TT - Chắc chắn nhiều người sẽ bị “sốc”nặng nếu nhìn vào
bảng kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và ngân hàng thương
mại năm 2011 và bốn tháng đầu năm 2012.
Trong đó doanh nghiệp đang lỗ nặng, còn lợi nhuận của 71 ngân hàng vẫn tăng mạnh.
Đồ họa: VĨ CƯỜNG - Ảnh: THANH ĐẠM |
Đây chính là điều bất thường của nền kinh tế, nhiều chuyên gia cho rằng cần phải thay đổi cơ chế vận hành hiện nay...
Lãi 97.000 tỉ đồng
Dựa trên số liệu quản lý thuế của các doanh nghiệp
thuộc 63 cục thuế, căn cứ trên 256.000 tờ khai thuế thu nhập doanh
nghiệp, theo Tổng cục Thuế, tổng doanh thu của các doanh nghiệp là 7,5
triệu tỉ đồng, tuy nhiên tổng chi phí (gồm cả chi phí mua nguyên vật
liệu, nhân công...) đã lên tới 7,2 triệu tỉ đồng (chiếm 97% doanh thu).
Đáng lưu ý, trong tổng chi phí trên, riêng chi phí trả lãi vay đã lên
tới 466.000 tỉ đồng.
Điều đáng nói là tỉ lệ nghịch với chi phí của các doanh
nghiệp nêu trên, qua tổng hợp số liệu của 71 ngân hàng thương mại, Tổng
cục Thuế khẳng định thu nhập của các ngân hàng đã tăng rất... khủng.
"Tôi
đi thẩm định thấy mức chênh lệch giữa lãi suất huy động và cho vay chỉ
2,5-2,6% ngân hàng đã sống tốt rồi, nay mức chênh đến hơn 3% thì quá
mức"
Ông Nguyễn Đại Lai (nguyên phó vụ trưởng Vụ Chiến lược phát triển ngân hàng - Ngân hàng Nhà nước)
|
Đặc biệt, trong quý 1-2012, theo Tổng cục Thuế, khi có
tới 70% trong tổng số 258.000 doanh nghiệp khảo sát thua lỗ, với số lỗ
lên tới trên 40.000 tỉ đồng, thì các ngân hàng vẫn theo xu hướng lãi.
“Về cơ bản, các ngân hàng đều vẫn có doanh thu từ hoạt động kinh doanh
tín dụng với xu thế tăng cả về quy mô và tỉ lệ” - Tổng cục Thuế khẳng
định.
Cao như lương... ngân hàng
Cùng với mức thu nhập tăng, thông tin từ cơ quan thuế
cho biết trong khi kinh tế khó khăn, cắt giảm chi tiêu thì chi phí hoạt
động của các ngân hàng thương mại vẫn tăng đột biến, từ 54.000 tỉ năm
2010 tăng thêm tới trên 76.000 tỉ năm 2011. Trong đó, chi phí tiền lương
của ngân hàng tăng rất nhanh. Cụ thể, theo Vụ Quản lý thuế doanh nghiệp
lớn, thu nhập bình quân đầu người trong ngân hàng đã tăng từ 7 triệu
đồng/người/tháng năm 2007 lên 15-21 triệu đồng/người/tháng năm 2011, gấp
2-3 lần mức lương bình quân toàn nền kinh tế. “Nguyên nhân chủ yếu do
cơ chế chính sách tín dụng giúp các ngân hàng có mức lãi lớn thời gian
qua” - cơ quan thuế nhấn mạnh.
Các ngân hàng đã hạch toán chi phí tiền lương vào chi
phí hợp lệ, chiếm tới 55-60% chi phí hoạt động tài chính, góp phần giúp
các ngân hàng giảm thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp (trong khi các
doanh nghiệp khác năm 2011 phải dành 80% chi phí tài chính để trả lãi
vay). Do đó, “kiến nghị với Ngân hàng nhà nước có những quy định chặt
chẽ hơn về tiền lương, cần thiết có sự khống chế ở mức hợp lý đối với
lương được hạch toán vào chi phí sản xuất kinh doanh nhằm tạo bình đẳng
cho các thành phần kinh tế và tránh thất thu ngân sách nhà nước” - cơ
quan thuế kiến nghị.
Chênh lệch huy động và cho vay: 3,5-4,5%
Hầu hết lợi nhuận của ngân hàng đến từ lãi cho vay thu
được từ doanh nghiệp. Chênh lệch giữa lãi suất ngân hàng huy động của
dân và cho doanh nghiệp vay đã lên tới 3,5-4,5%. Trước thực trạng doanh
nghiệp lỗ, khó khăn trên diện rộng trong khi các ngân hàng lãi lớn,
trong báo cáo, Vụ Quản lý thuế doanh nghiệp lớn, Tổng cục Thuế kiến nghị
để kiểm soát tăng trưởng tín dụng, kiềm chế lạm phát, Ngân hàng Nhà
nước cần đảm bảo biện pháp giảm lãi suất đi vay và đem cho vay của các
ngân hàng từ mức 3,5-4,5% hiện tại xuống mức 2,2-2,5%.
Theo một quan chức Bộ Tài chính, một trong những nguyên
nhân các ngân hàng phải đưa mức chênh lệch giữa lãi suất huy động và
lãi suất cho vay cao là vì nợ xấu. Tuy nhiên, nghịch lý ở chỗ khi các
ngân hàng năng lực kém hoặc có “vấn đề” khi cho vay khiến phát sinh nợ
xấu, phải trích quỹ dự phòng thì họ sẽ tính tất cả rủi ro đó vào chi phí
kinh doanh. Các ngân hàng từ đó sẽ buộc phải đẩy mức lãi suất cao lên
và bắt tất cả các doanh nghiệp phải chịu. Như vậy là từ cái yếu kém của
vài doanh nghiệp mà tất cả nền kinh tế phải chịu chung mức lãi suất cao.
TS Nguyễn Đại Lai, nguyên phó vụ trưởng Vụ Chiến lược
phát triển ngân hàng (Ngân hàng Nhà nước), là người từng đi thẩm định
chi phí của các ngân hàng thương mại những năm trước đây - cho rằng cần
áp dụng mức chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động theo
một cách “có đạo lý” hơn. Theo ông Lai, các ngân hàng có thể đã làm vênh
các con số để đưa mức dự phòng rủi ro lên cao, đẩy lãi suất lên, trong
khi nếu quản trị tốt nguồn vốn đã có thể giảm rủi ro. Cụ thể, ông Lai
cho biết các ngân hàng luôn có dòng tiền về phục vụ thanh toán giữa các
doanh nghiệp. Nguồn tiền này gần như không thời hạn, lãi suất gần như
không có. “Vì vậy các ngân hàng VN cần tính toán để giảm chi phí, giảm
lãi suất”- ông Lai đề nghị.
XUÂN TOÀN - CẦM VĂN KÌNH
Lãi lớn nhờ nợ cũ lãi cao
Mặc dù tín dụng tăng trưởng âm, nguồn thu từ dịch vụ
hạn chế nhưng lợi nhuận của các ngân hàng (NH) vẫn tăng cao so với cùng
kỳ năm 2011.
Các NH thương mại có vốn nhà nước chi phối như
Vietinbank, Vietcombank đều bị giảm dư nợ tín dụng với mức giảm lần lượt
là -0,64% và -0,57% trong quý 1, tuy nhiên lợi nhuận của Vietinbank
tăng trưởng đến 60%. Theo các NH, nguồn thu chính trong tổng lợi nhuận
chủ yếu đến từ hoạt động cho vay. Ông Lê Đức Thọ, phó tổng giám đốc
Vietinbank, cho biết nguồn thu từ hoạt động cho vay chiếm khoảng 70%
tổng lợi nhuận, 30% còn lại đến từ các nguồn khác.
Phó tổng giám đốc một NH cổ phần tại quận 1, TP.HCM xác
nhận cơ chế thỏa thuận lãi suất (LS) cho vay trong khi giới hạn trần LS
huy động cũng mang lại lợi thế cho các NH. Thời gian qua, trần LS huy
động giảm rất nhanh, trong khi LS cho vay vẫn bị ràng buộc bởi chu kỳ
thay đổi LS cũng như các điều khoản trong hợp đồng ký kết với khách
hàng. Do vậy, NH có điều kiện duy trì LS cho vay cao trong thời gian lâu
hơn. Chưa kể, dù tăng trưởng tín dụng âm tuy nhiên các NH vẫn có nguồn
thu từ các hợp đồng cho vay cũ. Đặc biệt việc trì hoãn hoặc giảm không
đáng kể LS cho các hợp đồng vay cũ cũng mang lại lợi nhuận không nhỏ cho
các NH.
Theo vị phó tổng giám đốc này, hiện nay những NH cổ
phần lớn, có dịch vụ tốt thì nguồn thu từ tín dụng vẫn chiếm trên 60%,
những NH quy mô trung bình nguồn thu từ tín dụng từ 70-75%, còn những NH
cổ phần mới thành lập, NH từ nông thôn lên đô thị, nguồn thu từ lãi vay
chiếm 90-95%. Ngay cả NH lớn như Eximbank, lợi nhuận từ các hoạt động
dịch vụ, kinh doanh ngoại hối, đầu tư chứng khoán, thu nhập góp vốn mua
cổ phần trong quý 1 đều giảm mạnh so với cùng kỳ năm 2011 do tình hình
kinh tế khó khăn, doanh nghiệp có xu hướng hạn chế sử dụng các dịch vụ
của NH để có thể tiết kiệm các chi phí đầu vào.
Theo một chuyên gia kinh tế cấp cao, nghịch lý tăng dư
nợ thấp, nguồn thu từ tín dụng lại cao cho thấy tỉ lệ lãi biên tại các
NH rất cao. Trong điều kiện hiện nay, việc NH Nhà nước giới hạn trần LS
đầu vào trong khi lại thả nổi LS đầu ra là cơ hội vàng giúp các NH có
lãi lớn.
Điều này có thể minh chứng từ số liệu thống kê mới đây
của NH Nhà nước TP.HCM. Theo thống kê của NH Nhà nước TP.HCM, tính đến
ngày 29-5, tức gần một tháng triển khai áp trần lãi vay, chỉ có 650
doanh nghiệp tiếp cận được vốn ưu đãi với tổng dư nợ gần 7.000 tỉ đồng.
Trao đổi với Tuổi Trẻ, ông Nguyễn Hoàng Minh, phó giám đốc NH Nhà nước
TP.HCM, cho biết đến nay một số lĩnh vực vẫn phải vay theo LS thỏa thuận
lên đến 17,5-18%/năm.
Tuy nhiên, theo các NH, ngoài yếu tố nguồn thu từ tín
dụng còn có nguyên nhân khác ảnh hưởng đến lợi nhuận của các NH chính là
cách thức mà các NH thương mại trích dự phòng rủi ro tín dụng. Với việc
nhiều NH giảm trích lập dự phòng hoặc trích lập dự phòng chưa đầy đủ,
thì mức lợi nhuận có được sẽ ở mức cao hơn nhiều so với mức lợi nhuận
nếu trích lập đầy đủ. Chưa kể, nhiều NH báo lãi cao nhưng nếu trích lập
dự phòng rủi ro đầy đủ thì gần như lợi nhuận không còn.
ÁNH HỒNG
|
Còng lưng trả lãi ngân hàng
Sản xuất giấy vệ sinh cao cấp tại Nhà máy giấy Sài Gòn - Mỹ Xuân trong Khu công nghiệp Mỹ Xuân A, huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu - Ảnh: THANH ĐẠM |
Đầu tư đến 2.000 tỉ đồng cho dự án Nhà máy
giấy Mỹ Xuân 2 vào thời điểm năm 2007, hiện Công ty cổ phần
Giấy Sài Gòn vẫn đang trong quá trình trả nợ với số lãi phải
trả năm sau cao hơn năm trước. Ông Cao Tiến Vị, chủ tịch HĐQT,
cho biết nếu như năm 2009 số lãi phải trả xấp xỉ 45 tỉ đồng
thì năm 2010 nhảy vọt lên 60 tỉ đồng, năm 2011 là 80 tỉ đồng và
dự kiến năm 2012 là 200 tỉ đồng. “Ba năm nay, mở mắt ra tôi phải
tìm đủ mọi cách để trả lãi vay ngân hàng, khi mà lãi suất
từ 12%/năm đã vọt lên ngoài 22%/năm, thậm chí có thời điểm tôi
đã phải trả khoản lãi vay với mức 24%/năm” - ông Vị nói. Để
có tiền trả lãi cho dự án thứ hai này, toàn bộ lợi nhuận
của nhà máy hiện tại đều “đổ hết” vào đây.
Ông Nguyễn Phúc, giám đốc Công ty TNHH may mặc
Coxmo (TP.HCM), cho biết ông vừa vay 1,5 tỉ đồng chuẩn bị nhập
nguyên liệu cho đợt hàng sản xuất mới với lãi suất 18%/năm.
Theo ông Phúc, dù đáp ứng đầy đủ tiêu chí vừa và nhỏ, nhưng
các ngân hàng vẫn không thể giải quyết cho ông mức lãi suất
14%/năm như yêu cầu của Ngân hàng Nhà nước. “Họ nói sẽ giải
quyết cho tôi mức lãi suất 14%/năm với điều kiện ngoài phần
lãi gốc hằng tháng phải trả, lãi suất tôi vẫn phải trả 14%/năm
trên tổng mức đã vay, bất kể tôi có trả bớt lãi gốc hàng bao
nhiêu tháng đi chăng nữa. Tính toán kiểu này, thà tôi chịu mức
lãi suất 18%/năm còn hơn!” - ông Phúc ngao ngán nói. Theo tính
toán của ông Phúc, năm ngoái chỉ tính riêng tiền lãi ông phải
trả cho các khoản vay tròm trèm 1 tỉ đồng. Dự kiến năm 2012 số
lãi phải trả tầm 600-700 triệu đồng, “không phải vì lãi suất
hạ mà vì tôi đã vay ít lại. Nói thật tiền lời làm ra cũng
không đủ trả tiền lãi nên vay nhiều càng... khổ. Nhưng không vay
thì không được” - ông Phúc nói.
Cũng chịu cảnh “mở mắt ra chưa làm gì phải
tính tiền trả lãi vay ngân hàng”, ông L.M., phụ trách tài chính
Công ty TNHH HB hoạt động trong lĩnh vực sản xuất kính xây dựng
(Q.5, TP.HCM), cho rằng dù lãi suất cho vay hiện tại có hạ,
còn 17%/năm thay vì 20%/năm như công ty ông vay cách đây vài tháng,
nhưng mức lãi suất như vậy vẫn là quá cao so với sức chịu
đựng của doanh nghiệp. Với số vốn lưu động cần phải vay khoảng
20 tỉ đồng với lãi suất 17%/năm, ông M. tính sơ sơ mỗi tháng
tiền lãi ông phải trả khoảng 400 triệu đồng, bất kể tháng đó
lượng hàng bán ra có tốt hay không. Năm ngoái, ước tổng tiền
lãi vay ngân hàng mà công ty ông phải trả trên 7 tỉ đồng. “Năm
2012 tổng tiền lãi phải trả chắc khoảng 5 tỉ đồng vì chúng
tôi đã siết lại các khoản vay, chỉ vay những khoản thật cần
thiết.
Theo ông Đỗ Duy Thái - tổng giám đốc Công ty cổ
phần Thép Việt (Pomina), những doanh nghiệp đầu tư trong lĩnh
vực công nghiệp nặng như Pomina “tiền trả lãi cho ngân hàng luôn
ám ảnh không ngừng!”. Theo ông Thái, chỉ tính sơ tiền lãi phải
trả cho các khoản vay cố định (đầu tư dây chuyền thứ hai sản
xuất thép) hay các khoản vay lưu động mất đứt xấp xỉ 2 tỉ
đồng/ngày. “Lúc nào đầu tôi cũng phải căng ra để tính toán sao
cho bài toán kinh doanh đạt mức hiệu quả cao nhất. Vì nếu
không, làm sao có đủ để trả lãi vay khi mà các dự án đầu tư
đều ở trong trạng thái không thể dừng lại được” - ông Thái chia
sẻ.
Tương tự, ông Nguyễn Tôn Quyền, phó chủ tịch Hiệp hội
Gỗ và lâm sản VN, cho biết hầu hết các doanh nghiệp bị tồn kho, có nơi
tồn kho 30-40% mà phải chịu lãi suất cao đã khiến nhiều khoản vay ngân
hàng tự nhiên trở thành nợ xấu. Chính mức lãi suất cao của ngân hàng đã
khiến nhiều doanh nghiệp đáng ra có lãi, có thể trả nợ đã trở nên lỗ,
không thể trả nổi. “Nếu lãi suất chỉ 14-15% họ có thể hòa hoặc lãi chút
ít, phát triển sản xuất” - ông Quyền nói.
T.V.N. - C.V.K
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét