìn người, đạt 101,6% kế hoạch; tuyển mới đào tạo sau đại học đạt 53
nghìn người, đạt 108,2% kế hoạch; tỷ lệ lao động đang làm việc trong nền kinh
tế đã qua đào tạo năm 2012 đạt 46%.
Tuy nhiên, chỉ tiêu tuyển mới cao đẳng và trung cấp nghề
chỉ đạt 88,9% kế hoạch do tâm lý xã hội còn chưa coi trọng việc học nghề; công
tác hướng nghiệp còn chưa tạo được chuyển biến trong nhận thức xã hội về học
nghề, lập nghiệp cho người lao động.
Trong năm học 2011-2012, có thêm 02 tỉnh được công nhận đạt
chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, nâng tổng số tỉnh đạt chuẩn phổ
cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi lên 59/63 tỉnh, thành phố. Đến nay, có 63/63
tỉnh, thành phố duy trì được kết quả phổ cập giáo dục THCS đã đạt được.
Cơ sở vật chất, thiết bị dạy học ở các cơ sở giáo dục đã đáp
ứng tốt hơn các yêu cầu dạy và học theo các chuẩn quốc gia đã ban hành. Việc
ứng dụng công nghệ thông tin trong trường học được triển khai tích cực.
3.2. Về khoa học và công nghệ:
Công tác xây dựng cơ chế, chính sách, hoàn thiện hệ thống
pháp luật về khoa học và công nghệ được triển khai tích cực, đã ban hành nhiều
văn bản pháp luật, tạo hành lang pháp lý đồng bộ để thực hiện có hiệu quả việc
quản lý nhà nước đối với hoạt động khoa học và công nghệ. Hoạt động nghiên cứu
khoa học đạt được những kết quả nhất định với những công trình nghiên cứu có
giá trị khoa học và thực tiễn trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hoá, sinh
học, hoá học, địa chất, địa lý, vật liệu,…
Thị trường khoa học và công nghệ ngày
càng phát triển thông qua việc tổ chức các hội trợ công nghệ và thiết bị ở cả
Trung ương và địa phương. Công tác hỗ trợ phát triển tài sản trí tuệ được chú
trọng và thực hiện dưới nhiều hình thức. Công tác đảm bảo an toàn bức xạ, an
toàn hạt nhân, ứng dụng năng lượng nguyên tử vì mục đích hòa bình được đẩy
mạnh. Đào tạo phát triển nguồn nhân lực cho các cơ quan về năng lượng nguyên tử
đã được quan tâm và có nhiều kết quả.
3.3. Về chăm sóc sức khỏe nhân dân:
Công tác chăm sóc và bảo vệ
sức khoẻ nhân dân trong năm 2012 đã có những cải thiện. Các chỉ tiêu đánh giá
năng lực của hệ thống các cơ sở y tế[5] và các chỉ tiêu về sức
khoẻ[6] đều hoàn thành vượt mức kế
hoạch.
Mạng lưới khám chữa bệnh từ
trung ương đến địa phương được tập trung đầu tư; cơ sở vật chất, trang thiết bị
y tế được nâng cấp; chất lượng dịch vụ khám chữa bệnh được cải thiện đáng kể.
Các chính sách khám chữa bệnh cho người nghèo, trẻ em dưới 6 tuổi, đồng bào dân
tộc thiểu số, các đối tượng chính sách xã hội, người có công được quan tâm và
triển khai thực hiện.
Công tác quản lý các dịch
vụ y tế được tăng cường. Nguồn thu viện phí đã góp phần quan trọng bảo đảm kinh
phí hoạt động của các bệnh viện trong điều kiện ngân sách nhà nước còn hạn hẹp,
tạo điều kiện để có nguồn kinh phí mua thẻ và hỗ trợ bảo hiểm y tế (BHYT) cho
một số đối tượng chính sách xã hội.
Ước tính đến hết năm 2012,
tỷ lệ bao phủ BHYT đạt 68%. Tuy nhiên, tỷ lệ bao phủ BHYT ở một số địa phương
còn thấp, 7 tỉnh có tỷ lệ dưới 50%. Nhóm đối tượng tự nguyện tham gia BHYT vẫn
còn thấp, mới có 55% người lao động ở khu vực ngoài quốc doanh và 25% số người
cận nghèo tham gia BHYT.
Các biện pháp phòng chống dịch bệnh được triển khai đồng bộ nên đã xử lý kịp thời, không để dịch bệnh bùng phát,
lây lan. Công tác giám sát tại các cửa khẩu được tăng cường, kịp thời ngăn chặn và giảm thiểu việc xâm nhập, lây
truyền dịch bệnh,... Trong 9 tháng đầu năm, cả nước có 93.124 trường hợp mắc bệnh tay chân miệng,
trong đó có 41 trường hợp tử vong; 51.256 người mắc bệnh sốt xuất huyết, trong đó có 42 trường hợp tử
vong;… Đến
ngày 17/9/2012, số trường hợp nhiễm HIV hiện còn sống là 205.689
người, số
bệnh nhân AIDS hiện tại là 52.466 người, số người
nhiễm HIV đã tử vong 53.688 trường hợp.
Công tác y tế dự phòng và vệ sinh an toàn thực phẩm được đẩy mạnh; công tác thanh tra, kiểm tra được tích cực triển khai, thông báo công khai và xử lý
nghiêm các hành vi vi phạm vệ sinh an toàn thực phẩm. Các chỉ số về số vụ ngộ độc thực phẩm, số mắc, số đi viện
và tử vong,... trong 9 tháng đầu năm đều giảm so với cùng kỳ năm trước.
Tích lũy 9 tháng đầu năm, toàn quốc đã xảy ra 99 vụ ngộ độc thực phẩm với 3.410
người mắc, 2.673 người đi viện và 20 trường hợp tử vong. Tuy nhiên, tỷ lệ ngộ
độc thực phẩm ở Việt Nam vẫn còn cao so với các nước trong khu vực. Các vi phạm
pháp luật về vệ sinh an toàn thực phẩm còn xảy ra ở tất cả các công đoạn của
chuỗi cung cấp thực phẩm.
4. Về thực hiện mục tiêu bảo đảm an sinh xã hội, phúc lợi xã hội và cải thiện đời sống nhân dân:
4.1. Về lao động, việc làm:
Trong 9 tháng đầu năm, ước giải quyết
việc làm cho khoảng 1,13 triệu lao động, tăng 0,27% so với cùng kỳ năm 2011, đạt 70,6% kế hoạch năm 2012; trong đó: giải quyết việc làm trong
nước cho khoảng 1,07 triệu người, tăng 0,9% so với cùng kỳ năm 2011, đạt 70,9% kế hoạch; đưa khoảng 60 nghìn lao động đi làm việc theo hợp đồng có thời hạn ở nước ngoài, bằng
88,8% cùng kỳ năm 2011, đạt 66,7% kế hoạch.
Chính sách bảo hiểm xã hội (BHXH) và bảo hiểm thất nghiệp cho
người lao động được tổ chức thực hiện tốt, góp phần giảm bớt khó khăn, ổn định cuộc
sống và giúp người lao động tìm được việc làm mới. Tính đến hết tháng 8/2012, tổng số lao động tham gia
BHXH là 10,34 triệu người, trong đó: BHXH tự nguyện là 127,95 nghìn người; BHXH bắt buộc là 10,22 triệu người, chiếm khoảng 80% số
người thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc trên cả nước. Trong 8 tháng đầu năm,
đã có hơn 345,5 nghìn người đăng ký thất nghiệp, tăng 41,4% so với cùng
kỳ năm 2011; 298,5 nghìn lao động nộp hồ sơ đề nghị hưởng bảo hiểm thất
nghiệp; 282,2 nghìn người được hưởng bảo hiểm thất nghiệp hàng tháng,
tăng gần 42% so với cùng kỳ năm 2011; 11,5 nghìn người được hưởng bảo hiểm
thất nghiệp 1 lần; 184,2 nghìn người được tư vấn giới thiệu việc làm,
tăng 25,7% so với cùng kỳ năm 2011; 2,1 nghìn người được trợ cấp học nghề,
tăng 4,83 lần so với cùng kỳ năm 2011. Những địa phương có người hưởng trợ cấp
thất nghiệp lớn nhất là thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai và Hà Nội.
4.2. Về bảo đảm an sinh xã hội và xoá
đói giảm nghèo:
Các cấp, các ngành đã tích cực triển khai thực hiện tốt
các chính sách an sinh xã hội. Các chính sách chăm sóc người có công đã được triển
khai bảo đảm đúng đối tượng chính sách, góp phần nâng cao mức sống người có
công, được các tầng lớp nhân dân đồng tình ủng hộ. Thực hiện chi trả kịp thời,
đầy đủ trợ cấp ưu đãi thường xuyên cho trên 1,5 triệu lượt người có công với
cách mạng. Các hoạt động đền ơn đáp nghĩa tiếp tục được phát triển sâu rộng,
xây mới trao tặng trên 10 vạn nhà, sửa chữa nâng cấp trên 6 nghìn nhà tình
nghĩa cho các đối tượng chính sách.
Thực hiện
trợ cấp xã hội thường xuyên cho gần 2,3 triệu người thuộc nhóm đối tượng bảo
trợ xã hội, trong đó có 42 ngàn người được tổ chức nuôi dưỡng, chăm sóc tập
trung tại các cơ sở bảo trợ xã hội. Đối với các tỉnh, thành phố có điều kiện,
thực hiện nâng mức trợ cấp cao hơn mức quy định của Chính phủ; các tỉnh nghèo
được bổ sung ngân sách đảm bảo xã hội để đảm bảo chi trả đầy đủ cho các đối
tượng theo quy định.
Theo dõi
sát tình hình thiếu đói giáp hạt, thiệt hại do thiên tai, kịp thời tổ chức cứu
trợ và đề xuất giải pháp khắc phục hậu quả, nhanh chóng phục hồi sản xuất, ổn
định đời sống nhân dân. Từ đầu năm đến nay, đã hỗ trợ hơn 33 nghìn tấn gạo từ
nguồn dự trữ quốc gia cho 18 địa phương để cứu trợ kịp thời cho người dân khắc
phục hậu quả thiên tai, bão lụt.
Hệ thống các văn bản pháp lý về quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường tiếp tục được rà
soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện. Trong 9 tháng đầu năm 2012, đã tập trung xử lý các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng theo Quyết định số 64/2003/QĐ-TTg ngày
của Thủ tướng Chính phủ;
xử lý chất thải rắn ở các đô thị, khu công nghiệp; đánh giá ô nhiễm môi trường các làng nghề; kiểm soát việc sản
xuất, nhập khẩu và sử dụng hóa chất, thuốc bảo vệ thực vật, phân bón hóa học
dùng trong nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản; kiểm soát việc nhập khẩu phế liệu,
máy móc, thiết bị đã qua sử dụng.
Các chỉ
tiêu môi trường và phát triển bền vững năm 2012 được quan tâm, đôn đốc thực
hiện tích cực, với một số chỉ tiêu ước đạt hoặc vượt kế hoạch đề ra, như: Tỷ lệ khu công nghiệp, khu chế xuất đang hoạt động có
hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường ước đạt 70%, Tỷ lệ
dân số đô thị được cung cấp nước sạch năm 2012 ước đạt 79%, Tỷ lệ chất thải rắn
ở đô thị được thu gom ước đạt 83,5%, đều đạt kế hoạch đề ra; Tỷ lệ cơ sở gây ô
nhiễm môi trường nghiêm trọng theo Quyết định số 64/2003/QĐ-TTg được xử lý ước
đạt 83,6%, vượt kế hoạch đề ra là 79%. Tuy nhiên, một số chỉ tiêu dự kiến không
đạt kế hoạch, cần phấn đấu thực hiện là: Tỷ lệ dân số nông thôn được cung cấp
nước hợp vệ sinh ước đạt 80% (kế hoạch là 86%); Tỷ lệ che phủ rừng ước đạt 40%
(kế hoạch là 41%).
Công tác đấu tranh, phòng chống
tội phạm và các tệ nạn xã hội được đẩy mạnh và đạt nhiều kết quả. Các hoạt động
tuyên truyền, giáo dục, kiểm tra, kiểm soát các hoạt động dịch vụ nhạy cảm dễ
phát sinh tệ nạn xã hội và công tác đấu tranh, truy quét các tụ điểm, điểm nóng
được đẩy mạnh góp phần giảm phát sinh mới, chuyển hoá các địa bàn phức tạp về
tệ nạn xã hội. Trong 9 tháng đầu năm đã tổ chức cai nghiện ma tuý cho trên
22.500 người; dạy nghề, tạo việc làm sau cai nghiện cho trên 6.500 người; xây
dựng mới trên 750 xã, phường, thị trấn lành mạnh không có tệ nạn xã hội.
Công tác bảo đảm trật tự an toàn
giao thông có chuyển biến tích cực. Các bộ, ngành và các địa phương đã tích cực
triển khai các biện pháp bảo đảm trật tự an toàn giao thông, giảm thiểu các vụ
tai nạn giao thông. Tính chung 9 tháng đầu năm, trên địa bàn cả nước đã xảy ra
7.827 vụ tai nạn giao thông, làm chết 6.896 người và làm bị thương 5.596 người.
So với cùng kỳ năm 2011, số vụ tai nạn giao thông giảm 21,7%; số người chết
giảm 18,1%; số người bị thương giảm 26,7%.
7. Về lĩnh vực văn hoá, thể dục
thể thao:
Hoạt động bảo tồn, tôn tạo và phát huy di sản văn hóa
được quan tâm chỉ đạo thực hiện. Các di tích lịch sử quan trọng của quốc gia
tiếp tục được quy hoạch, tôn tạo, tu bổ để gìn giữ bảo tồn di sản văn hoá. Nhiều
hoạt động văn hoá, nghệ thuật quần chúng trong năm 2012 được tổ chức nhằm chào
mừng sự thành công của các sự kiện chính trị quan trọng. Phong trào toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá, hoạt động văn hoá phục vụ đồng bào dân tộc
thiểu số tiếp tục được đẩy mạnh; các lĩnh vực điện ảnh, biểu diễn nghệ thuật,
mỹ thuật, nhiếp ảnh, thư viện,... tiếp tục được duy trì và phát triển.
Các hoạt động thể thao được chú trọng. Số vận động viên
cao cấp, vận động viên được đào tạo theo chương trình tài năng quốc gia đều
vượt kế hoạch đề ra. Các hoạt động thể thao quần chúng tiếp tục được triển khai
rộng rãi trên toàn quốc nhằm hưởng ứng cuộc vận động “Toàn dân rèn luyện thân
thể theo gương Bác Hồ vĩ đại”. Các hoạt động thể dục thể thao trong nhà trường
tiếp tục được ngành giáo dục đào tạo và các cấp các ngành đẩy mạnh nhằm hướng
tới xã hội thể thao toàn diện.
8. Về thông
tin và truyền thông:
Công tác
thông tin tuyên truyền đường lối chính sách của Đảng, thông tin kinh tế - xã
hội trong nước và quốc tế tiếp tục được tăng cường. Việc phổ biến chính sách
pháp luật của cơ quan nhà nước các cấp được quan tâm hơn, như các chương trình:
“Đối thoại trực tuyến”, “Dân hỏi Bộ trưởng trả lời”,... góp phần quan trọng,
tạo sự đồng thuận đối với chính sách của Đảng và Nhà nước.
Công tác
thông tin báo chí, xuất bản, phát thanh, truyền hình tiếp tục được đẩy
mạnh, định hướng các cơ quan báo chí tuân thủ đúng tôn chỉ, mục đích, có nhiều
tin bài phản ánh các nhiệm vụ chính trị của đất nước, kịp thời động viên các
tầng lớp nhân dân thực hiện tốt đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, đấu
tranh chống tiêu cực, tham nhũng.
Các chương
trình phát thanh truyền hình được thực hiện ổn định, đảm bảo thông tin nhanh,
kịp thời và nâng cao chất lượng tuyên truyền trên các hệ chương trình phát
thanh và các kênh truyền hình. Ước đến hết năm 2012 đạt 100% số hộ có thể nghe
ổn định ít nhất một hệ phát thanh của Đài Tiếng nói Việt Nam; 99,5% số hộ có
thể xem được Đài Truyền hình Việt Nam. Tuy nhiên, cần hạn chế xu hướng phát
triển quá nhiều truyền hình của các Bộ, ngành.
Ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý, chỉ
đạo, điều hành cũng như trong công tác chuyên môn ở các cơ quan nhà nước đã
từng bước đổi mới, rút ngắn khoảng cách, thời gian và nâng cao chất lượng phục
vụ của cơ quan nhà nước đối với người dân và doanh nghiệp; tạo tiền đề quan
trọng cho việc phát triển Chính phủ điện tử trong giai đoạn tiếp theo. Một số
ứng dụng công nghệ thông tin cơ bản trong nội bộ cơ quan nhà nước đã được
triển khai, phát huy hiệu quả rõ rệt. Tính đến nay tất cả 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
đã có trang/cổng thông tin điện tử, 21/22 Bộ, cơ quan ngang Bộ đã có trang/cổng
thông tin điện tử[7].
Với những
diễn biến về kinh tế thế giới và trong nước thời gian qua và triển vọng sắp
tới, có thể thấy áp lực là rất lớn để có thể đạt được những mục tiêu Nghị quyết
của Quốc hội và Nghị quyết của Chính phủ đã đề ra trong năm 2012.
Tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng trong những tháng cuối
năm 2012 có thể sẽ cao hơn so với đầu năm do giá thế giới và giá một số đầu vào,
giá dịch vụ,... tăng lên và những hậu quả do thiên tai, bão lũ gây ra. Tuy
nhiên, chỉ số giá tiêu dùng cả năm 2012 dự báo sẽ được kiềm chế ở mức khoảng 8%.
Tổng thu cân đối ngân
sách nhà nước năm 2012 ước đạt 741,5 nghìn tỷ đồng, tăng 0,14% so với dự
toán, tăng 5,3% so với năm 2011. Tổng chi cân
đối NSNN năm 2012 ước đạt 904,1 nghìn
tỷ đồng, tăng 0,11% so với dự toán, tăng 14,6% so với năm 2011. Bội chi ngân
sách nhà nước bằng 4,8% GDP.
Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội năm
2012 ước thực hiện chỉ đạt 870 nghìn tỷ đồng, bằng 29,5% GDP, (năm 2011 là 34,6%);
trong đó: vốn đầu tư từ NSNN là 187,5 nghìn tỷ đồng, vốn trái phiếu chính phủ
là 45 nghìn tỷ đồng, vốn tín dụng đầu tư của nhà nước là 50 nghìn tỷ đồng, vốn đầu
tư của doanh nghiệp nhà nước là 75 nghìn tỷ đồng, vốn đầu tư của dân cư và tư
nhân là 310 nghìn tỷ đồng, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là 183 nghìn
tỷ đồng.
Về xuất nhập
khẩu:
- Tổng kim
ngạch xuất khẩu năm 2012 có thể đạt
khoảng 113 tỷ USD, tăng 16,6% so với năm 2011, vượt chỉ tiêu kế hoạch Quốc hội
đề ra nhưng thấp hơn nhiều so với tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu của năm 2011
(tăng 34,2% so với năm 2010), chủ yếu do ảnh hưởng suy thoái và phục hồi chậm
của kinh tế thế giới, nhất là ở các nước phát triển dẫn tới nhu cầu của thị
trường giảm sút và sự giảm sút của giá xuất khẩu,... Tổng kim
ngạch nhập khẩu ước đạt
114 tỷ USD, chỉ tăng 6,8% so với năm 2011. Tuy nhiên, việc giảm mạnh nhập khẩu
vật tư, thiết bị,… sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến đầu tư và tăng trưởng kinh tế
trong thời gian tới. Ước nhập siêu cả năm 2012 khoảng 1 tỷ USD, chiếm 0,9% tổng kim ngạch
xuất khẩu.
- Xuất khẩu
dịch vụ năm 2012 ước đạt 9,3 tỷ USD, tăng 4,74% so với năm 2011, đạt kế hoạch
đề ra. Nhập khẩu dịch vụ ước khoảng 12,5 tỷ USD, tăng 5,41% so với năm 2011; thâm hụt cán cân
xuất nhập khẩu dịch vụ là 3,2 tỷ USD.
Về tăng trưởng kinh tế và phát triển các ngành sản xuất,
kinh doanh:
- Nhờ thực hiện các chính sách hỗ trợ sản xuất, như giãn
thuế, giảm lãi suất,... sản xuất công
nghiệp tiếp tục có những cải thiện và tăng trưởng khá hơn trong các tháng
cuối năm. Dự báo chỉ số sản xuất công nghiệp năm 2012 tăng 5,3% so với năm 2011.
Tuy nhiên, so với mục tiêu kế hoạch đề ra mới đạt 60% kế hoạch năm 2012 là tăng
8,5-9%.
- Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản trong những tháng cuối năm được dự báo tiếp tục phát
triển ổn định. Sản xuất lương thực có thể tiếp tục được mùa lớn; đời sống nông dân cơ
bản ổn định tạo điều kiện để ổn định trật tự xã hội ở nông thôn. Ước giá trị sản xuất cả năm 2012 tăng khoảng
3,9% so năm trước;
trong đó nông nghiệp tăng khoảng
3,2%,
lâm nghiệp tăng khoảng
6,2%,
thuỷ sản tăng khoảng 5,9%.
- Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch
vụ năm 2012 ước tăng 18% so với năm 2011.
Với xu hướng
phát triển các ngành, lĩnh vực như trên, dự báo tốc độ tăng trưởng tổng sản
phẩm trong nước (GDP) quý IV đạt cao hơn 3 quý đầu năm và cả năm ước tăng
khoảng 5,2% (kế hoạch là 6-6,5%), trong đó: giá trị tăng thêm khu vực nông, lâm
nghiệp và thuỷ sản tăng 2,6%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 5%; khu vực dịch
vụ tăng 6,3%. Tốc độ tăng trưởng kinh tế mặc dù không đạt kế hoạch đề ra, nhưng
xét về động thái đang có chuyển biến tích cực, tạo điều kiện cho nền kinh tế phát
triển ổn định trong các năm sau.
Về các lĩnh
vực xã hội và môi trường:
- Dự kiến cả
năm 2012 giải quyết việc làm cho 1,515 triệu lao động, không đạt kế hoạch đề ra
là 1,6 triệu lao động. Trong đó tạo việc làm trong nước cho 1,435 triệu lao
động, đưa 8 vạn lao động đi làm việc tại nước ngoài, đạt 94,4% kế hoạch năm. Dự
kiến tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi khu vực thành thị năm 2012 là
3,63%, tuy đạt kế hoạch đề ra nhưng tăng nhẹ so với năm 2011 (3,6%).
- Tỷ lệ hộ
nghèo cả nước tính đến cuối năm 2012 ước còn 10%, giảm 1,76% so với
cuối năm 2011. Tuy không đạt kế hoạch đề ra là giảm 2% so với cuối năm 2011[8] nhưng
đây là một cố gắng lớn của các cấp, các ngành, nhất là vùng đồng bào dân tộc.
- Tổng số khu công nghiệp, khu chế xuất đã vận hành có hệ
thống xử lý nước thải tập trung là 124 khu, chiếm 70% tổng số khu công nghiệp
đã vận hành, đạt kế hoạch đề ra.
- Tỷ lệ che phủ rừng năm 2012 ước đạt 40%, không đạt kế
hoạch đề ra (41%) do tỷ lệ che phủ rừng năm 2011 được đánh giá lại chỉ đạt
39,7% (giảm so với số ước tháng 10/2011 là 40,5%), ngoài ra việc chuyển đổi đất
rừng sang trồng cây công nghiệp ở Tây Nguyên, tích nước các hồ thuỷ điện, nạn
phá rừng và tình trạng cháy rừng tại một số địa phương cũng là yếu tố ảnh hưởng
đến việc chỉ tiêu này không đạt kế hoạch đề ra.
Dưới
đây là ước thực hiện các chỉ tiêu Nghị quyết Quốc hội đề ra:
STT
|
Chỉ tiêu
|
Đơn vị
|
Chỉ tiêu
Quốc hội
|
Ước thực hiện năm 2012
|
1.
|
Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước
(GDP)
|
%
|
6-6,5
|
5,2
|
2.
|
Tốc độ tăng tổng kim ngạch xuất khẩu
|
%
|
13
|
16,6
|
3.
|
Tỷ lệ nhập siêu
so với
tổng kim ngạch xuất khẩu
|
%
|
11-12
|
0,9
|
4.
|
Bội chi ngân sách nhà nước so với GDP
|
%
|
4,8
|
4,8
|
5.
|
Tỷ lệ tổng vốn đầu tư phát triển toàn
xã hội so với GDP
|
%
|
~33,5
|
29,5
|
6.
|
Chỉ số giá tiêu dùng
|
%
|
<10
|
~8
|
7.
|
Tạo việc làm
|
Triệu người
|
1,6
|
1,515
|
8.
|
Tỷ lệ lao động đang làm việc trong nền
kinh tế đã qua đào tạo
|
%
|
46
|
46
|
9.
|
Tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong
độ tuổi khu vực thành thị
|
%
|
~4
|
3,63
|
10.
|
Tỷ lệ hộ nghèo giảm
Riêng
các huyện nghèo giảm
|
%
%
|
2
4
|
1,76
4
|
11.
|
Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh
dưỡng
|
%
|
16,6
|
16,3
|
12.
|
Số giường bệnh trên 1 vạn dân (không
tính giường trạm y tế xã)
|
Giường bệnh
|
21,5
|
21,5
|
13.
|
Tỷ lệ cơ sở gây ô nhiễm môi trường
nghiêm trọng theo Quyết định số 64/2003/QĐ-TTg được xử lý
|
%
|
79
|
83,6
|
14.
|
Tỷ lệ khu công nghiệp, khu chế xuất
đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi
trường
|
%
|
70
|
70
|
15.
|
Tỷ lệ che phủ
rừng
|
%
|
41
|
40
|
Như vậy, trong tổng số 15 chỉ tiêu Nghị quyết Quốc
hội đề ra trong kế hoạch năm 2012, dự kiến có 5 chỉ tiêu không đạt kế hoạch là
tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước
(GDP), tỷ lệ tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội so với GDP, tạo việc
làm, mức giảm tỷ lệ hộ nghèo và tỷ lệ che phủ rừng; 10 chỉ tiêu còn lại đều có
triển vọng đạt và vượt kế hoạch.
Trên cơ sở tình hình 9 tháng đầu
năm và dự báo quý 4, đánh giá tổng quát tình hình kinh tế - xã hội năm 2012 như
sau:
Trong năm qua, quán triệt các
Nghị quyết của Trung ương, Bộ Chính trị, Quốc hội và của Chính phủ, các cấp,
các ngành đã có nhiều nỗ lực phấn đấu và đã đạt được những kết quả nhất định.
Tình hình kinh tế - xã hội đã có những chuyển biến tích cực, đúng hướng. Các
giải pháp kiềm chế lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô đã tiếp tục phát huy hiệu
quả. Lãi suất tín dụng giảm, cơ cấu tín dụng có chuyển biến theo hướng tăng tín
dụng cho nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, doanh nghiệp nhỏ và vừa, công
nghiệp phụ trợ. Tỷ giá cơ bản ổn định, dự trữ ngoại hối tăng; kim ngạch xuất
khẩu tăng cao hơn so với chỉ tiêu kế hoạch. Sản xuất nông nghiệp phát triển ổn định, đạt được kết quả tốt; sản xuất công nghiệp có dấu hiệu phục hồi, khó
khăn trong sản xuất, kinh doanh từng bước được tháo gỡ, chỉ số tồn kho giảm
dần; khu vực dịch vụ tiếp tục phát triển. Tiến độ giải ngân vốn đầu tư từ ngân
sách nhà nước và trái phiếu Chính phủ được đẩy nhanh; vốn ODA giải ngân tăng
cao hơn so với cùng kỳ. Các đề án tái cấu trúc nền kinh tế, thực hiện 3 đột phá
chiến lược được chú trọng xây dựng và bước đầu triển khai thực hiện. An sinh xã
hội cơ bản được bảo đảm. Các lĩnh vực giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ, y
tế, văn hoá, thể thao, thông tin truyền thông đạt được một số kết quả. Quốc
phòng, an ninh được tăng cường, chính trị - xã hội ổn định. Trật tự an toàn xã
hội được bảo đảm, tai nạn giao thông giảm. Công tác đối ngoại tiếp tục được
quan tâm đẩy mạnh.
Bên cạnh những kết quả đạt được nêu trên, tình hình kinh
tế xã hội vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế: Kinh tế vĩ mô chưa thật ổn định; kết
quả kiềm chế lạm phát chưa vững chắc. 5 chỉ tiêu kinh tế - xã hội cơ bản có
nhiều khả năng không đạt kế hoạch. Tổng dư nợ tín dụng tăng thấp hơn nhiều so
với mục tiêu đề ra và chênh lệch lớn so với tốc độ tăng huy động vốn; tình
trạng nợ xấu của hệ thống ngân hàng chậm được giải quyết. Thị trường bất động
sản đình trệ chưa có khả năng phục hồi, tiềm ẩn nhiều rủi ro. Khu vực doanh
nghiệp còn gặp nhiều khó khăn, nhất là khó vay vốn tín dụng, số doanh nghiệp
giải thể, ngừng hoạt động vẫn tăng; sản xuất, kinh doanh phục hồi chậm; sức mua
của thị trường trong nước thấp, tồn kho của một số ngành còn ở mức cao. Tổng
vốn đầu tư phát triển toàn xã hội đạt thấp so với kế hoạch đề ra. Việc làm, đời
sống của một bộ phận nhân dân còn nhiều khó khăn. Lĩnh vực giáo dục đào tạo, y
tế chưa có sự chuyển biến căn bản. Tai nạn giao thông đã giảm nhưng vẫn còn ở
mức cao. Tình trạng khiếu kiện, tội phạm và các tệ nạn xã hội còn diễn biến
phức tạp.
Những tồn tại, hạn chế nêu trên do nhiều nguyên nhân khác
nhau. Về những nguyên nhân
khách quan, sự suy thoái và chậm phục hồi của kinh tế thế giới, khủng hoảng nợ
công của các nước phát triển ở Châu Âu, những bất ổn chính trị ở Trung Đông và
Bắc Phi, giá dầu thô tăng cao, thị trường thu hẹp vừa ảnh hưởng đến xuất khẩu
của nước ta đồng thời tác động tăng giá đầu vào của sản xuất trong nước, tác
động tiêu cực đến đầu tư, sản xuất kinh doanh, gây áp lực lớn đến mặt bằng giá.
Ở trong nước, trước sức ép của giá nhập khẩu, phải điều chỉnh giá các đầu vào
quan trọng như xăng dầu, điện và các vật tư chủ yếu khác. Bên cạnh đó, để thực
hiện chủ trương ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô đòi hỏi phải
thắt chặt tiền tệ, lãi suất các tháng gần đây đã giảm xuống nhưng vẫn còn cao,
doanh nghiệp khó tiếp cận được nguồn vốn tín dụng, ảnh hưởng đến sản xuất, việc
làm và thu nhập của người lao động.
Về nguyên nhân chủ quan, việc tái cơ cấu nền kinh tế kết
hợp chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế triển khai chậm, mới ở bước khởi
đầu; một số chủ trương, chính sách hỗ trợ sản xuất kinh doanh chậm triển khai;
nhiều chương trình, đề án lớn đề ra nhưng chưa cân đối được nguồn lực; những
yếu kém của bộ máy quản lý nhà nước các cấp trong tổ chức, triển khai thực hiện
chính sách thiếu đồng bộ; việc chấp hành chính sách, pháp luật, kỷ luật, kỷ
cương không được thực hiện nghiêm nhưng chưa được xử lý triệt để, làm giảm hiệu
lực của pháp luật và hiệu quả của bộ máy quản lý nhà nước; tình trạng sách
nhiễu, lợi dụng chức quyền, tham nhũng,... trong bộ máy nhà nước còn diễn biến
phức tạp, ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện các mục tiêu kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội đã đề ra.
Qua đánh giá tình hình và kết quả thực hiện những tháng đầu năm, trong những tháng cuối năm phải tập trung chỉ đạo thực hiện các mục tiêu, chỉ tiêu đã đề ra cho năm 2012: chủ động điều hành kiềm chế lạm phát khoảng 8%, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm
tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý và bảo đảm thực hiện các mục tiêu an sinh xã hội.
Để đạt được các mục tiêu đó cần tiếp tục triển khai đồng bộ, quyết liệt và có hiệu quả các giải pháp, chính sách đề ra trong Nghị quyết số 01/NQ-CP, Nghị quyết số 13/NQ-CP và các Nghị quyết phiên họp Chính phủ thường kỳ, tập trung vào thực hiện tốt các nhóm giải pháp
chủ yếu sau đây:
1. Tập trung tháo gỡ khó khăn hỗ trợ sản xuất kinh doanh theo tinh thần Nghị
quyết số 13/NQ-CP, tạo điều kiện thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh, tăng
sức mua, đẩy mạnh tiêu thụ hàng hóa nhưng không làm bất ổn kinh tế vĩ mô và lạm
phát cao trở lại.
Rà soát các chính sách liên quan đến
môi trường đầu tư để tháo gỡ khó khăn, tạo mọi điều
kiện thuận lợi để khuyến khích sản xuất đối với các lĩnh vực, sản phẩm có lợi
thế, nhất là trong các lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp chế biến, công nghiệp
hỗ trợ, các hoạt động dịch vụ, du lịch chất lượng cao. Kiểm soát chặt chẽ các loại giá,
phí ảnh hưởng hoặc trực tiếp làm tăng chi phí đầu vào của sản phẩm. Thực hành
tiết kiệm triệt để, giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành, tăng khả năng cạnh
tranh của sản phẩm.
Triển khai hiệu quả chính sách cấp bách hỗ trợ sản
xuất chăn nuôi và nuôi trồng thuỷ sản; kiểm soát chặt chẽ việc sử dụng chất cấm
trong chăn nuôi, phòng chống dịch bệnh, chống buôn lậu gia súc, gia cầm qua
biên giới; bảo đảm cung ứng thực phẩm phục vụ nhu cầu dịp Tết nguyên đán; xây
dựng phương thức hỗ trợ thu mua nông sản, thuỷ sản đảm bảo lợi ích của người
sản xuất; đẩy mạnh việc phát triển kho dự trữ lúa gạo tại Đồng bằng Sông Cửu
Long để nâng cao hiệu quả xuất khẩu gạo, điều tiết thị trường.
Triển khai các chương trình khuyến mại, kích thích tiêu thụ và tiêu dùng;
phát triển thị trường trong nước, khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp tích
cực đưa hàng về nông thôn; hỗ trợ các doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm, giảm hàng
tồn kho. Tiếp tục nhấn mạnh nhóm biện pháp thông tin tuyên truyền, nhất là chủ
trương “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”.
Nâng cao chất lượng
xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường, đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu, nhất
là các mặt hàng sản xuất từ nguyên liệu trong nước. Thực hiện các biện pháp để duy trì đà tăng trưởng cao của các mặt hàng
xuất khẩu chủ lực, có đóng góp quan trọng thực hiện kế hoạch xuất khẩu, tạo
nhiều việc làm như: gạo, cà phê, hải sản, cao su, dệt may, giầy dép, hàng điện
tử, máy tính, điện thoại và linh kiện,… Nâng cao chất lượng để tăng giá
trị với nhóm hàng sản xuất truyền thống (đặc biệt là nông, lâm, thuỷ sản) không
có điều kiện tăng nhiều về khối lượng. Bằng
nhiều biện pháp linh hoạt tranh thủ sự phục hồi từng bước của các thị trường
chính, như: Hoa Kỳ, Nhật Bản, Liên minh Châu Âu để tăng kim ngạch xuất
khẩu. Khai thác chiều sâu, chiều rộng thị trường truyền thống cùng với thị
trường có chung biên giới. Đẩy mạnh công tác thông tin, dự báo với thị trường
ngoài nước, sớm phát hiện và có biện pháp vượt qua các rào cản kỹ thuật. Xác
định mức độ ưu tiên tiếp cận ngoại tệ đối với các nhóm hàng không thiết yếu,
không khuyến khích nhập khẩu, hàng trong nước sản xuất được, đưa ra quy định,
nguyên tắc khi cho vay nhập khẩu. Xây dựng cơ chế chính sách cụ thể để một mặt
thúc đẩy hoạt động xuất khẩu, mặt khác kiểm soát chặt chẽ nhập khẩu, trong đó
chú trọng về các tiêu chuẩn kỹ thuật, vệ sinh, an toàn cho người tiêu dùng.
Các bộ, cơ quan, địa phương chủ động tiếp xúc, động viên, đôn đốc các doanh
nghiệp thực hiện kế hoạch sản xuất, kinh doanh, nhất là doanh nghiệp dân doanh,
doanh nghiệp nước ngoài; lắng nghe các phản ứng về chính sách để kịp thời có cơ
chế khuyến khích, hỗ trợ phù hợp.
2.1. Chính sách tiền tệ, tín dụng:
Theo dõi chặt chẽ những diễn biến
mới xuất hiện trong những tháng cuối năm 2012 để kịp thời điều chỉnh, xử lý
những tình huống phát sinh, đảm bảo an toàn hệ thống ngân hàng và các tổ chức
tín dụng.
Điều hành chủ động, linh hoạt, hiệu
quả các công cụ chính sách tiền tệ để vừa thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát, vừa
phải hỗ trợ tăng trưởng kinh tế. Làm rõ bản chất nợ xấu; thực hiện phương án
tạm khoanh nợ và xử lý nợ
xấu. Áp dụng cơ chế linh hoạt để tăng khả năng tiếp cận vốn tín dụng của doanh
nghiệp, nhất là về điều kiện, thủ tục vay. Tăng hạn mức cấp tín dụng cho khu
vực nông nghiệp, nông thôn với mức lãi suất thấp. Xây dựng phương án cung ứng
tín dụng để bình ổn giá lương thực, thực phẩm trong dịp cuối năm. Thanh tra, giám sát việc áp dụng lãi suất cho vay
và việc thực hiện chính sách cho vay lãi suất thấp đối với các lĩnh vực ưu tiên;
kiểm soát tỷ trọng dư nợ cho vay đối với các lĩnh vực không khuyến khích. Tiếp
tục theo dõi sát diễn biến thị trường để có các biện pháp điều hành tỷ giá linh
hoạt phù hợp với các cân đối vĩ mô.
2.2. Chính sách tài khóa và đầu tư phát triển:
Thực hiện chính sách tài khóa một cách hợp lý, phối hợp
chặt chẽ, hiệu quả với chính sách tiền tệ, tín dụng. Tăng cường công tác nghiệp
vụ quản lý thu ngân sách, bảo đảm hoàn thành dự toán thu; giữ mức bội chi ngân
sách theo kế hoạch đề ra.
Thực hiện miễn, giảm, gia hạn một số khoản thu ngân sách
nhà nước theo Nghị quyết của Quốc hội và Nghị quyết số 13/NQ-CP của Chính phủ.
Đẩy nhanh việc thực hiện và giải ngân đối với các
dự án sử dụng vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước, vốn trái phiếu Chính phủ, vốn
chương trình mục tiêu quốc gia. Thực hiện tốt công tác đền bù, giải phóng mặt
bằng; bố trí đủ vốn đối ứng cho các dự án ODA, đặc biệt là các dự án lớn nhằm
đẩy nhanh tiến độ thực hiện.
Thúc đẩy thu hút, giải ngân vốn ODA, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, trong
đó chú trọng thu hút làn sóng đầu tư mới, quy mô lớn, công nghệ cao. Cải thiện
chính sách thuế; rà soát, sửa đổi hoặc xoá bỏ các rào cản đầu tư bất hợp lý,
tạo điều kiện thuận lợi về hạ tầng, mặt bằng, nguồn nhân lực, thủ tục hành
chính,… để khuyến khích mở rộng đầu tư các doanh nghiệp FDI hoạt động sản xuất
kinh doanh có hiệu quả tại Việt Nam. Tích cực xúc tiến đầu tư, có biện pháp
thúc đẩy thu hút các dòng đầu tư của Nhật Bản, Hàn Quốc vào nước ta.
2.3. Kiểm soát giá cả:
Tăng cường kiểm
soát các yếu tố hình thành giá và việc xác định giá bán các mặt hàng thiết yếu
cho sản xuất và đời sống; triển khai quyết liệt các biện pháp kiểm tra, kiểm
soát việc tuân thủ thực hiện nghiêm quy định về đăng ký giá, niêm yết giá và
bán theo giá niêm yết; xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh
vực giá.
Kiểm soát chặt chẽ
các loại giá, phí của các hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng thiết yếu như y tế, giáo
dục, nước sinh hoạt, cước vận tải, sữa, thuốc chữa bệnh cho người, thuốc bảo vệ
động, thực vật, phân bón,... và giá cả các loại hàng hóa là nguyên vật liệu đầu
vào của sản xuất. Giãn thời gian điều chỉnh giá một số hàng hóa và dịch vụ do
Nhà nước định giá, kiểm soát như: giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh; giá dịch vụ
giáo dục (học phí); giá nước sạch sinh hoạt; giá cước xe buýt được Nhà nước trợ
giá. Đồng thời phải xây dựng phương án, lộ trình điều chỉnh trên cơ sở đánh giá
kỹ tác động của việc điều chỉnh giá đến sản xuất và đời sống nhân dân để hạn
chế thấp nhất tác động xấu đến sản xuất và đời sống nhân dân, cũng như việc
thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô.
Ngăn chặn và xử lý
nghiêm tình trạng buôn lậu, nhất là hàng hóa giá rẻ kém chất lượng, hàng giả,
hàng không đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm. Thắt chặt công tác quản lý, kiểm
tra thị trường, xử lý nghiêm tình trạng đầu cơ, găm hàng gây sốt giá ảo; bảo đảm chất lượng
và giá cả các mặt hàng thiết yếu, nhất là giá sữa, giá thuốc chữa bệnh cho
người, thuốc bảo vệ động, thực vật, phân bón,... và giá cả nguyên vật liệu là
đầu vào cho hoạt động sản xuất.
Thực hiện các biện pháp tạo việc làm, tăng thu nhập cho
người lao động. Đặc biệt chú trọng đối với lao động mất việc làm từ các doanh
nghiệp giải thể, ngừng hoạt động, nhất là ở khu vực công nghiệp tập trung, hộ
gia đình thuộc diện giải tỏa, thu hồi đất sản xuất. Thực hiện bảo hiểm thất nghiệp, kiểm soát chặt chẽ việc chi trả bảo
hiểm thất nghiệp nhằm đảm bảo tính công bằng và an toàn của quỹ.
Đẩy mạnh các giải pháp hỗ trợ giảm
nghèo nhanh và bền vững đối với các huyện nghèo, các xã, thôn, bản đặc biệt khó
khăn, vùng sâu, vùng xa, vùng bị thiên tai; hỗ trợ kịp thời, không để xảy ra
tình trạng người dân thiếu đói; tập trung nguồn lực thực hiện hiệu quả, đúng
tiến độ Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2011 -
2015. Tăng cường các biện pháp kiểm tra, kiểm soát để nâng cao hiệu quả các
chính sách an sinh xã hội, hỗ trợ cho người nghèo, vùng chịu thiên tai,...
Triển khai thực hiện chính sách đối
với người có công; hỗ trợ xây mới, sửa chữa, nâng cấp nhà cho người có công với
cách mạng.
Tăng cường công tác thanh tra, kiểm
tra, phòng chống dịch bệnh, bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm.
Xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm,
tham ô, trục lợi, lãng phí, thiếu trách nhiệm gây thiệt hại đến tài sản, lợi
ích của nhà nước, của doanh nghiệp và nhân dân.
[1] Trong đó: công nghiệp khai khoáng tăng 4%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 4,2%; sản xuất và phân phối điện, khí đốt tăng 12,8%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải,
nước thải tăng 8,4%.
[2]
So với tháng trước, chỉ số IIP tháng 6 tăng 2%, tháng 7 tăng
3,2%, tháng 8 tăng 4,1%, tháng 9 tăng 4,6%.
[3] Chỉ
số tồn kho tại thời điểm đầu các tháng năm 2012 so với cùng thời điểm năm trước
như sau: 01/3 tăng 34,9%; 01/4 tăng 32,1%; 01/5 tăng 29,4%; 01/6 tăng 26%; 01/7
tăng 21%; 01/8 tăng 20,8%.
[4] Các doanh
nghiệp đã giải thể hoặc dừng hoạt động tập trung chủ yếu ở các thành phố lớn,
trong đó: thành phố Hồ Chí Minh có 13.014 doanh nghiệp (1.921 đã giải thể,
11.093 dừng hoạt động), Hà Nội có 9.252 doanh nghiệp (1.192 đã giải thể, 8.060
dừng hoạt động), Hải Phòng có 1.010 doanh nghiệp (151 đã giải thể, 859 dừng
hoạt động), Đà Nẵng có 960 doanh nghiệp (154 đã giải thể, 806 dừng hoạt động).
Số doanh nghiệp phải giải thể hoặc dừng hoạt động trong
các lĩnh vực là: tài chính, ngân hàng và bảo hiểm có 247 doanh nghiệp, tăng
61,4%; nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản có 1.027 doanh nghiệp, tăng 24%;
dịch vụ lưu trú và ăn uống có 2.063 doanh nghiệp, tăng 26,7%; lĩnh vực khoa
học, công nghệ, tư vấn thiết kế, quảng cáo và chuyên môn khác có 1.535 doanh
nghiệp, tăng 30,7% so với cùng kỳ năm 2011.
[5] Số giường bệnh trên một vạn dân đạt 21,5, đạt chỉ tiêu Quốc hội đề ra;
45% số xã đạt chuẩn quốc gia về y tế theo chuẩn mới; 74% số xã có bác sỹ; số
bác sỹ trên một vạn dân là 7,4 bác sỹ
[6] Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng là 16,3 vượt chỉ tiêu Quốc hội
giao (16,6%), tỷ lệ tử vong của bà mẹ giảm xuống còn 64/100.000 ca đẻ sống, tỷ
suất chết trẻ em dưới 1 tuổi là 15,2%, tỷ lệ trẻ em dưới 1 tuổi tiêm đầy đủ 7
loại văcxin đạt trên 90%.
[8]
Theo kết quả tổng hợp từ dự thảo kế hoạch năm 2013 của 63 tỉnh thành phố, mức
giảm tỷ lệ hộ nghèo năm 2012 ước đạt 1,97%; theo ước tính của Tổng cục Thống kê
có cập nhật CPI vào chuẩn nghèo thì tỷ lệ hộ nghèo từ 12,6% xống còn
11,1-11,3%, tức giảm 1,3-1,5% so với chuẩn năm 2011.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét