Tác động từ chính sách thuế quan của Trump đối với Trung Quốc
Nguồn: James Palmer, “What Trump’s Tariffs Will Mean for China,” Foreign Policy, 26/11/2024. Biên dịch: Tạ Kiều TrangKhi Tổng thống đắc cử Mỹ Donald Trump đưa ra những lời đe doạ mới, Bắc Kinh cũng đã sẵn sàng để đối phó với sự thay đổi.
Vào thứ Hai, Tổng thống đắc cử Mỹ Donald Trump đã đe doạ sẽ áp đặt thuế quan mới lên Trung Quốc (10%) cũng như Canada và Mexico (tổng cộng 25%) – điều này được ông lý giải là một nỗ lực để đối phó với nạn nhập cư bất hợp pháp và “Tội phạm và Ma túy”, như ông đã viết trong một bài đăng trên mạng xã hội Truth Social. Về lý thuyết, Trump không có thẩm quyền để trực tiếp áp đặt thuế quan, nhưng trước đây ông đã từng dựa vào các luật hiện hành cho phép tổng thống tự quyết định thực hiện điều đó.
Trong trường hợp áp thuế lên Trung Quốc, việc này bao gồm Điều 301 của Đạo luật Thương mại 1974. Tuy nhiên, việc áp dụng Điều 301 yêu cầu một cuộc điều tra sơ bộ và thường mất nhiều thời gian. Lần này, Trump có thể sẽ đổi sang các biện pháp khác.
Dù vậy, Trump cũng thường nói mà không làm. Vào năm 2016, Trump vận động tranh cử bằng cam kết xây dựng “Bức tường biên giới”, nhưng trong nhiệm kỳ đầu tiên, chỉ có 49 dặm tường mới được xây dựng dọc biên giới phía Nam. Với đe dọa thuế quan lần này, Trump có lẽ hy vọng sẽ làm các nước bị đe dọa sẽ nhượng bộ, từ đó giúp ông giành được một chiến thắng chính trị tượng trưng.
Nhưng điều này khó mà hiệu quả với Trung Quốc, nơi các nhà lãnh đạo chính trị ghét nhất việc bị chỉ đạo phải xử lí các vấn đề nội bộ như thế nào – trong trường hợp này là việc sản xuất và buôn bán các loại tiền chất dùng trong sản xuất fentanyl. Về phía Bắc Kinh, họ khẳng định đã thực hiện đủ các biện pháp chống lại nạn buôn bán fentanyl và cho rằng Washington đang đổ tội cho Trung Quốc.
Dù sao thì các đòn thuế quan đối với Trung Quốc – cho dù là 60% như Trump hứa trong chiến dịch tranh cử, thêm 10% như vừa hay trong tuần qua, hay một con số thấp hơn – có vẻ rất có khả năng xảy ra. Khác với các đe doạ áp đặt thuế đối với Mexico hay Canada, sự cạnh tranh giữa Mỹ và Trung Quốc hiện được coi là điều đương nhiên trong đảng Cộng hòa (cũng như phần lớn trong đảng Dân chủ).
Phản ứng của Trung Quốc đối với bất kỳ đòn thuế nào cũng sẽ rất đa dạng, mặc dù chúng sẽ phụ thuộc vào mức độ thuế quan được áp dụng. Như Scott Kennedy viết trên tờ Foreign Policy, công cụ cho các biện pháp hạn chế thương mại và trừng phạt của Bắc Kinh đã trở nên phong phú hơn trong những năm qua. Mặc dù thị trường Trung Quốc không mở cửa cho hàng hóa Mỹ như thị trường Mỹ mở cửa cho hàng Trung Quốc, nhưng các doanh nghiệp Mỹ có thể sẽ rất bất ngờ về mức độ “khép kín” mà thị trường Trung Quốc có thể làm được.
Công chúng Trung Quốc có thể không còn sẵn lòng “nuốt đắng” vấn đề này dù giới lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) tin rằng họ sẽ làm vậy. Kể từ năm 2020, người tiêu dùng Trung Quốc đã phải trải qua nhiều khó khăn; nếu bị tách biệt với thế giới hơn nữa, việc này có thể thực sự gây tổn thất. Các công ty Trung Quốc sẽ tìm cách chuyển sản xuất sang các nước gần Trung Quốc hơn, hoặc sẽ tận dụng việc chuyển hàng qua một nước thứ ba để tránh các rào cản thương mại.
Về mặt lý thuyết, Mỹ áp dụng một hệ tiêu chí kiểm tra nghiêm ngặt để xác định xuất xứ của hàng hóa khi có nhiều nhà cung cấp trong chuỗi sản xuất. Tuy nhiên, trên thực tế, các công ty có thể né thuế thông qua những lỗ hổng như miễn trừ thuế đối với hàng hoá có giá trị thấp (de minimis exemption) hoặc đơn giản là thay nhãn mác cho hàng hóa vốn sản xuất tại Trung Quốc. Một số quốc gia như Mexico đang cố gắng tránh bị vướng vào cuộc chiến thương mại này.
Một số nước láng giềng của Trung Quốc có thể là những người hưởng lợi lớn từ các đòn thuế của Mỹ. Việt Nam hiện đang có vị thế thuận lợi không chỉ để tiếp nhận sản xuất nước ngoài mà còn có thể đóng vai trò là kênh chuyển hàng tránh thuế cho Trung Quốc. Xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ đã tăng mạnh kể từ năm 2018 vào vòng thuế quan đầu tiên dưới thời Tổng thống Trump. Chi phí sản xuất tại Việt Nam cao hơn khoảng 7% so với Trung Quốc, nhưng vẫn là một lựa chọn hấp dẫn.
Trong sáu năm qua, dòng vốn Trung Quốc đã chảy mạnh vào Việt Nam – cũng như vốn của Mỹ dù con số có khiêm tốn hơn. Dĩ nhiên, Việt Nam có những giới hạn nhất định trong việc tiếp nhận lượng vốn này, nhưng với mối quan hệ êm ấm đến mức đáng ngạc nhiên với cả Trung Quốc và Mỹ, Việt Nam có thể sẽ sẽ là người hưởng lợi lớn từ tình hình này. Washington có vẻ sẽ không liều lĩnh làm tổn hại mối quan hệ tốt đẹp với Hà Nội bằng cách tiến hành các biện pháp truy quét quá quyết liệt đối với vấn đề né tránh thuế.
Một nước khác có thể “trúng mánh” là Kazakhstan – không phải với vai trò trung tâm sản xuất mà là điểm trung chuyển. Nhiều khoản đầu tư trực tiếp nước ngoài đổ vào Kazakhstan, nhưng phần lớn lại tập trung vào lĩnh vực năng lượng chứ không phải sản xuất. Nước này đã trở thành chuyên gia trong việc “lách” các lệnh trừng phạt đối với Nga, và sở hữu hạ tầng vận tải phát triển mạnh nhờ Sáng kiến Vành đai và Con đường của Trung Quốc, bao gồm cả cảng cạn (dry port) lớn nhất thế giới.
Nước thứ ba có thể hưởng lợi là Malaysia, nơi hiện đang thu hút các công ty đa quốc gia với chiến lược “Trung Quốc + 1,” tức là mở rộng lựa chọn sản xuất ra ngoài Trung Quốc. Các công ty logistics của Trung Quốc đã đầu tư mạnh vào Malaysia.
Tuy nhiên, đối với các công ty Trung Quốc, con đường đơn giản nhất để được miễn thuế có thể là tiếp cận trực tiếp với Trump. Dù có tuyên bố chống Trung Quốc, Trump đã cho thấy mình dễ bị ảnh hưởng bởi những nỗ lực vận động hành lang từ các doanh nghiệp Trung Quốc, như gã khổng lồ viễn thông ZTE. Với việc miễn thuế gần như chắc chắn cho những “gương mặt thân quen” như Tesla, các công ty tại các khu văn phòng điều hành ở Thượng Hải có thể sẽ đặt cược vào việc vận động hành lang tại Washington một cách kiên trì.
https://foreignpolicy.com/2024/11/26/china-trump-tariffs-economy-manufacturing/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét