TTCT - Là người tâm huyết với việc cải cách doanh
nghiệp nhà nước (DNNN) cũng như đúc kết nhiều kinh nghiệm trong đổi mới,
ông Trần Xuân Giá, nguyên bộ trưởng Bộ Kế hoạch - đầu tư, cho rằng cần
phải thống nhất quan điểm Nhà nước cần làm đúng vai trò của mình là chỉ
phục vụ xã hội, phục vụ toàn bộ sự nghiệp phát triển chứ không kinh
doanh.
Nếu không thống nhất quan điểm đó thì khó lòng giải
quyết được những hạn chế của việc đầu tư dàn trải, sử dụng vốn tràn lan
tại các DNNN như thời gian qua. Ông Giá nói:
Ông Trần Xuân Giá |
* Theo ông, Nhà nước nên làm gì để đúng vai trò của mình là phục vụ phát triển mà không kinh doanh?
- Nhiều người đến nay vẫn băn
khoăn là kinh tế nhà nước cần có mặt ở tất cả các ngành, các lĩnh vực
hay chỉ tập trung ở một số ngành then chốt? Thực chất đây là vấn đề phân
công lao động xã hội giữa các thành phần kinh tế.
Theo tôi, nguyên tắc chung là
trừ những khu vực đặc biệt, còn lại cái gì Nhà nước làm tốt nhất cho nền
kinh tế để Nhà nước làm; cái gì tập thể làm tốt nhất để tập thể làm;
cái gì tư nhân (cả trong và ngoài nước) làm tốt nhất để tư nhân làm. Nhà
nước chỉ cần và phải có mặt ở những nơi rất cần cho sự phát triển đất
nước mà tư nhân, tập thể không muốn hoặc không thể làm...
Theo tinh thần đó, với tư cách
là nhà đầu tư, Nhà nước kiên quyết giới hạn hoạt động của DNNN trong bốn
lĩnh vực sau: các ngành liên quan đến quốc phòng, an ninh; các ngành
cung cấp hàng hóa và dịch vụ thiết yếu cho nền kinh tế như giao thông,
thủy lợi, năng lượng... là những lĩnh vực then chốt, đồng thời tư nhân
không muốn hoặc không thể làm; những ngành công nghiệp công nghệ cao,
những ngành ứng dụng khoa học, công nghệ đầu nguồn; các ngành công
nghiệp độc quyền tự nhiên.
* Bộ Tài chính đặt ra mục tiêu
đến năm 2015 sẽ cổ phần hóa 573 doanh nghiệp để nâng cao hiệu quả của
DNNN. Ông có cho rằng trong bối cảnh kinh tế đang có nhiều khó khăn mà
tiến hành cổ phần hóa các DNNN thì sẽ gặp nhiều trở ngại?
- Tôi nghĩ khác. Không phải vì
vào những lúc khó khăn mà không tiến hành cổ phần hóa, ngược lại cần
phải đẩy nhanh công tác này. Bởi những lúc khó khăn là dịp để Nhà nước
dễ nhìn thấy nhất những mặt yếu kém cơ bản của cả hệ thống DNNN cũng như
từng doanh nghiệp cụ thể, để từ đó xác định lộ trình cổ phần hóa phù
hợp. Nhưng quan trọng hơn nữa là những nhà đầu tư căn cơ thường xác định
đầu tư cho tương lai, đầu tư dài hạn, biết chọn thời điểm tốt để đầu
tư.
Vào lúc khó khăn là thời cơ tốt
để họ đầu tư, để tìm mua doanh nghiệp hay mua dự án, công trình phù hợp
với định hướng kinh doanh, với chi phí mà họ có thể bỏ ra. Do vậy, thời
điểm này chính là lúc để tiến hành cổ phần hóa chứ không phải là khó
khăn như nhiều người nghĩ.
Bên cạnh các hình thức đang
làm, để sắp xếp DNNN cần áp dụng những hình thức đã đề ra từ những năm
đầu thập niên 1990, trong đó cần áp dụng hình thức bán hoặc cho thuê. Để
bán doanh nghiệp, bán dự án thì lúc bấy giờ, tư nhân hoặc còn e ngại
hoặc chưa có nhiều điều kiện để mua. Còn nay, nếu Nhà nước bán thì chắc
chắn có rất nhiều người mua. Tình hình đã hết sức khác, các nhà đầu tư
trong nước, ngoài nước đã có đủ điều kiện để có thể mua. Vì vậy, cần ban
hành các quy chế, chính sách để thực hiện việc bán DNNN, công trình, dự
án, kể cả những công trình, dự án đang xây dựng dở dang.
* Sau thua lỗ của Vinalines,
nhiều chuyên gia cho rằng việc quản lý và giám sát vốn nhà nước tại các
DNNN đang có một lỗ hổng rất lớn?
- Sự đổ vỡ hay sai phạm của
DNNN đã xảy ra, đang và sẽ xảy ra nếu không có sự thay đổi nhận thức về
quản trị, điều hành DNNN. Việc chuyển DNNN thành công ty trách nhiệm hữu
hạn một thành viên mà không hề thay đổi gì về quản trị, điều hành doanh
nghiệp, không hoạt động theo Luật doanh nghiệp một cách thực chất thì
đó vẫn chỉ dừng lại là bình mới rượu cũ mà thôi.
Từ ngày 1-7-2010 chúng ta đã
chuyển các DNNN thành công ty TNHH một thành viên mà chủ sở hữu là Nhà
nước. Thực tế gần hai năm qua cho thấy hình như không hề có thay đổi gì
về bản chất mà chỉ thay đổi mỗi cái tên. Toàn bộ việc quản trị, trong đó
có việc giám sát quản lý vốn DNNN, vẫn tiến hành như cũ. Do đó vẫn còn
nhiều điều bất ổn.
Còn nói về giám sát và quản lý
vốn, chỉ trừ các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực bí mật là quốc
phòng, an ninh, còn đã là doanh nghiệp cho dù to hay bé, cho dù niêm yết
hay chưa niêm yết đều phải công khai minh bạch toàn bộ hoạt động của
mình, nhất là cân đối tài chính như các công ty niêm yết, phải có kiểm
toán độc lập và công khai thông tin đều đặn như quy định. Đó là nguyên
tắc cơ bản của quản trị để bản thân doanh nghiệp phát triển lành mạnh,
ổn định. Chỉ trông chờ vào các cuộc thanh tra của các tổ chức chuyên
ngành, của hệ thống thanh tra Chính phủ, hệ thống giám sát của Quốc hội
để phát hiện những sai phạm của doanh nghiệp là rất không đủ.
* Ông có lo ngại gì nếu như việc công khai hoạt động kinh doanh của các DNNN còn tù mù như hiện nay?
- Nếu tồn tại như thế này, tôi cho rằng DNNN không bao giờ
làm được vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Theo tôi hiểu, để làm
được vai trò chủ đạo, DNNN phải giữ vai trò chủ đạo về năng suất, hiệu
quả; phải làm gương về ứng dụng khoa học để đẩy năng suất lên, phải đích
thị là công cụ trong tay Nhà nước để xử lý vấn đề kinh tế - xã hội khi
có những khó khăn, khủng hoảng. Trong khi thực tế lại không diễn ra như
vậy.
Theo số liệu thống kê, các năm 1988-1989 hay 2008-2009 khi
kinh tế khó khăn, kinh tế nhà nước tăng trưởng chậm hơn các thành phần
kinh tế ngoài nhà nước, tức là kinh tế nhà nước đã kéo lùi tăng trưởng
chứ không góp phần vượt qua khó khăn. Ví dụ, kinh tế khó khăn trong
những năm 1998-1999: GDP năm 1998 tăng 5,76% thì kinh tế nhà nước tăng
5,56%; còn năm 1999 GDP cả nước tăng 4,77% thì kinh tế nhà nước chỉ tăng
2,55%. Vào những năm 2008-2009 cũng có tình hình tương tự: 2008 GDP
tăng 6,18% thì kinh tế nhà nước tăng 4,22% và năm 2009 GDP cả nước tăng
5,32% thì kinh tế nhà nước chỉ tăng có 3,99%.
* Theo ông, trách nhiệm quản lý các DNNN nên thực hiện như thế nào?
- Hiện Bộ Tài chính quản lý về vốn, Bộ Kế hoạch - đầu tư
quản lý về đầu tư, bộ chuyên ngành quản lý kinh doanh... Hình như việc
quản lý các tập đoàn kinh tế, các tổng công ty lớn đang trong tình trạng
"cha chung không ai khóc".
Thật ra theo quy định hiện hành, các tập đoàn, tổng công ty
này trực thuộc Thủ tướng Chính phủ. Nhưng Thủ tướng lại phải làm hàng
đống việc đối nội, đối ngoại... mà các việc này đều hệ trọng hơn việc
quản lý các tập đoàn, tổng công ty. Do đó, tuy về danh nghĩa các tập
đoàn kinh tế, các tổng công ty lớn hiện nay "có cha", nhưng thật ra cũng
chỉ là "cha" hình thức.
Thế nên, tôi đã nhiều lần đề nghị thành lập một bộ thật
mạnh để quản lý DNNN. Vì vốn là tài sản của nhà nước, của toàn dân nên
cần thiết phải được quản lý tốt để nó phát triển. Việc sợ thêm bộ nữa
thì có thể sẽ cồng kềnh nhưng thấy cần thiết thì phải lập, sau này không
cần nữa thì rút gọn lại. Dĩ nhiên là mỗi phương án quản lý DNNN, quản
lý theo trách nhiệm của từng cơ quan như hiện nay hay thành lập một bộ
chuyên về quản lý DNNN, đều có mặt mạnh và mặt yếu, nhưng theo tôi,
thành lập bộ chuyên về quản lý DNNN có nhiều ưu điểm hơn cả...
* Xin cảm ơn ông!
LÊ THANH (thực hiện)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét